Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

"Hà Nội - 70 năm Thủ đô Anh hùng": Thiết lập và giữ vững an ninh trật tự sau ngày tiếp quản Thủ đô

 

Cách đây gần 70 năm, Hà Nội-Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) bước sang trang sử mới. Sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và tay sai, ngày 10-10-1954, Hà Nội rợp cờ hoa đón chào Quân giải phóng về tiếp quản. Những ngày đầu tiếp quản Thủ đô, việc thiết lập và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ rất quan trọng, nhưng các lực lượng, nòng cốt là LLVT Thủ đô đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Năm 1954, ở Hà Nội có các đảng phái chính trị phản động hoạt động với mưu đồ chống phá cách mạng. Có đảng chuyển hướng hoạt động, âm mưu phá hoại hòa bình ở Đông Dương, xúc tiến tổ chức lực lượng chống lại chính quyền cách mạng khi vào tiếp quản, tuyên truyền xuyên tạc việc ký Hiệp định Geneva. Chúng âm mưu thành lập trung đoàn Thủ đô, tự vệ thành đội, an ninh và địa phương quân, gồm những phần tử lưu manh, trộm cướp... Chúng dùng truyền đơn, khẩu hiệu với nội dung: Ký hiệp định là chia sẻ đất nước; thuế má nặng nề; dụ dỗ quần chúng di cư vào Nam; xuyên tạc chủ trương, chính sách của Chính phủ; cho đảng viên quấy rối trong nhân dân...

Trước tình hình trên, ngày 19-10-1954, Ủy ban Quân chính (UBQC) ra thông cáo về bảo đảm trị an. Bản thông cáo nêu rõ 3 nội dung: Đề phòng hành động xâm phạm phá hoại tài sản, tính mệnh của nhân dân như ám hại, cướp của, phá hoại...; những hành động phá hoại tài sản chung của thành phố đều bị nghiêm trị; thực hiện chế độ thưởng-phạt đối với những ai khai báo hoặc cất giữ những thông tin về kho tàng bí mật, vũ khí, đạn dược, tài liệu của quân đội Pháp và Bảo Đại trong thành phố.

Thông cáo của UBQC cũng yêu cầu quân đội Pháp, Bảo Đại phải tuân theo kỷ luật, trị an thành phố. Những sĩ quan, binh lính trong quân đội Pháp và Bảo Đại còn lại trong thành phố phải đến khai báo và nộp vũ khí (nếu có) cho UBQC thành phố. Những ai thành thực sẽ được giúp đỡ, cho về quê làm ăn hoặc công tác với Chính phủ, nếu không sẽ bị nghiêm trị. Trong nhân dân, ai thấy những kẻ côn đồ, gián điệp có âm mưu phá hoại, cướp của, giết người phải báo ngay cho UBQC, sở công an, các quận, các đồn công an gần nhất. Ai biết nơi chôn giấu vũ khí, điện đài, hồ sơ, tài liệu của quân đội Pháp và Bảo Đại phải nhanh chóng khai báo, đem nộp cho UBQC. Nếu ai có vũ khí riêng phải đến trình báo với cơ quan công an gần nhất; không cá nhân, đoàn thể nào có quyền dùng và giữ đài phát tin ngoại trừ UBQC; nghiêm cấm mọi hành vi phá hoại, trộm cắp tài sản công cộng của thành phố như công xưởng, kho tàng, trường học, bệnh viện...

Nhiệm vụ tuần tra, canh gác, bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ tài sản công cộng được UBQC thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chỉ đạo thực hiện. Ngày 21-10-1954, Chủ tịch UBQC ra chỉ thị, trong đó nhắc nhở tăng cường cảnh giác, xem xét chu đáo giấy tờ trước khi cho người vào vị trí của cơ quan, đơn vị. Dưới sự quản lý, điều hành của UBQC, LLVT Thủ đô và các đơn vị duy trì trật tự trị an trong thành phố nhanh chóng ổn định, bảo vệ được tài sản của nhân dân và tài sản công cộng; tổ chức chu đáo việc ghi tên của cảnh binh, sĩ quan, binh lính trong quân đội Pháp và Bảo Đại; duy trì mọi sinh hoạt bình thường của thành phố, đặc biệt là không để gián đoạn hoạt động của những xí nghiệp lợi ích công cộng; bảo đảm cung cấp các nhu yếu phẩm.

Căn cứ chủ trương của Đảng, LLVT Thủ đô tổ chức cho các đối tượng là ngụy quân, ngụy quyền, mật thám của địch ra trình báo. Qua công tác đăng ký khai báo, kết hợp với công tác trinh sát, ta nắm được 12.000 đối tượng, trong đó có 230 sĩ quan và gần 2.900 hạ sĩ quan ngụy quân, 7.800 ngụy quyền, trong đó có 452 người làm tại cơ quan gián điệp, mật vụ, 416 tên chỉ điểm. LLVT Thủ đô tích cực trấn áp bọn chống đối hiện hành; tăng cường công tác bảo vệ cơ quan, xí nghiệp; nghiêm trị số cầm đầu các nhóm lưu manh, thu hồi vũ khí, vật liệu nổ; quản lý giao thông; quản lý nhân khẩu, hộ khẩu...

Nhìn chung, công cuộc tiếp quản Thủ đô Hà Nội và hai tỉnh Hà Đông, Sơn Tây diễn ra trong không khí phấn khởi, trật tự, hòa bình theo đúng kế hoạch. Chỉ trong vòng một tháng sau tiếp quản, LLVT Thủ đô, Hà Đông, Sơn Tây ổn định các mặt công tác, thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự Thủ đô và vùng mới giải phóng. Công tác tiếp quản, bảo đảm an ninh trật tự những ngày đầu Thủ đô và vùng rộng lớn ở Hà Đông, Sơn Tây mới được giải phóng đã được tiến hành tốt dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, thành ủy, tỉnh ủy, ủy ban hành chính địa phương và sự nỗ lực phi thường của cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô.

 

Giúp dân ổn định sau mưa lũ

 

Những ngày qua, tại tỉnh Thái Nguyên, hàng trăm hộ gia đình ở khu vực ven sông Cầu bị ngập sâu trong biển nước. Trước tình hình đó, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Thông tin 601 (Quân khu 1) đã khẩn trương giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả sau bão.

Hiện nay, mực nước ở TP Thái Nguyên đã dần rút xuống, nhưng để lại nhiều thiệt hại nặng nề. Ngay khi tiếp nhận thông tin từ địa phương, Lữ đoàn Thông tin 601 đã huy động hơn 500 cán bộ, chiến sĩ có mặt tại khu vực được phân công, nhanh chóng phối hợp với lực lượng chức năng, khảo sát, đánh giá tình hình và khẩn trương khắc phục hậu quả thiên tai. Theo đó, đơn vị đã tham gia hỗ trợ khơi thông cống rãnh, di dời nhiều tài sản, dọn dẹp vệ sinh đường phố, trụ sở cơ quan, trường học, nhà cửa trên địa bàn, giúp nhân dân nhanh chóng ổn định cuộc sống.

Là một trong những gia đình chịu ảnh hưởng nặng nề bởi bão số 3, anh Vũ Thanh Hà, trú tại tổ 2, phường Chùa Hang (TP Thái Nguyên) chia sẻ: “Sau bão, nước dâng lên quá nhanh khiến gia đình tôi không kịp trở tay. Nhiều thiết bị điện tử và tài sản khác trong nhà bị hư hỏng nặng. Sau khi nước lũ rút để lại lượng bùn đất cao hơn 1m khiến gia đình không thể sinh hoạt được. Nhưng may mắn, gia đình tôi đã được cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Thông tin 601 giúp đỡ dọn dẹp lại nhà cửa”. Cùng chung cảnh ngộ với anh Hà, gia đình chị Nguyễn Linh Chi ở tổ 2, phường Chùa Hang, bị nước lũ cuốn trôi cả một kho hàng có giá trị, khiến gia đình chị phải sơ tán. Nhìn lại đống đổ nát, chị Linh Chi xúc động bày tỏ niềm vui mừng khi có bộ đội đến tận nhà nhiệt tình hỗ trợ dọn dẹp, vận chuyển đồ đạc, gạt bùn đất từ trong nhà ra đầu ngõ.

Tại các địa điểm cứu hộ, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Thông tin 601 gặp khá nhiều khó khăn, bởi thời tiết vẫn tiếp tục mưa to, gây sạt lở, khối lượng bùn đất trên các tuyến đường cũng như tại các hộ gia đình rất lớn. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị phải hành quân bộ hàng chục cây số, không quản vất vả, hiểm nguy để đến những địa điểm hỗ trợ nhân dân. Theo Đại tá Nguyễn Bá Vịnh, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Thông tin 601, sau những ngày làm việc liên tục, với tinh thần khẩn trương và chuẩn bị chu đáo, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Thông tin 601 đã khắc phục được một số hậu quả do thiên tai gây ra. Hơn 30 tuyến đường lớn nhỏ được khai thông, hàng trăm căn nhà được gia cố vững chắc, dọn dẹp sạch sẽ để giúp người dân sớm ổn định cuộc sống. Cùng với đó, đơn vị đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, lực lượng y tế tổ chức phun khử khuẩn phòng, chống dịch sau lũ lụt cho hơn 100 hộ dân. Đơn vị đã trực tiếp hỗ trợ hơn 300kg lương khô cho các gia đình bị cô lập, gia đình chính sách bị ngập sâu...

Hành động kịp thời hỗ trợ, giúp dân trước và sau thiên tai của Lữ đoàn Thông tin 601 đã để lại tình cảm sâu đậm trong lòng bà con trên địa bàn, được cấp ủy, chính quyền địa phương đánh giá cao. Qua đó thể hiện sâu sắc tình cảm quân dân và tô sáng thêm phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.

 

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý thời kỳ mới

 

Trong thời bình hiện nay, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục sử dụng chiến tranh tâm lý với phương thức và thủ đoạn được “nâng cấp”, trong đó tích cực lợi dụng công nghệ thông tin, truyền thông hiện đại nhằm xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh với thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch là việc làm rất cần thiết.

Sự nguy hại từ âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý

Chiến tranh tâm lý là các hoạt động phá hoại tâm lý của đối phương; các thủ đoạn của đấu tranh tư tưởng tác động vào tâm lý con người, xã hội của đối phương, nhằm tạo ra những xung đột tư tưởng, lý tưởng, niềm tin, lợi ích và quyền lợi chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị văn hóa... Từ đó gây ra mất đoàn kết, khủng hoảng và xung đột nội bộ, suy giảm tinh thần chiến đấu, dẫn đến phe cánh, bè phái, nội chiến rồi tự suy sụp, tan rã.

Trong thời bình, các thế lực thù địch thường coi chiến tranh tâm lý là “vũ khí chiến lược” hòng làm thay đổi sắc thái hòa bình, khiến cho hòa bình chính trị mất đi tính chất yên ổn, từ đó thừa cơ thực hiện tham vọng đen tối. Lợi dụng sự phát triển của khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, chiến tranh tâm lý trong thời bình mang những màu sắc tinh vi, khó nhận diện cho đến khi nó xuất hiện trên cả không gian thực và không gian ảo. Do đó, nguy cơ tác động từ chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch đến tư tưởng, tâm lý con người là rất khó kiểm soát.

Công cụ, lực lượng trực tiếp và chủ yếu tiến hành chiến tranh tâm lý là các cơ quan tình báo, các trung tâm truyền thông đại chúng, tổ chức phi chính phủ của một số quốc gia. Ngoài ra, cũng có một số người Việt Nam lưu vong cũng tham gia hành động này. Hoạt động tuyên truyền chiến tranh tâm lý đối với các tầng lớp nhân dân thông qua việc chuyển và tán phát tài liệu chống đối trong nước; tác động, lôi kéo phát triển lực lượng nội địa, xâm nhập vào hệ thống chính trị của ta. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi năm ta đã phát hiện hàng nghìn tài liệu có nội dung chiến tranh tâm lý, tài liệu tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước được tán phát vào Việt Nam. 

Các đối tượng còn lập ra và sử dụng các đài phát thanh và truyền hình, các báo, tạp chí điện tử có trụ sở ở nước ngoài để tuyên truyền chiến tranh tâm lý. Họ thường xuyện lợi dụng các phương tiện truyền thông này để đưa nhiều nội dung thông tin xuyên tạc về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước hòng gây bất lợi đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. Thi thoảng họ phát động những chiến dịch nhằm thổi phồng những khó khăn phức tạp trong xã hội; xuyên tạc tình hình đất nước, lợi dụng tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để kích động tâm lý bất bình, bất mãn trong xã hội hòng lôi kéo quần chúng nhân dân vào các hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước ta.

Tạo sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh 

 Phòng, chống chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch là vấn đề khó khăn, phức tạp. Trên thực tế hiện nay, còn không ít người đang mơ hồ về chiến tranh tâm lý. Một bộ phận người dân do nhận thức hạn chế nên không nhận diện được các thủ đoạn chiến tranh tâm lý; thậm chí một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những người đã được rèn luyện, thử thách qua các thời kỳ cách mạng, song do chủ quan, mất cảnh giác trong nhận thức nên đã “sập bẫy” chiến tranh tâm lý và vô hình trung trở thành người cổ xúy cho các thế lực chống phá Đảng, Nhà nước.

Do vậy, để các tầng lớp nhân dân có nhận thức tốt hơn về chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành, các địa phương, cơ sở phải chủ động tuyên truyền, trang bị cho cán bộ, đảng viên, nhân dân những hiểu biết cơ bản về phương thức, thủ đoạn, kỹ thuật tiến hành chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Đây là cơ sở, yêu cầu hàng đầu nhằm góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch.

Cần phải đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng thiết lập và sử dụng các trang thông tin chính thống, website, mạng xã hội, diễn đàn để đăng tải những bài viết tuyên truyền về quan điểm chính thống, định hướng dư luận, đồng thời đấu tranh phản bác các thông tin chiến tranh tâm lý nguy hại của các thế lực thù địch. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, có tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông của Đảng, Nhà nước để đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả.

Chủ động cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng trong mặt trận đấu tranh tâm lý. Với phương châm chỉ đạo công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu, không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá Đảng và Nhà nước, các cơ quan chức năng cần quan tâm nghiên cứu biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo để phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho các lực lượng. Việc chậm trễ cung cấp thông tin và sự thiếu chủ động trong việc định hướng dư luận chính là tự tạo ra "khoảng trống" thông tin, là mầm mống nảy sinh những biểu hiện bất lợi về tâm lý, tư tưởng trong xã hội; ở mức độ đơn giản là nảy sinh những đồn đoán tùy tiện, ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị các cấp.

Thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu nêu trên chắc chắn sẽ tạo ra hiệu quả trong phòng, chống, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch, phản động hiện nay.

 

Một số giải pháp phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến trong công tác thi đua, khen thưởng khối các cơ quan của Đảng

 Phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến nhằm đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong phong trào trào thi đua khối các cơ quan của Đảng từ năm 2014 đến nay đã đóng góp quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. 

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến khối các cơ quan của Đảng đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến trong thực hiện phong trào thi đua yêu nước khối các cơ quan của Đảng từ năm 2014 đến nay còn có một số hạn chế về nhận thức, tổ chức thực hiện. Vì vậy, cần có những giải pháp phù hợp, hiệu quả để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước khối các cơ quan của Đảng, cụ thể:

Một là, cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước.

Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến. Qua đó huy động được sức mạnh của tập thể, tinh thần tương trợ giúp đỡ nhau trong thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan. Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Thi đua phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, gắn liền với tổng kết, rút kinh nghiệm và khen thưởng. Vì vậy, cần hết sức chú trọng tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực tham mưu, đề xuất, năng lực thực tiễn, năng lực phát hiện và tổ chức thực hiện của đội ngũ thành viên hội đồng thi đua - khen thưởng các cấp, cán bộ lãnh đạo quản lý, chuyên trách và kiêm nhiệm làm công tác thi đua, khen thưởng” (1). 

Đã có nhiều chỉ thị, quy định về đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng: Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 3-8-1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về đổi mới công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn mới; Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21-5-2004 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến; Kết luận số 83-KL/TW ngày 30-8-2010 của Ban Bí thư (khóa X) về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 7-4-2014 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”; Quyết định số 1526/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Tuyên truyền gương điển hình tiên tiến giai đoạn 2022 - 2025".

Trên cơ sở những quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, khối các cơ quan của Đảng căn cứ vào tính chất công việc, đặc điểm tình hình để xác định nội dung, chỉ tiêu thi đua phù hợp, hiệu quả, tránh tình trạng đưa ra chỉ tiêu, nội dung quá cao, không phù hợp với điều kiện, tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; hoặc lựa chọn những cá nhân để bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến không chính xác sẽ không cỗ vũ, động viên được mọi người nỗ lực phấn đấu vươn lên trong công tác, thậm chí cản trở, kìm hãm sự phát triển đi lên của cơ quan, đơn vị. 

Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu khối các cơ quan của Đảng tích cực, chủ động tuyên truyền, phổ biến đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chương trình, kế hoạch thực hiện các phong trào thi đua yêu nước; lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao, hiệu quả, nâng cao năng lực làm việc của mỗi cá nhân được phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến, thật sự là tấm gương mẫu mực trong mọi hoạt động trong toàn cơ quan, đơn vị. Việc tổng kết các phong trào thi đua yêu nước để biểu dương, khen thưởng cá nhân được phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến cần được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. 

 Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu trong phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến.

Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu khối các cơ quan của Đảng có vai trò quan trọng trong phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước. Trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến; xây dựng niềm tin của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; tổ chức các hoạt động để mỗi tổ chức, cá nhân có môi trường được cống hiến, phát huy năng lực bản thân. Đánh giá đúng năng lực, sở trường, thế mạnh của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý, từ đó, phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến phù hợp, hiệu quả, đạt được mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. 

Thường xuyên quan tâm, chăm lo đến đời sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là những cá nhân nằm trong diện bồi dưỡng, tạo nguồn trong thực hiện các phong trào thi đua của cơ quan, đơn vị. Luôn gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp, tác phong công tác. Nói ít làm nhiều, làm nhiều hơn nói; lời nói và hành động đi liền với nhau. Bám nắm thực tiễn để kịp thời phát hiện những nhân tố mới tích cực trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Ba là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo nội dung, hình thức, biện pháp phát hiện điển hình tiên tiến.

Vận dụng linh hoạt, sáng tạo nội dung, hình thức, biện pháp phát hiện điển hình tiên tiến có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện sự sáng suốt, nhìn nhận đánh giá đúng của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan đối với mỗi cá nhân. Qua đó, xây dựng niềm tin của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vào tổ chức, tin tưởng những công hiến, đóng góp của bản thân sẽ được ghi nhận, tôn vinh xứng đáng. Việc tiến hành phong phú, đa dạng các nội dung, hình thức, biện pháp phát hiện sẽ là một tiêu chí quan trọng để lựa chọn điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua. Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần tổ chức cho cấp dưới thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Qua hoạt động thực tiễn, từng cá nhân sẽ nỗ lực, phát huy khả năng, sáng kiến, kinh nghiệm của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cùng đó là mong muốn được cấp trên đánh giá, ghi nhận, biểu dương. Trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, về đổi mới nâng cao chất lượng công tác thi đua khen thưởng trong tình hình mới.

Phát huy vai trò nêu gương của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị để phát hiện điển hình tiên tiến. Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần gương mẫu trong lời nói và hành động, quán triệt và chấp hành nghiêm quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, thật sự là tấm gương mẫu mực trong công việc, đời sống hằng ngày. Có lối sống chân thành, giản dị, gần gũi, biết thông cảm, chia sẻ với khó khăn, vất vả của cấp dưới; không nạt nộ, trách móc khi cấp dưới hoàn thành công việc ở mức độ thấp, thay vào đó là giúp đỡ, động viên, khích lệ để cấp dưới cố gắng, nỗ lực hơn. 

Các đồng chí trong cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải thực sự là chỗ dựa vững chắc về tinh thần để cấp dưới tin tưởng giải bày những tâm sự, bày tỏ mong muốn, nguyện vọng và đề xuất những giải pháp, sáng kiến trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Công bằng, dân chủ trong đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của cấp dưới. 

Bốn là, làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến.

Công tác biểu dương, khen thưởng có vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động của cơ quan, đơn vị, nhất là đối với việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến. Thông qua biểu dương, khen thưởng đúng người, đúng việc sẽ khích lệ, cổ vũ phong trào thi đua trong toàn cơ quan, đơn vị. Nếu biểu dương, khen thưởng không đúng người, đúng việc sẽ cản trở sự phát triển của cơ quan, đơn vị. Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể trong bình xét khen thưởng, lấy hiệu quả công việc, khả năng giải quyết các mối quan hệ công tác trong tập thể làm tiêu chí, thước đo đánh giá cấp dưới; tôn trọng và lắng nghe những ý kiến phản hồi từ cấp dưới về đánh giá năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của những tập thể, cá nhân được bình xét, khen thưởng. Những tấm gương “người tốt, việc tốt” được lựa chọn khen thưởng phải thực sự tiêu biểu về năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống, uy tín, được tập ghi nhận. Vì vậy, trong quá trình khen thưởng, cấp trên cần căn cứ vào đề nghị của cấp dưới đưa lên, tuyệt đối không được định hướng cho cấp dưới trong quá trình bình bầu, hoặc bình bầu theo cảm tính. Phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong bình xét khen thưởng. Thực hành dân chủ, công khai, minh bạch đối với những cá nhân được phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến. Cần tuyên truyền, lan tỏa các gương điển hình tiên tiến, nhất là trên cá phương tiện truyền thông đại chúng.

Năm là, phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể trong thảo luận, đánh giá rút kinh nghiệm quá trình thực hiện các phong trào thi đua yêu nước. 

Đây là việc làm rất quan trọng, cần thiết của các cơ quan, đơn vị, bảo đảm cho việc tôn vinh, khen thưởng điển hình tiên tiến đạt hiệu quả. Dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới, phát huy dân chủ, trí tuệ của tập thể trong thảo luận, đánh giá rút kinh nghiệm quá trình thực hiện các phong trào thi đua yêu nước tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong cơ quan, đơn vị. Đồng thời, thể hiện sự nghiêm túc trong thẳng thẳn nhìn nhận, đánh giá nội dung công việc, không giấu giếm khuyết điểm, hạn chế, thiếu xót, sẵn sàng nhận trách nhiệm về mình của mỗi cá nhân để thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững của cơ quan, đơn vị. Với tinh thần này, trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần nêu cao tinh thần, trách nhiệm trong thảo luận, góp ý về việc phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, có chính kiến rõ ràng trong đánh giá, bình xét, từ đó, giúp cho cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị có thêm những thông tin cần thiết để biểu dương, tôn vinh điển hình tiến tiến; bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách về thi đua, khen thưởng ở cơ quan, đơn vị. 

Phản bác luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

 Gần 80 năm qua, sự ra đời và phát triển của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với những thành tựu to lớn đạt được đã khẳng định tính cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch luôn tìm cách bóp méo, xuyên tạc tư tưởng, phủ nhận công lao của Người về vấn đề này. Đó là dã tâm đen tối, luận điệu trơ trẽn, phản động cần phải vạch trần, bác bỏ.

Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh - từ lý luận đến thực tiễn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới là hệ thống luận điểm về bản chất, tính chất và yêu cầu xây dựng một nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đối lập với mô hình nhà nước của thiểu số kẻ thống trị. Với khát vọng tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần quan điểm “chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội”, nhưng theo Người, vấn đề quan trọng là bản chất của chính quyền nhà nước đó. Trên cơ sở dày công nghiên cứu các mô hình nhà nước đương thời, nhất là nhà nước tư sản ở Mỹ, Pháp,... Người nhận thấy, mặc dù mô hình nhà nước tư sản có những bước tiến bộ hơn so với nhà nước phong kiến chuyên chế, nhưng về bản chất, các nhà nước đó vẫn chỉ là sự thay thế ách thống trị của giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác. Chỉ sau khi nghiên cứu về nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Người khẳng định: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ,...”1. Người cũng chỉ rõ “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra”2. Điều này có nghĩa là mọi lợi ích, quyền hành, lực lượng đều thuộc về dân và trách nhiệm xây dựng nhà nước là của toàn dân. Trên thực tế, ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẩn trương chỉ đạo tổ chức tổng tuyển cử, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật, đặc biệt là xây dựng Hiến pháp để đảm bảo cho Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, pháp quyền. Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là cơ sở lý luận trực tiếp, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng nhà nước ta từ khi ra đời đến nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự đồng lòng, tin tưởng và ủng hộ của nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, thực sự là nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, sau gần 40 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày càng hoàn thiện và có những bước phát triển mới, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đóng góp vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Điều đó càng khẳng định và minh chứng giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Nhận diện và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc

Với dã tâm, mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, mượn danh “nghiên cứu lịch sử”,… để xuyên tạc và phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; trong đó, xuyên tạc tư tưởng về nhà nước kiểu mới là một trọng tâm của chúng.

Một là, chúng xuyên tạc, cho rằng: “Hồ Chí Minh không tuân thủ mô hình nhà nước công nông binh do Đảng Cộng sản Việt Nam chọn từ năm 1930, mà chọn mô hình nhà nước “cộng hòa” kiểu Pháp, không phải là nhà nước chuyên chính vô sản”. Đây là luận điệu thể hiện rõ mưu đồ đen tối nhằm xuyên tạc và phủ nhận công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc kiến tạo nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng ta biết, trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu kỹ lưỡng các mô hình nhà nước trên thế giới và phác họa mô hình “Chính phủ công nông binh” - nhà nước chuyên chính vô sản. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5/1941), Người đã đề xuất mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu “độc lập - tự do - hạnh phúc”, tạo nền tảng để tập hợp lực lượng và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng thành công, đảm bảo sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản. Người đã soạn thảo và thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” công bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, tên gọi “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” - một quốc gia tự do, độc lập. Trong nhà nước này, nhân dân là chủ nhân, với tất cả quyền hành, lực lượng, lợi ích đều thuộc về dân. Như vậy, việc lựa chọn và đặt tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ mô hình nhà nước công nông binh sang mô hình nhà nước đại diện cho khối đoàn kết toàn dân là bước đi sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, phù hợp với đặc thù và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Đó thực chất vẫn là một nhà nước chuyên chính vô sản, chứ không phải “mô hình kiểu Pháp” như các thế lực thù địch đang bịa đặt, rêu rao.

Hai là, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng viện dẫn việc Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời, bao gồm các đảng phái: Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và mời các nhân sĩ, trí thức tham gia Đoàn Cố vấn tối cao của Chính phủ mới để xuyên tạc rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh áp đặt ở Việt Nam không mang bản chất giai cấp công nhân, mà mang tính chất tư sản, tiểu tư sản”. Phải khẳng định rằng, ngay từ đầu, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam luôn mang bản chất giai cấp công nhân và được thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc. Khi chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”3. Nghĩa là, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, hướng đến mục tiêu đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, ngay sau khi Nhà nước ta ra đời, trước tình thế phải tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai để bảo vệ thành quả cách mạng và chính quyền non trẻ nên việc tập hợp các đại biểu của các đảng phái yêu nước, thậm chí “rút bớt các thành viên cộng sản” để lập chính phủ mới là một sách lược mềm dẻo, sáng tạo và linh hoạt. Điều này thể hiện tầm nhìn và trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, nhằm quy tụ, tập hợp lực lượng và hoàn toàn không phải như các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt.

Ba, phủ nhận tính pháp quyền của nhà nước kiểu mới ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh xây dựng là nhà nước của dân, do dân, vì dân chỉ là mị dân, không có tính pháp lý” và lập luận rằng: “không thể xây dựng một nhà nước dân chủ trong một đất nước nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam; thể chế nhà nước dân chủ chỉ có ở các nước phát triển phương Tây”, v.v. Những luận điệu này thực chất nhằm xóa nhòa những giá trị lý luận và thực tiễn về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo thực hiện. Trên thực tế, ngay từ năm 1919, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu ban hành hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng các đạo luật và khẳng định: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là điểm nổi bật trong xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải có một hiến pháp dân chủ và đề nghị “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay” cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu trong cả nước để sớm có quốc hội và nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra vào ngày 06/01/1946. Sau đó, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ của toàn dân. Như vậy, cả trong tư tưởng và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính pháp lý và vai trò làm chủ của nhân dân trong nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều này đã phản bác hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, cho rằng đó là “nhà nước mị dân, không có tính pháp lý”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chân chính, cả cuộc đời luôn phấn đấu vì dân, vì nước và thực tiễn trong suốt 24 năm đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước, Người đã cống hiến hết mình vì dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân đạt được những thắng lợi to lớn. Mong muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”4, và “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”5. Dù có nhìn ở khía cạnh nào đi chăng nữa, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời, tận trung với nước, tận hiếu với dân, không như những gì các thế lực thù địch bôi nhọ, xuyên tạc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, cùng di sản tư tưởng vô giá, trong đó có tư tưởng về nhà nước kiểu mới. Nắm vững tư tưởng của Người, vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó là hành động thiết thực nhất phản bác, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

 

Bộ đội Cụ Hồ - một di sản văn hóa xứng đáng được tôn vinh trong thời đại ngày nay

 

Lãnh tụ Hồ Chí Minh mang tinh thần phụng sự đất nước và nhân dân vô điều kiện thì đội quân do Người sáng lập và rèn luyện ắt hẳn phải mang những phẩm chất ấy. Một phần của những nét đẹp Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành di sản tinh thần của dân tộc, đồng thời nó vẫn được tiếp tục bổ sung trong thời đại ngày nay. Ít có những phẩm chất nào lại mang tính trao truyền, tiếp nối lâu dài trong đời sống như vậy.

1. Danh xưng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ nói lên một sự thật về người lính cách mạng, người chiến sĩ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, trung thành vô hạn với Tổ quốc và nhân dân, anh dũng tuyệt vời trong chiến đấu và gương mẫu, sống đẹp cả khi đã rời quân ngũ trở về đời thường. Hàng triệu người đã là lính, vị trí của họ cũng rất khác nhau nhưng đều có chung một danh xưng và hầu như tất cả họ (người nhập ngũ đầu tiên đến nay đã ngoài trăm tuổi và người mới nhập ngũ đầu năm nay mới chỉ mười tám tuổi) đều yêu thích, tự hào với tên gọi này. Họ coi đó như một danh hiệu cao quý mà họ cần phấn đấu, bảo vệ, giữ gìn trong đời sống không chỉ của họ, cho họ mà cho truyền thống Quân đội và cho xã hội.

Suốt 80 năm qua, danh hiệu ấy đã đi vào đời sống của đất nước trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực tinh thần, trở thành niềm cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ thuộc đủ loại hình nghệ thuật. Câu nói cửa miệng “Xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” mang biểu tượng cho những gì đẹp nhất của phẩm chất người lính không chỉ trong cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc mà còn cả trong cuộc sống đời thường.

2. Là giá trị văn hóa, danh xưng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ hình thành trong đời sống dân tộc như một quá trình. Dù không có một sự xác định mang tính ràng buộc nào nhưng phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ được mặc định thừa nhận như những phẩm chất ưu tú của người lính được hình thành, tích tụ thành một giá trị rồi tác động tích cực đến môi trường xung quanh. Đó là một quá trình rèn luyện, phấn đấu gian khổ, triệu người như một đến khi kết tinh, hội tụ và lan tỏa như một giá trị tinh thần mẫu mực của phẩm chất người lính.

Sự sàng lọc của thời gian, những thử thách khốc liệt qua mấy cuộc chiến tranh mới định hình nên một tên gọi như vậy. Có thể nói, trong thời gian 9 năm chống thực dân Pháp và những năm tháng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những năm tháng chiến đấu bảo vệ biên giới ở hai đầu đất nước và làm nghĩa vụ quốc tế, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã trở nên thân thuộc, gần gũi mà lừng lững như tượng đài của một dân tộc, gắn với những hy sinh phi thường, lòng quả cảm vô song, thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần quên mình vì đất nước, vì nhân dân. Đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hết lòng hết sức bảo vệ nhân dân với tinh thần “Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” là cội nguồn sức mạnh của đội quân ấy.

Từ thuở thành lập đầu tiên với 34 chiến sĩ, tinh thần ấy đã được xác lập trong 10 lời thề danh dự mà lời thề đầu tiên là: Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam..., làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập, dân chủ, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới. Và điều thứ 9: Khi tiếp xúc với dân chúng, sẽ làm đúng 3 điều nên: Kính trọng dân, cứu giúp dân, bảo vệ dân và 3 điều răn: Không dọa nạt dân, không lấy của dân, không quấy nhiễu dân... thực hiện quân dân nhất trí. 10 lời thề danh dự sau này tuy có điều chỉnh đôi chút về ngôn từ và cho phù hợp với thực tiễn cách mạng nhưng những điều cốt lõi không thay đổi, hai điều trích trên gần như vẫn giữ nguyên vẹn, trở thành 10 lời thề danh dự của người chiến sĩ khi đứng trong hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam.

Điều muốn nói ở đây là, ngay từ lúc Quân đội mới thành lập, tư tưởng giải phóng nhân dân, bảo vệ nhân dân, trung thành với Tổ quốc và gắn bó máu thịt với nhân nhân đã trở thành cốt lõi cho những lời thề danh dự và trở thành tư tưởng xuyên suốt của nghĩa vụ và danh dự người lính, là nguồn gốc của những chiến công và là căn cứ để đánh giá phẩm chất người lính “trung thành vô hạn, anh dũng tuyệt vời”.

Khi đội quân non trẻ ấy mới được hai tuổi quân thì cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Tinh thần “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã được những người lính của Trung đoàn Thủ đô và tự vệ thành Hà Nội thể hiện đặc biệt sáng ngời trong những cuộc chiến đấu không cân sức với xe tăng, đại bác của đội quân thiện chiến Pháp ở khắp các ngõ phố Hà Nội. Những trận đánh đẫm máu ở Nhà đèn, đồn Công an Hàng Trống, chợ Đồng Xuân, Phủ Chủ tịch, ô Chợ Dừa, ô Cầu Dền,... trong những ngày đầu kháng chiến đã viết nên những chương đầu của khúc ca bi hùng của người lính Cụ Hồ. Mà không chỉ có ở Hà Nội, trên tất cả các chiến trường Hải Phòng, Huế, Nha Trang, Sài Gòn..., nơi nào quân xâm lược đặt chân đến đều gặp phải sự kháng cự quyết liệt và anh dũng vô song của những người lính trang bị vô cùng thô sơ nhưng tinh thần chiến đấu thì không có bút mực nào tả được.

Tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" trở thành hành động của lớp lớp người ra trận những ngày đầu đứng trong đội quân vì nhân dân mà chiến đấu. “Lột sắt đường tàu, rèn thêm dao kiếm, áo vải chân không đi lùng giặc đánh” là họ. “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi” không chỉ còn là lời của một bài ca mà là một thực tế và bàn chân người lính “đi đến cùng trời, đi tới cuối đất”, chiến đấu cho đến khi “không còn một tên xâm lược trên đất nước ta” thì những người lính lại trở về bắt tay vào cuộc xây dựng đất nước. Cái “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” của người lính Cụ Hồ trở thành hình ảnh đẹp nhất trong văn học nghệ thuật là vì vậy.

Bộ đội Cụ Hồ là những người lính cụ thể nhưng danh xưng này trở thành một biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của một đội quân vì trong cuộc sống và công tác, họ đã thể hiện những phẩm chất ấy như hành động tự nhiên, vốn có vì ở họ ý thức tự giác vì nước, vì dân đã thấm vào cả nhận thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng của họ. Dũng cảm chiến đấu, hy sinh quên mình trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, nhưng trong thời bình, trong cuộc sống đời thường họ cũng luôn thể hiện những phẩm chất ấy ở những cảnh huống khác nhau. Chính vì điều ấy mà cụ chiến sĩ, ông chiến sĩ, bác chiến sĩ hay anh chiến sĩ đều trở nên gần gũi và được nhân dân yêu mến hết lòng. Bộ đội Cụ Hồ là người cụ thể nhưng danh xưng, danh hiệu này lại nhằm chỉ những phẩm chất đặc biệt về một hình ảnh đặc biệt, mang ý nghĩa biểu tượng của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.

3. Như đã nói ở trên, một nét đẹp văn hóa được hình thành trong đời sống và trở thành giá trị khi nó tỏa sáng, có ý nghĩa kêu gọi người ta hướng đến học tập, phát huy và làm phong phú thêm đời sống tinh thần và trở thành sức mạnh nội sinh cho cá nhân và cộng đồng. Một cách ứng xử đẹp, một hành vi đẹp, một phẩm chất đẹp... rất đáng quý trong đời sống. Nét đẹp của Bộ đội Cụ Hồ mang ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó trở thành một khái niệm có tính hệ thống về hàng loạt phẩm chất tốt đẹp mang giá trị tinh thần của một giai đoạn lịch sử của con người. Điều đặc biệt là không chỉ nói về một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử-thời kỳ chiến tranh, mà cả trong thời bình, trong các quan hệ đời thường, người lính Cụ Hồ vẫn luôn tỏa sáng những phẩm chất ấy.

Ở trong khái niệm này, bộc lộ nhiều giá trị trong nhiều quan hệ: Nghĩa vụ, nghề nghiệp, công việc, tình cảm, quan hệ với đồng đội, nhân dân, quan hệ quốc tế, trong những ứng xử riêng tư... Mới đây, khi những người dân châu Phi - nơi các chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế - hô vang “Hồ Chí Minh, Việt Nam, bộ đội Việt Nam” bằng tiếng Việt để thể hiện lòng biết ơn vì tinh thần tận tụy và quên mình của bộ đội Việt Nam dành cho họ. Và người lính Việt Nam nói về điều này thật giản dị: Chúng tôi là người lính trong Quân đội nhân dân Việt Nam đi ra nước ngoài làm nhiệm vụ quốc tế. Chúng tôi tâm niệm phải xứng đáng với danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ. Điều này phần nào nói lên một sự thực giản dị nhưng không phải người lính của quân đội nào cũng làm được: Bộ đội Cụ Hồ trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn xứng đáng là một nhân cách văn hóa luôn lấy phụng sự Tổ quốc và nhân dân làm kim chỉ nam cho hành động của mình.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh mang tinh thần phụng sự đất nước và nhân dân vô điều kiện thì đội quân do Người sáng lập và rèn luyện ắt hẳn phải mang những phẩm chất ấy. Một phần của những nét đẹp ấy đã trở thành di sản tinh thần của dân tộc, đồng thời nó vẫn được tiếp tục bổ sung trong thời đại ngày nay. Ít có những phẩm chất nào lại mang tính trao truyền, tiếp nối lâu dài trong đời sống như vậy.

Không phải ngẫu nhiên mà trên hầu hết tượng đài gắn với chủ đề chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc ở ta đều có hình ảnh người chiến sĩ và đại diện các tầng lớp nhân dân. Trong thực tế, hình ảnh này phản ánh sự gắn bó máu thịt giữa quân dân nhưng đồng thời nó cũng mang ý nghĩa biểu tượng: Bộ đội Cụ Hồ là bộ đội của nhân dân, con em nhân dân, suốt đời họ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, được nhân dân yêu mến, tin cậy. Đến thời điểm này, danh xưng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ thực sự là một khái niệm có nội dung cụ thể, là một di sản văn hóa xứng đáng được tôn vinh trong thời đại ngày nay.

 

 

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới

 1. Trong hơn 94 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đưa con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để đưa dân tộc tiếp tục tiến lên đang đặt ra cấp bách.

Khái niệm “đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I. Lê-nin nêu ra năm 1922. Từ những năm 1925 - 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu về đảng cầm quyền. Bác coi vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng; Đảng giữ trọng trách to lớn đó vì mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(1),ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”(2), “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(3). Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”(4). Về cách lãnh đạo, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành riêng một mục nói về vấn đề này. Người đã đặt câu hỏi: “Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào?”(5) và trả lời: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…”. 2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…”. 3) Phải tổ chức sự kiểm soát…”(6); và để làm cho đúng cả 3 việc, theo Người, đều phải dựa vào dân.

Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VII của Đảng lần đầu tiên đề cập “đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng”(7), nhấn mạnh cần “quy định cụ thể mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở Trung ương”(8). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”(9); “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(10). Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII khẳng định “Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua các cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà nước”(11). Các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII đều tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng; Đại hội XIII nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”(12). Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” cũng sớm được khẳng định và thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, Hiến pháp và các quy định của pháp luật, cũng như các quy chế, quy định của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các hội quần chúng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng với phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học, thường xuyên được đổi mới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ, sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng đã lập nhiều kỳ tích, đạt được thành tựu vĩ đại. Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 FTA gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân là mục tiêu phấn đấu, Việt Nam được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm sáng về xóa đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

Đồng thời, đã hình thành thể chế chính trị ổn định với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng qua nhiều lần kiện toàn, từng bước định hình, đang tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại. Hệ thống chính trị, nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được xây dựng, hoàn thiện, khẳng định vai trò quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thật sự là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thể chế đó ngày càng khẳng định sự phù hợp và tính ưu việt, được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ, bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Tuy nhiên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Vẫn còn tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều.

2. Để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, bảo đảm Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ; một số công tác trọng tâm, đó là:

Thứ nhất, thống nhất nhận thức và thực hiện cho nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị mà Đảng là hạt nhân; lãnh đạo bằng tư tưởng, đường lối, chính sách và sự tiên phong gương mẫu, thường xuyên tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên; bằng thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; sự vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giới thiệu đại biểu ưu tú vào bộ máy nhà nước và thông qua công tác kiểm tra - giám sát. Đảng cầm quyền bằng pháp luật, lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng chấp hành, “thượng tôn” pháp luật. Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước; quyền lực của đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị, đề ra chủ trương, đường lối, còn quyền lực nhà nước là quyền lực quản lý xã hội trên cơ sở pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảng lãnh đạo toàn diện đất nước và chịu trách nhiệm về mọi thành công, thiếu sót trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Xây dựng các cơ quan tham mưu của cấp ủy thực sự tinh gọn; cán bộ tham mưu có phẩm chất chính trị, có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi, tinh thông nghề nghiệp, trách nhiệm và thông thạo công việc. Nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Đổi mới mạnh mẽ tác phong, lề lối làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, với phương châm “đúng vai, thuộc bài”.

Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện; phải xác định đúng và trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện nghị quyết của Đảng. Việc quán triệt, thực hiện nghị quyết phải tạo ra sự tự nhận thức, tự thấm nhuần, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới. Tập trung xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Đảng kiểm tra, giám sát để công việc được thực hiện tốt hơn, nghị quyết được thực hiện hiệu quả; bộ máy của Đảng, Nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đúng chủ trương, đường lối, đúng người, đúng việc; kịp thời phát hiện nhân tố mới, cách làm hay, sáng tạo; uốn nắn, điều chỉnh những biểu hiện lệch lạc, chệch hướng hoặc ngăn chặn những hành vi sai trái, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy cao độ vai trò kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực. Tập trung chuyển đổi số trong công tác đảng; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở, kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu khác, phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

V.I. Lê-nin đã dạy: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ thuộc loại khác thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”. Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển, đòi hỏi đổi mới không ngừng phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở kiên định các nguyên tắc của Đảng; thấm nhuần lời dạy của Tổng Bí thư Lê Duẩn “Phải lãnh đạo chặt chẽ và có nguyên tắc, không bao giờ lung lay trước những khó khăn, thử thách của cách mạng”./.

 

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: "THẦY MUỐN NHẬN HÀNH LÀ CHÁU NỘI ĐƯỢC KHÔNG?"

     Xem phóng sự trên về học sinh Nguyễn Văn Hành, lớp 12 THPT số 1 Bảo Yên chỉ còn lại một mình trên đời sau trận lũ quét qua Làng Nủ, thầy Nguyễn Xuân Khang lập tức nhắn với tôi: "Em tìm cách liên lạc với cô giáo của em Hành. Nhờ cô khuyên em tiếp tục học hết lớp 12 và có thể học lên nữa. Thầy Khang sẽ nuôi em ăn học, đến lúc đi làm. Em Hành mất bố, nay lũ quét lấy đi người mẹ. Không gì bù đắp được tổn thất tinh thần. Nhưng giúp em tiếp tục học tập thì thầy Khang làm được"!

Điều khiến thầy Khang muốn thật nhanh liên lạc với cô giáo của Hành vì trong phóng sự ấy, Hành nói bây giờ điều em lo lắng nhất là chỉ còn lại một mình trên đời, chắc em phải nghỉ học để đi làm kiếm sống.

Đề nghị của thầy Khang khiến tôi nghẹn lại vì cảm động, tôi tìm xin số của lãnh đạo nhà trường vì nghĩ rằng họ sẽ cùng thầy Khang phối hợp lâu dài trong quá trình giúp đỡ em Hành.

Tôi gửi thầy Khang số điện thoại của cô Hiệu phó Nguyễn Thị Hồng. Thầy gọi cô Hồng, nói với cô mong muốn sẽ hỗ trợ toàn bộ kinh phí học tập, ăn ở, sinh hoạt hàng tháng cho Hành để em yên tâm học tập. 

Cô Hồng bật khóc vì bất ngờ và quá xúc động khi một người thầy ở Hà Nội không hề quen biết, sẵn sàng giúp đỡ học trò của cô trong lúc em lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bế tắc nhất. 

Cô Hồng vào bệnh viện để báo tin vui cho Hành và gọi điện để thầy Khang trực tiếp nói chuyện với em. Thầy hỏi Hành tỉ mỉ từ tình trạng sức khỏe đến việc ăn uống ra sao… rồi nói: "Con hơn cháu nội út của thầy 1 tuổi. Vậy con đồng ý cho thầy nhận con là cháu nội được không?". Hành khóc nghẹn: "Dạ được ạ".

Thế rồi hai ông cháu, một người ở Hà Nội, một người vừa thoát khỏi trận lũ kinh hoàng ở Làng Nủ, thủ thỉ bàn tính đến chuyện tương lai. 

"Ông nội" nói: "Bây giờ ông sẽ giúp con đủ tiền để ăn học. Ông và các cô giáo của con đều muốn con tiếp tục học xong lớp 12 và học lên nữa, con đồng ý không?". Hành lại khóc: "Con đồng ý ạ". 

Thầy Khang hỏi Hành: "Để đủ tiền ăn học thì mỗi tháng con cần bao nhiêu?". Hành vốn chưa từng phải lo toan cuộc sống, trở nên lúng túng không biết trả lời thế nào. Cô Hồng sau khi trao đổi với Hành nói với thầy Khang: "Ở trên này các cháu được khoảng 3 triệu một tháng thì thoải mái rồi ạ". 

Thầy Khang "chốt" ngay, mỗi tháng sẽ cho Hành 3 triệu đồng, khi nào có việc đột xuất cần thêm thì nói với "ông nội". Thầy nhờ cô Hồng mở tài khoản ngân hàng cho Hành để hàng tháng thầy gửi tiền vào tài khoản đó. Đồng thời cũng nhờ cô mua giúp thầy tặng cho Hành một chiếc điện thoại để ông cháu thi thoảng nói chuyện với nhau.

Trong cuộc nói chuyện đầu tiên này, Hành khóc nghẹn khi nói lời cảm ơn thầy Khang và hứa với sẽ học vượt qua nỗi đau mất hết cả gia đình, cố gắng học hành chăm chỉ để tốt nghiệp THPT. Còn học gì sau đó nữa thì Hành xin "ông nội" cho con suy nghĩ thêm…". Thầy Khang động viên: "Con hứa rồi nhé. Cố gắng lên."

Vẫn chưa hết nghẹn ngào và bất ngờ, cô Hồng nói: "Những ngày qua, chúng tôi vừa cắt cử nhau vào chăm sóc, động viên em Hành nhưng trong lòng cũng quặn thắt lo lắng về việc học tập và tương lai của em. Thầy Khang thực sự là một vị cứu tinh của thầy trò chúng tôi"./.
Yêu nước ST.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

TCCS - Với tư cách là đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2011 đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một di sản đồ sộ, quý báu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về các vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam; phòng, chống tham ô, tham nhũng,… đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Di sản của Tổng Bí thư không chỉ trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua, mà còn có giá trị dẫn dắt, định hướng, soi đường cho cách mạng Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những thập niên tiếp theo. Kế thừa và tiếp bước sự nghiệp mà Đồng chí đã vạch ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần học tập, noi theo phẩm chất đạo đức sáng ngời, tinh thần trách nhiệm, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để sự nghiệp của chúng ta đi đến thành công. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy đường của Công ty cổ phần đường Kon Tum _Ảnh: TTXVN Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: kiên định và sáng tạo qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (gọi tắt là Tác phẩm) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2022. Tác phẩm gồm 29 bài viết, đề cập một cách cô đọng những vấn đề trọng yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?... Tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng giai cấp công nhân, nông dân Việt Nam lớn mạnh… Tác phẩm đã chỉ rõ những thành công cũng như những bài học kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực, mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020(1). Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, sự nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng(2). Giáo dục và đào tạo, y tế có bước phát triển. Tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển(3). Trong lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Tác phẩm đã chỉ rõ, trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của Đảng bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Thực tế từ ngày có Đảng, nhân dân ta đã có người lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nhờ thế chúng ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển đất nước. Trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Tác phẩm đã chỉ rõ, trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động, nhạy bén, tích cực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao. Chất lượng điều tra, phá án được nâng lên. Cuộc sống bình yên của nhân dân được bảo vệ. Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, trong hơn 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây, như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...(4). Đảng đã đưa ra một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo là quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà một đặc trưng căn bản, một thuộc tính căn bản là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)(5). Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nền kinh tế đó bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đặc điểm trong phân phối của mô hình kinh tế này, theo đồng chí Tổng Bí thư, là bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Cùng với việc đưa ra lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở thực tiễn, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu phát triển nền văn minh của nhân loại, Đảng ta đã xây dựng và hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bên cạnh đó, lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng được hoàn thiện. Từ việc coi văn hóa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, có giá trị tinh thần và yêu cầu thúc đẩy sự phát triển cân đối và kết hợp hài hòa kinh tế với văn hóa - xã hội (Đại hội VI và Đại hội VII) đến việc coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, mục tiêu của sự phát triển, vừa là động lực, sức mạnh nội sinh cho sự phát triển; văn hóa không chỉ có giá trị tinh thần, mà còn đem lại cả giá trị vật chất, kinh tế; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội (từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 cho đến nay); từ việc xác định mục tiêu xã hội mà chúng ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” (Đại hội VI năm 1986) đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đại hội XI năm 2011 và cho đến nay); từ việc xác định 8 mối quan hệ cần giải quyết trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đại hội XI) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, chúng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn; từ việc xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng (Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991), đến nay là 8 đặc trưng… Đánh giá về những thành tựu trên, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam(6). Đồng thời, Tổng Bí thư cho rằng, đó là do chúng ta kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hợp tác xã chè Hảo Đạt, xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên _Nguồn: thainguyen.gov.vn Tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Nghiên cứu Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong việc tiếp tục kiên định và sáng tạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Như chúng ta đều biết, trong nghiên cứu về sự vận động đi lên của xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định sự phát triển tất yếu của xã hội loài người là sẽ đi đến chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội, là chế độ thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong các nghiên cứu của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra mô hình của xã hội cộng sản và xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai cũng như con đường, biện pháp để đi đến các xã hội đó. Trải qua thời gian, quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn, lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như biện pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển có những thay đổi nhất định, thể hiện quan điểm phát triển, không giáo điều của các ông khi nghiên cứu về sự phát triển xã hội(7). Chính bản thân các ông cũng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(8). Kế thừa các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, khi lãnh đạo nước Nga Xô viết thực hiện cách mạng, xây dựng đất nước, V.I.Lê-nin cũng đã bổ sung một số lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhận định về thời kỳ quá độ cũng như chính sách kinh tế nới (NEP) là một minh chứng cho sự kiên định, đồng thời là sự sáng tạo của V.I.Lê-nin. Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã từng nhắc nhở “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động”(9) và do đó, nếu quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó – tức là phép biện chứng, học thuyết về sự phát triển lịch sử toàn diện và đầy mâu thuẫn; như thế chúng ta sẽ phá hủy sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn nhất định của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của lịch sử”(10). Ông khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”(11). Theo ông, điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở “sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước ‐ dân tộc”(12). Tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có xuất phát điểm là nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là “cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc”(13)... Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong Tác phẩm, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể”(14). Như vậy, có thế thấy, việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ cần phải đặt trong trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, trong đó bao hàm việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ. Với tư cách một chế độ, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công có, mà thất bại cũng đã gặp phải. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, quá trình hiện thực hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt, cần kiên định, giữ vững các nguyên tắc nền tảng; mặt khác, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn cụ thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi, lộ trình phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đòi hỏi chúng ta phải tránh căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Bởi bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Về văn hóa, xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Về chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam(15). Đồng chí Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh rằng, trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó là tình hình thế giới biến động khôn lường, cả về vấn đề sinh thái, vấn đề quan hệ giữa các nước và tác động của công nghệ thông tin tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội tới mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, cá nhân. Điều đó cho thấy, chúng ta cần tiếp tục kiên định và sáng tạo để chủ nghĩa xã hội ngày càng được hiện thực hóa ở Việt Nam. Tại sao phải “kiên định” và “sáng tạo”, “kiên định” và “sáng tạo” có mối quan hệ với nhau như thế nào? Về vấn đề này, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước”(16). Bởi nếu chỉ “kiên định” một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, nhưng nếu không kiên định, mà “đổi mới”, “sáng tạo” một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Chúng ta cần kiên định trong nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Nguyên tắc của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược của chúng ta là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm và tuỳ theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”(17). Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, như đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(18). Theo nghĩa đó, cần nắm vững những nguyên lý nền tảng, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người. Con đường phát triển của nước Việt Nam là không chịu sự chi phối, sự hướng lái của bất cứ thế lực bên ngoài nào và chỉ có con đường của chủ nghĩa xã hội thì mới đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, cho mỗi người dân. Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(19). Đồng thời, cần phải kiên định đường lối đổi mới, bởi chính đường lối đổi mới được thể hiện qua hơn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối này. Cần kiên định với nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi “sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(20), đặc biệt là các nguyên tắc: tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật… Các nguyên tắc này thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Coi nhẹ hoăc bỏ qua một nguyên tắc nào trong các nguyên tắc trên cũng làm cho Đảng suy yếu, mất vai trò lãnh đạo như sự sụp đổ vai trò lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX là một minh chứng. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tuân theo quy luật kế thừa và đổi mới trong phát triển. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam không phải bắt đầu từ hư vô, mà có sự kế thừa những thành quả của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của cha ông, là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, là ý chí vươn lên chống lại những hoàn cảnh khắc nghiệt. Đồng thời, chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam còn kế thừa thành tựu phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Song, đó không phải là sự kế thừa một cách nguyên xi, mà như đồng chí Tổng Bí thư nhắc nhở: “nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(21). Đó còn là kế thừa truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng; gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu; đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí; đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả(22). Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng phải luôn nhận thức rõ “bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc, đầy đủ hơn”(23), chăm lo, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, bởi đây “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(24). Cùng với đó, cần chú trọng đến giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và đội ngũ thanh niên với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Bởi đây là những tệ nạn ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nó cũng yêu cầu đấu tranh chống lại mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam yêu cầu Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cán bộ. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền khoa học trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược(25). Chỉ có như vậy, Đảng mới nâng mình lên, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước, của sự vận động không ngừng của những nhân tố khách quan và chủ quan. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về đổi mới. Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách. Tầm quan trọng đặc biệt của thực tiễn trong công tác lý luận của Đảng xuất phát từ chính vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; từ đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để phát triển lý luận. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của lý luận, bởi lý luận không chỉ nhằm giải thích thế giới, mà quan trọng hơn - còn nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới. Trong thời gian tới, nội dung hoàn thiện lý luận đổi mới rất rộng, bao gồm toàn bộ thể chế phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần chú ý đến một số nội dung cơ bản sau: trong lĩnh vực kinh tế, đó là tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, về kinh tế tập thể, về các hình thức sở hữu, về quản lý vốn nhà nước, về kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, đó là xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người Việt Nam; về biến đổi cơ cấu xã hội trong mối liên hệ với phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo gắn với sự phát triển, nâng cao năng lực của giai cấp công nhân, vị trí, vai trò của giai cấp nông dân; về ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong lĩnh vực chính trị, đó là tiếp tục hoàn thiện lý luận, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; bảo đảm tránh chồng chéo, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển. Đó còn là tiếp tục hoàn thiện lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và cầm quyền khoa học. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đó là vấn đề chiến lược trong điều kiện đối tượng, đối tác và phương thức chiến tranh thay đổi; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới; bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong bối cảnh mới. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là làm sao để chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên. Bởi, chỉ có hiểu biết, có nhận thức sâu sắc thì mới có thể thực hiện đúng, giữ vững nguyên tắc, không dao động, dân túy, “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Do đó, cần không ngừng tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý, đảng viên; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách, nhằm tránh trục lợi, sai lệch quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, cần lấy tiến bộ xã hội, hiệu quả kinh tế - xã hội, sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân, sự vững mạnh của đất nước, đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội làm mục tiêu để thực hiện./. ----------------