Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

 Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, việc xây dựng thể chế, thiết chế, quy trình nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân luôn chiếm một vị trí quan trọng. Tư tưởng ấy được khắc họa sinh động qua cuộc đời và sự nghiệp hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh. Bài viết tập trung làm rõ cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bổ sung cơ sở lý luận để xem xét giải quyết những vấn đề đặt ra hiện nay.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến cuộc sống nhân dân, tôn trọng ý kiến và phát huy quyền làm chủ của nhân dân _ Ảnh tư liệu

1. Mở đầu

Sinh thời, Hồ Chí Minh không sử dụng khái niệm cơ chế để nói về việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Mặc dù không sử dụng khái niệm này nhưng toàn bộ quan điểm của Người khi nói về quyền làm chủ của nhân dân và các điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, dưới góc nhìn của chính trị học hiện đại thì đó chính là cơ chế.

Trong lĩnh vực chính trị, cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là hệ thống quy trình hoạt động dựa trên các thủ tục, quy định, luật lệ, các thể chế, thiết chế nhằm giúp người dân hiện thực hóa những quyền của mình trên thực tế, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Hồ Chí Minh đã xây dựng được một cơ chế hoàn chỉnh trong cấu trúc của nó với các yếu tố cấu thành, yêu cầu, điều kiện cần… nhằm bảo đảm sự thống nhất trong quá trình vận hành của cơ chế. Đó là một chu trình bao gồm một chuỗi các khâu được liên kết với nhau theo một lôgíc nhất định.

2. Quyền làm chủ của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là những người có quyền làm chủ chính quyền nhà nước, quyền tham gia vào công việc nhà nước. Nhân dân không chỉ làm chủ vận mệnh cuộc đời mình mà còn có quyền quyết định những vấn đề trọng đại của quốc gia.

Thứ nhất, nhân dân làm chủ thông qua ủy quyền

Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, yếu tố cốt lõi và xuyên suốt là quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, thể hiện lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sự thống nhất quyền lực ấy được thực hiện theo một chế độ mà Người gọi là ủy thác quyền lực - tức nhân dân ủy thác quyền lực của mình cho một số đại biểu do nhân dân bầu ra. “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ(1). Quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương, từ Chủ tịch nước đến cán bộ xã là do nhân dân ủy thác. Hết nhiệm kỳ, nhân dân sẽ trao quyền ấy cho một chính phủ mới do nhân dân tuyển cử. Tổng tuyển cử sẽ bầu ra Quốc hội và Chính phủ, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diện, xây dựng bộ máy nhà nước hợp pháp theo đúng ý nguyện của nhân dân. Tổng tuyển cử để nhân dân bầu ra Quốc hội và Quốc hội bầu ra Chính phủ đã chính thức khẳng định sự ra đời hợp pháp của một chế độ xã hội mới dựa trên nền tảng dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân.

Thứ hai, nhân dân làm chủ thông qua quyền phúc quyết hiến pháp và quyết định những vấn đề hệ trọng của quốc gia

Quyền phúc quyết là bậc thang cao nhất để thiết lập quyền lập hiến thực sự thuộc về nhân dân. Trong đó, quyền lập hiến bao gồm các quyền: đưa ra các sáng kiến; soạn thảo dự thảo hiến pháp; tham gia góp ý trong xây dựng dự thảo; phúc quyết, sửa đổi hiến pháp.

Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp làm Trưởng ban soạn thảo, thể hiện rất rõ nguyên tắc này: Điều 21, Mục B, về Quyền lợi, quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia…”. Điều 32, Mục C, phần I về Bầu cử, bãi miễn và phúc quyết, quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết do luật định”. Điều 70, Mục C, Chương VII, phần Sửa đổi Hiến pháp, quy định: “Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng thuận thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”(2).

Như vậy, nhân dân ngoài việc tham gia vào chính quyền nhà nước, họ còn tham gia vào việc ấn định các giới hạn của chính quyền, để người dân dễ dàng nhận biết đó là Nhà nước của dân. Quyền phúc quyết mà Hồ Chí Minh nêu trong Hiến pháp năm 1946 đã xác lập quyền lực của nhân dân trong tham gia, quyết định công việc của Nhà nước. Nhân dân sử dụng quyền phúc quyết như một công cụ nhằm yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền phải tổ chức hoạt động phúc quyết để người dân tham gia vào quá trình đóng góp ý kiến trong xây dựng và sửa đổi Hiến pháp, cũng như các vấn đề hệ trọng khác của quốc gia. Đồng thời, Nhà nước phải tạo cơ chế bảo đảm để nhân dân được thực hiện quyền này trên thực tế.

Thứ ba, nhân dân làm chủ thông qua quyền được kiểm tra, đôn đốc, phê bình

Hồ Chí Minh xác định rất rõ vị thế nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ. Đồng thời, đặt nhân dân trong mối quan hệ tác động biện chứng với Nhà nước. Nhân dân là người chủ, Nhà nước là đầy tớ của nhân dân. Bên cạnh trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về nhu cầu và lợi ích của nhân dân, Chính phủ còn có nhiệm vụ quan trọng là, “phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân”(3). Đây chính là phương thức tốt nhất nhằm phát huy tính tích cực, sức sáng tạo, trách nhiệm, sự chủ động của nhân dân khi tham gia vào các công việc chung của đất nước và ngược trở lại, góp phần giúp Nhà nước nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó có những điều chỉnh và đưa ra chính sách theo hướng đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Chỉ như vậy mới bảo đảm được quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân, phát triển được quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, đồng thời nhìn rõ năng lực của cán bộ, từ đó giao việc và giúp đỡ cán bộ kịp thời. Người nói: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(4).

Thứ tư, nhân dân làm chủ thông qua quyền được khiếu nại, tố cáo

“Tố cáo được hiểu là việc công dân theo thủ tục do luật định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”(5). Chủ thể thực hiện khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức. Chủ thể thực hiện tố cáo là công dân. Đây là phương thức khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, cũng như tình hình thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Do đó, khiếu nại, tố cáo là phương thức kiểm tra tính đúng đắn, phù hợp của các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan trọng hơn, đây là nấc thang cao hơn trong quy trình bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Chính vì thế, vấn đề này, ngay từ sớm đã được Hồ Chí Minh dành nhiều sự quan tâm. Người viết: “Nếu cán bộ địa phương có điều gì sai lầm, nếu đồng bào có việc gì oan ức, thì đồng bào phái đại biểu đến trình bày với tôi và Chính phủ. Tôi bảo đảm rằng tôi và Chính phủ sẽ trừng trị những cán bộ có lỗi, và sẽ làm cho đồng bào khỏi oan ức”(6).

Bộ máy nhà nước có rất nhiều cán bộ, số lượng công việc cần giải quyết rất lớn. Vì vậy, sai sót là không thể tránh khỏi, nhưng nếu cán bộ và các cơ quan có ý định lợi dụng chức vụ, làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân, thì nhân dân có quyền khiếu nại, tố cáo.

Thứ năm, nhân dân làm chủ thông qua quyền bãi miễn

Bãi miễn dân cử được xem là việc cử tri bỏ phiếu để thể hiện sự bất tín nhiệm của mình với những đại biểu dân cử, những người được nhân dân bầu bằng lá phiếu của họ và đại diện cho nhân dân tham gia vào việc thực hiện quyền lực nhà nước. Qua việc bỏ phiếu bất tín nhiệm của cử tri, nhân dân buộc những đại biểu dân cử thôi giữ nhiệm vụ khi nhiệm kỳ chưa kết thúc. Sẽ là không hoàn toàn triệt để nếu một chế độ dân chủ mà người dân chỉ bầu ra các đại diện của mình mà không có quyền bãi miễn khi họ không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc bãi miễn là bước cao nhất trong cơ chế bảo đảm quyền làm chủ, quyền kiểm soát của nhân dân đối với những đại biểu của mình. Qua đó, buộc người đại biểu phải có trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân giao.

Đây là nấc thang cao nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, cho phép nhân dân loại bỏ ngay những người không xứng đáng mà không cần chờ đến nhiệm kỳ bầu cử mới; là biểu hiện cao nhất về tính tối thượng trong quyền lực của nhân dân. Quyền lực đó được khẳng định trong thực tiễn, làm cho Quốc hội xứng đáng là cơ quan đại diện quyền lực lớn nhất của toàn dân. Người viết: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”(7). Nếu không làm tròn nhiệm vụ là người đầy tớ trung thành của nhân dân thì “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy… dân không cần đến nữa”(8), “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(9).

3. Điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ nhất, Hiến pháp và hệ thống pháp luật

Từ năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện về mặt pháp lý nhằm xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi quyền làm chủ của nhân dân trong thực tế. Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người nhấn mạnh: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”(10); ngày 20-9-1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 34/SL quyết định thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việc thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 9-11-1946) cho thấy tính cấp thiết và tầm quan trọng đặc biệt của Hiến pháp trong việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Hiến pháp năm 1946 đã tạo lập cơ sở pháp lý, tính hợp hiến và hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tạo thế cho chính quyền trở thành vũ khí cần thiết nhất của Đảng và nhân dân trong “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ”(11).

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, đất nước tạm thời chia cắt thành hai miền. Miền Bắc quá độ xây dựng CNXH. Trong tình hình mới, nhất thiết phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Ngày 23-1-1957, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Quốc hội sửa đổi Hiến pháp 1946 và được Quốc hội chấp thuận.

Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến pháp. Phát huy tinh thần của Hiến pháp năm 1946, đồng thời Hiến pháp năm 1959 bổ sung nhiều điểm mới về cơ cấu Nhà nước, về quyền con người, quyền công dân, quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng trên nhiều lĩnh vực như: Quyền làm việc; quyền nghỉ ngơi; quyền tự do sáng tác, nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác… Cùng với Hiến pháp, một số luật cơ bản được công bố, thể hiện các quyền dân chủ, quyền làm chủ cơ bản của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cho nhân dân được hưởng quyền làm chủ của mình.

Cùng với xây dựng Hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh chú trọng, đưa Hiến pháp và pháp luật vào đời sống, giáo dục ý thức làm chủ của nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh là người đặt nền móng xây dựng những thiết chế dân chủ mới, chăm lo xây dựng nền pháp chế XHCN nhằm xây dựng và hoàn thiện quy trình bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 mang dấu ấn đậm nét quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế, hoạt động của bộ máy nhà nước, về bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Cùng với đó, Hồ Chí Minh xây dựng 16 đạo luật căn bản và trên 1.300 văn bản dưới luật, ghi nhận các quyền dân chủ cơ bản của người dân ở một nước độc lập có “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”(12).

Thứ hai, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước

Thực tiễn cho thấy, “trình độ dân chủ không phụ thuộc vào một đảng hay nhiều đảng, đơn nguyên hay đa nguyên chính trị mà nằm ở chỗ nhân dân được tổ chức như thế nào vào việc quản lý và xây dựng xã hội”(13). Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào bản chất và năng lực lãnh đạo của Đảng và trình độ quản lý của Nhà nước. Trong xây dựng cơ chế bảo đảm quyền làm chủ ở nước ta, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng Đảng với tư cách là Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; nâng cao trình độ xây dựng và quản lý của một Nhà nước của dân, do dân và vì dân; xây dựng các mặt trận nhằm tập hợp và phát huy sức mạnh đoàn kết của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng từ nhân dân mà ra, do nhân dân tổ chức nên, Đảng lấy sức mạnh từ nhân dân, vì thế Đảng luôn gắn bó với nhân dân. Đảng có đủ phẩm chất và năng lực để lãnh đạo cách mạng, trở thành Đảng cầm quyền đại diện cho dân tộc và đem lại quyền lợi cho dân tộc. Đảng “không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và Tổ quốc”(14), “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(15). Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh việc rèn luyện nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức cách mạng của Đảng cầm quyền với yêu cầu: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(16).

Thứ ba, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên

Một trong những điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đó chính là năng lực và phẩm chất của người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là gốc của mọi công việc, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém(17). Trong mối quan hệ giữa cán bộ và nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải “cố gắng thực hiện cho kỳ được: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải gần gũi nhân dân, học tập nhân dân”(18), sẵn sàng hy sinh quyền lợi của cá nhân mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, lấy việc phục vụ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu hoạt động. Đồng thời, cán bộ phải biết đề phòng và khắc phục những căn bệnh tiêu cực trong hoạt động như hách dịch, cửa quyền, tham ô, lãng phí, quan liêu.

Hồ Chí Minh suốt đời là tấm gương sáng về tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, nêu cao tấm gương đạo đức của người đứng đầu. Người luôn kiên trì trong việc giáo dục và rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền. Những nguyên tắc cơ bản mà Người để lại đó là: Lời nói đi đôi với việc làm, nêu gương về đạo đức, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”(19).

Thứ tư, năng lực làm chủ của nhân dân

Trong thực hiện quyền làm chủ, nhân dân thường chịu tác động nhất định bởi các yếu tố lợi ích như tình cảm hoặc tâm lý đám đông. Vì vậy, trình độ dân trí và văn hóa chính trị có vai trò rất quan trọng trong quá trình bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nâng cao dân trí, trình độ tổ chức xã hội theo hướng tăng cường ý thức trách nhiệm đối với đất nước, xã hội, nâng cao năng lực phối hợp của công dân với nhau là những bảo đảm cơ bản để thực hành dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ khi nhân dân tự giác nhận thức quyền hạn và nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia vào công việc của Nhà nước và xã hội với tư cách là công dân có tri thức, trách nhiệm và niềm tin thì quyền làm chủ của nhân dân mới có nền tảng xã hội để thực hành.

Cùng với mở rộng dân chủ, thực hiện dân quyền, cải thiện dân sinh, vấn đề dân trí được Người đặc biệt quan tâm. Dân trí được nâng cao sẽ góp phần bảo đảm dân quyền và cải thiện dân sinh. Do đó, Hồ Chí Minh xác định: “Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”(20). Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(21); muốn giữ vững nền độc lập, làm cho dân giàu, nước mạnh thì phải chống cả ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Như vậy, Hồ Chí Minh coi dân trí là yếu tố ảnh hưởng, là điều kiện tiên quyết cho việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

Ngày 8-9-1945, Hồ Chí Minh ký 3 sắc lệnh về giáo dục là: Sắc lệnh 17/SL về việc thành lập Nha Bình dân học vụ, Sắc lệnh 19/SL quy định mọi làng phải có lớp học bình dân, Sắc lệnh 20/SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ... Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo”(22). Từ đó, phong trào thanh toán nạn mù chữ diễn ra mạnh mẽ trong cả nước. Chỉ một năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công đã có 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết, trong đó có cả các cụ già ngoài 80 tuổi tới các lớp bình dân học vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng đó là hình ảnh của “một dân tộc quyết rời bỏ chỗ tối, bước lên chỗ sáng”(23).

Nâng cao dân trí là nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân. Một nền giáo dục như vậy sẽ có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước. Vì: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(24). Nâng cao năng lực văn hóa giúp người dân hiểu, nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách và thực hiện đúng các đường lối đó. Quan trọng hơn, năng lực văn hóa giúp nhân dân phân biệt được đúng, sai, hiểu về quyền lợi và nghĩa vụ của mình và phải tiến lên: “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(25).

4. Kết luận

Từ góc độ chính trị học hiện đại, tìm hiểu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh cho thấy, Hồ Chí Minh đã mở đầu cho quá trình xây dựng cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta. Dấu ấn của cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong các quan điểm, tư tưởng của Người mà còn được Hồ Chí Minh hiện thực hóa trong thực tiễn chỉ đạo cách mạng, thông qua việc khẳng định các quyền làm chủ và tạo lập các điều kiện bảo đảm cho quyền làm chủ của nhân dân trong thực tế.

_________________

Ngày nhận bài: 30-5-2024; Ngày bình duyệt: 4-6-2024; Ngày duyệt đăng: 8-8-2024.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.263.

(2) Xem: Quốc hội: Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 2013), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.

(3), (7), (11), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Sđd, tr.374, 375, 366, 403.

(4), (9), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.636, 75, 280.

(5) Xem: Quốc hội: Luật Tố cáo năm 2018 (sửa đổi năm 2020), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.466.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.269.

(10), (20), (21), (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.7, 40, 7, 40-41.

(12), (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.328, 205.

(13) Phạm Hồng Chương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr.83.

(14), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.413, 356.

(16), (25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.612, 293.

(23), (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.347, 458-459.


Toàn văn Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại cuộc họp Thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng.

 Chiều 13-8-2024, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì họp Thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, cho ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị đã được Hội nghị Trung ương 9 khóa XIII thông qua. Tạp chí Lý luận chính trị trân trọng giới thiệu toàn văn Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại cuộc họp Thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì họp Thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng _ Ảnh: TTXVN.

“Thưa toàn thể các đồng chí,

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, Nhà tư tưởng, ngọn cờ lý luận của Đảng mất đi là tổn thất to lớn, không thể bù đắp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Tưởng nhớ đồng chí Nguyễn Phú Trọng, tôn vinh, tri ân những cống hiến, đóng góp to lớn của đồng chí, chúng ta nhận thức rõ trách nhiệm lớn lao cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Đồng thời, chuẩn bị tốt nhất cho Đại hội lần thứ XIV của Đảng, trong đó có việc chuẩn bị văn kiện Đại hội coi đây là công việc rất hệ trọng nhằm tổng kết, đánh giá kết quả, thành tựu đã đạt được trong nhiệm kỳ khóa XIII và 40 năm đổi mới cùng nguyên nhân, bài học kinh nghiệm rút ra, từ đó hoạch định, xác định rõ tầm nhìn, bước đi, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới đến năm 2030 tầm nhìn 2045.

Thưa các đồng chí!

Thời gian từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng không còn nhiều, công việc rất bộn bề. Sơ bộ rà soát các công việc chuẩn bị Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII, theo báo cáo của Văn phòng Trung ương Đảng, nhiều việc chậm hơn so với kế hoạch.

Vì vậy, Lãnh đạo chủ chốt và Bộ Chính trị đã thống nhất từ nay đến cuối năm tập trung ưu tiên giải quyết nhóm các đề án trình Hội nghị Trung ương 10 và nhóm các đề án cần tập trung tháo gỡ khó khăn để phát triển kinh tế-xã hội.

Tôi đề nghị Thường trực Tiểu ban và Tổ Biên tập Văn kiện rà soát các công việc được giao, trước mắt là các nội dung trình Hội nghị Trung ương 10 để tập trung cao độ chuẩn bị bảo đảm chất lượng và tiến độ.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng các đại biểu dành một phút mặc niệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng _ Ảnh: TTXVN

Để chuẩn bị tốt nhất dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, trên cơ sở tiếp tục quán triệt tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi xin được trao đổi và nhấn mạnh thêm với các đồng chí 2 nội dung, sau đây:

Thứ nhất, cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam, từ đó có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về hình thức và nội dung các văn kiện.

Đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng sẽ tiến hành vào thời điểm rất có ý nghĩa, sau 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với nhiều kết quả có tính bước ngoặt, dấu ấn nổi bật.

Thế và lực của đất nước, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng tăng lên; ý Đảng và lòng dân hòa quyện trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu, mà trước hết là thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng.

Đại hội XIV có nhiệm vụ đi sâu kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, tổng kết 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, kiểm điểm công tác xây dựng Đảng và việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XIII; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Đồng thời kế thừa những thành tựu lý luận quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết để bổ sung, hoàn thiện, hoạch định đúng đắn, rõ nét hơn đường lối đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại mới; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong 5 năm tới (2026-2030), phấn đấu sớm về đích thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2021-2030).

Đại hội XIV sẽ là dấu mốc quan trọng, mốc son mới trên con đường phát triển của đất nước, của dân tộc ta, có ý nghĩa định hướng tương lai; khơi dậy mạnh mẽ truyền thống, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự tin, tự lực, tự cường, thể hiện đậm nét ý chí, khí phách và tinh hoa Việt Nam; khích lệ, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định đây là sự lựa chọn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; phát huy mạnh mẽ thế và lực, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai, về xây dựng văn kiện, Tôi đề nghị quán triệt sâu sắc và thống nhất một số vấn đề về nguyên tắc, phương châm, phương pháp tư tưởng, hệ quan điểm chỉ đạo và cách làm như sau:

Một là, thống nhất nhận thức về một số vấn đề lớn, sau đây:

(i) Văn kiện là “ngọn đuốc soi đường” cho chúng ta đi, phải bảo đảm kết tinh toàn bộ tinh hoa, giá trị của quá khứ, hiện tại và tương lai; phải đảm bảo các nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, cầm quyền; lợi ích quốc gia, dân tộc, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân là trên hết, trước hết.

(ii) Văn kiện không nên quá dài, phải mang tính định hướng cao để các cấp ủy, mọi đảng viên phải thấm nhuần và thực hiện.

(iii) Tổng kết 40 năm đổi mới là việc làm rất cần thiết phải được thực hiện rất khẩn trương với sự đầu tư rất lớn về công sức, trí tuệ mới có thể kịp chắt lọc đưa vào nội dung các văn kiện.

(iv) Phải tập trung cao độ cho việc hoàn thành có chất lượng các văn kiện, đáp ứng yêu cầu tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng lần thứ XIV vào quý 1 năm 2026. Thường trực Tiểu ban, Tổ Biên tập phải “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” trong quá trình xây dựng văn kiện.

Hai là, kiên định hệ quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc; nghiên cứu lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để định ra phương pháp cho Cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.

- Kiên định hệ quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Văn kiện Đại hội XIV ngày 23-02-2024, kết hợp chặt chẽ, khoa học giữa nền tảng tư tưởng, mục tiêu lý tưởng, đường lối của Đảng với tinh thần không ngừng đổi mới, sáng tạo, tuân theo quy luật khách quan; kiên định đi đôi với đổi mới; kiên định một cách sáng tạo, sáng tạo một cách kiên định theo phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh; đổi mới phải có nguyên tắc, không tùy tiện, nóng vội, vừa thận trọng, kỹ lưỡng, song không quá cầu toàn, làm mất thời cơ.

- Xây dựng các Văn kiện Đại hội Đảng XIV là quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phân tích và dự báo tương lai, việc thực hiện phải trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực sự quán triệt các quan điểm khách quan, toàn diện, ổn định và phát triển, thực tiễn và lịch sử-cụ thể.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu kết luận cuộc họp _ Ảnh: nhandan.vn

Nhiệm vụ của tổng kết là làm rõ những kết quả mới, những cách làm mới, những nền tảng đã được tạo dựng; phát hiện, tìm tòi những chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp đang xuất hiện có sức sống từ trong thực tiễn, từ những nhân tố mới của thực tiễn; những chủ trương, chính sách được thực tế khẳng định là đúng đắn, phù hợp hoặc cần tiếp tục đổi mới, bổ sung, phát triển; những yêu cầu đặt ra, nhận diện rõ khát vọng, tầm nhìn, định hướng và các giải pháp lớn, sát hợp với tình hình mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn trong giai đoạn phát triển mới khi thế và lực đã ở tầm cao mới.

- Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần này phải là một công trình khoa học kết tinh trình độ lý luận, tầm cao trí tuệ của toàn Đảng, niềm tin và khát vọng của cả dân tộc, phản ánh những quy luật khách quan của thực tiễn, xu thế vận động mới của thực tiễn; lấy thực tiễn là thước đo kiểm nghiệm chân lý, nắm bắt xu thế vận động của thời đại để tạo động lực phát triển mới.

Ba là, nội dung văn kiện phải bảo đảm phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc; gắn kết tư tưởng và hành động, ý Đảng và lòng dân; tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, giảm thiểu nguy cơ, thách thức, mở ra triển vọng phát triển mới, mở rộng không gian sinh tồn, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Nội dung của văn kiện phải thể hiện được nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng đã đi qua 2/3 chặng đường, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, sát sao của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hạt nhân lãnh đạo là đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân với tinh thần "Tiền hô hậu ủng," "Nhất hô bá ứng," "Trên dưới đồng lòng," "Dọc ngang thông suốt"; tập trung thực hiện 12 định hướng phát triển đất nước, 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm, đã đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nhiều vấn đề vượt dự báo, chưa có tiền lệ, dành được nhiều thành tựu quan trọng, tăng thêm sức mạnh, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta về chặng đường phát triển mạnh mẽ mới trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội XIV của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới trong thời kỳ thay đổi mang tính thời đại; thời cơ, thuận lợi đi liền với nguy cơ, thách thức, sóng to, gió lớn. Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và Đại hội XIV phải đề ra được phương hướng, giải pháp, định hướng chiến lược để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, nguồn lực khoa học - công nghệ là đột phá để đưa đất nước phát triển cất cánh trong những năm tiếp theo. Đồng thời phải xác định rõ một số định hướng lớn đó là:

- Kiên định phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên.

- Giữ vững độc lập, tự chủ; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc.

- Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến, ứng vạn biến,” “hòa hiếu,” “lấy chí nhân thay cường bạo”; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tăng cường đóng góp thiết thực của Việt Nam trong duy trì hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

- Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “Dân là gốc,” “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau.

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; có nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, dốc toàn tâm, toàn lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

- Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước, củng cố tiềm lực quốc gia. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển đất nước, đặc biệt là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập; huy động tối đa nguồn lực xã hội cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển con người toàn diện; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng phát triển, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.

- Mở rộng không gian phát triển, thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh thông qua tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế phát triển; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công khai, minh bạch thông qua chuyển đổi số; tạo thuận lợi cao nhất cho mọi hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, đóng góp xây dựng đất nước, nâng cao đời sống của Nhân dân, của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, doanh nhân trong và ngoài nước.

- Không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất và tập trung dân chủ trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Huy động trí tuệ, sức mạnh của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm “không ngừng”, “không nghỉ”, đưa cuộc chiến chống “giặc nội xâm” tới thắng lợi hoàn toàn; xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.

Thưa các đồng chí!

Xây dựng văn kiện Đại hội là công việc hết sức quan trọng, không chỉ bảo đảm sự thành công của Đại hội, cao hơn đó là thiết kế tổng thể con đường đi lên của đất nước, của Cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, có ý nghĩa rút ngắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, sớm đạt ước vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn dân tộc ta.

Văn kiện là công trình tập thể, trí tuệ tập thể và các đồng chí là “hạt nhân” thực hiện nhiệm vụ đó; trách nhiệm lớn lao, cao cả và đầy vinh quang, do đó phải nỗ lực cố gắng, dành toàn tâm, toàn lực, bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa Tiểu ban Văn kiện với các Tiểu ban khác; huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giới trí thức, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, quản lý; khai thác, chắt lọc kết quả nghiên cứu khoa học ở trong nước và quốc tế.

Quá trình xây dựng văn kiện phải đảm bảo tính kế thừa và phát triển; bám sát các nguyên tắc, phương châm, phương pháp tư tưởng, hệ quan điểm chỉ đạo và cách làm đã được thống nhất; thảo luận thật sự dân chủ, kỹ lưỡng, xem xét nhiều mặt, cần hết sức cầu thị, lắng nghe, tôn trọng ý kiến lẫn nhau, cùng tìm ra chân lý, tạo sự thống nhất cao, nhất là những vấn đề mới, vấn đề khó.

Cần đảm bảo Báo cáo chính trị phải là báo cáo trung tâm, phải đặt ở tầm quan điểm, đường lối, chủ trương lớn; báo cáo xây dựng Đảng và báo cáo kinh tế-xã hội là các báo cáo chuyên đề, bảo đảm không trùng lặp; nhất quán về quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Đảng và phát triển đất nước giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến năm 2045, góp phần tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thưa các đồng chí,

Sắp tới, công việc của Tiểu ban, Thường trực Tiểu ban là rất nhiều, rất khó, đòi hỏi phải có sự cố gắng rất lớn, sự tập trung, nỗ lực rất cao. Đề nghị các đồng chí Thường trực Tiểu ban, Thường trực Tổ Biên tập dành thời gian, tâm sức thỏa đáng và có phương pháp làm việc rất khoa học, giữ mối quan hệ chặt chẽ với các Tiểu ban, Thường trực Tổ Biên tập các Tiểu ban khác để hoàn thành công việc với chất lượng cao và đúng tiến độ.

Cuối cùng, tôi xin được trân trọng cảm ơn và chúc sức khỏe các đồng chí./.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ và định hướng vận dụng hiện nay.

 Trong lãnh đạo, điều hành Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua công tác cán bộ của Đảng. Theo Người, đây là một trong những cách thức hiệu quả để kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước, nhất là đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước. Bài viết phân tích quan điểm này của Người và chỉ ra những giá trị, định hướng cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam trong tình hình mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp mặt các đại biểu Hội đồng nhân dân khóa đầu tiên của Hà Nội, ngày 4-1-1958_ Ảnh: TTXVN

Kiểm soát quyền lực nhà nước (KSQLNN) theo nghĩa chung nhất, là một hệ thống những hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau trong việc sử dụng các công cụ, phương tiện và biện pháp phù hợp để xem xét, giám sát, phát hiện, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực của cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước. Trong khoa học chính trị, KSQLNN được đề cập đến với nhiều phương thức khác nhau, song tựu trung lại có hai phương thức cơ bản là kiểm soát quyền lực bên trong nhà nước và kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước.

Trong phương thức kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước, Hồ Chí Minh đã quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm, chỉ đạo thực tiễn để kiểm soát có hiệu quả quyền lực nhà nước thông qua công tác cán bộ. Từ nghiên cứu lý luận và từ thực tiễn, Hồ Chí Minh thấu hiểu quyền lực luôn có xu hướng bị người được ủy quyền lạm dụng. Do đó, để ngăn ngừa tình trạng cán bộ lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh coi trọng KSQLNN bằng cách làm tốt các khâu, các bước trong quy trình công tác cán bộ.

Đó là toàn bộ hoạt động của các chủ thể, lực lượng sử dụng các cách thức, phương tiện khác nhau để kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn ngừa việc lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn tác động vào quy trình công tác cán bộ, bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ

Thứ nhất, hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn đúng cán bộ

Hồ Chí Minh cho rằng, đây là nội dung đầu tiên để KSQLNN trong công tác cán bộ. Người lý giải, hiểu cán bộ, xem xét, đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn đúng cán bộ một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác, những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Qua bước này, sẽ giúp cán bộ khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân, lạm quyền, lộng quyền kéo dài. Theo Người, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có những yêu cầu riêng, bảo đảm tính khách quan, chính xác và giúp ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực. Người viết: “Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hóa cũng lòi ra”(1).

Trong đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn dựa trên phân tích, nhận định đúng tình hình và đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của cán bộ, biết được chỗ mạnh, chỗ yếu, sở trường của cán bộ. Do đó, Người đã sử dụng cán bộ rất đắc dụng, qua đó không chỉ đem lại thành công cho cách mạng Việt Nam mà còn giúp ngăn ngừa cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cho cá nhân.

Đối với người được giao phụ trách công tác cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để “Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”(2). Người quan niệm, làm được như vậy thì mới không phạm những căn bệnh: “1) Tự cao tự đại, 2) Ưa người ta nịnh mình, 3) Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người, 4) Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau”(3). Đây là cách thức rất hiệu quả, giúp cho việc lựa chọn khách quan, không bị rơi vào tình trạng tùy tiện, cá nhân chủ nghĩa mà kết quả sẽ làm cho lạm dụng quyền lực gia tăng.

Do vậy, để hạn chế và ngăn ngừa sự tùy tiện trong đánh giá cán bộ, Người lưu ý khi xem xét cán bộ phải toàn diện cả ưu, khuyết điểm, cả lịch sử cán bộ để đánh giá đúng cán bộ, giúp cán bộ khắc phục hạn chế để không rơi vào lạm dụng quyền lực. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”(4).

Hồ Chí Minh chú ý đến lựa chọn đúng cán bộ. Theo Người, việc lựa chọn đúng cán bộ có tác dụng nâng cao hiệu quả KSQLNN nhờ phát huy tốt phẩm chất và năng lực của cán bộ. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu thực hiện tốt việc lựa chọn cán bộ theo bốn nội dung: “a) Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh. b) Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ đó là người lãnh đạo của họ. c) Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn... d) Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”(5).

Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ

Để KSQLNN trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ. Đây là một công việc quan trọng, tiến hành thường xuyên, là biện pháp ngăn ngừa tình trạng cán bộ lạm quyền, lộng quyền, tham ô, lãng phí, quan liêu. Bởi theo Hồ Chí Minh những căn bệnh này đều do cán bộ thiếu lý luận, thiếu chuyên môn hoặc thiếu trách nhiệm gây ra.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Hồ Chí Minh xem là “công việc gốc của Đảng”. Do đó, để hoạt động này có hiệu quả trong ngăn ngừa tha hóa quyền lực, Người yêu cầu nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải tập trung vào nâng cao trình độ lý luận, văn hóa, chuyên môn cho cán bộ. Trong đào tạo, bồi dưỡng về lý luận, Người thường nhắc cán bộ học thì phải hiểu bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết Mác - Lênin, đó là một học thuyết mở chứ không phải nhất thành bất biến, và học phải quán triệt tinh thần vận dụng vào giải quyết công việc thực tế của nước ta chứ không phải học một cách giáo điều, kinh viện, áp dụng một cách máy móc.

Đề cập đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về trình độ chuyên môn, Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi cán bộ phải biết một nghề để sinh hoạt, ai lãnh đạo trong lĩnh vực nào phải biết chuyên môn về lĩnh vực ấy. Để đáp ứng điều đó, trong công tác huấn luyện “Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy”(6). Theo Người, nội dung huấn luyện chuyên môn gồm: “1. Điều tra: tình hình có quan hệ với công tác của mình. Thí dụ: môn quân sự, thì điều tra, phân tách, nghiên cứu rõ ràng tình hình của địch, của bạn, của ta, chọn những điểm chính làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ. 2. Nghiên cứu: những chính sách, chỉ thị, nghị quyết. Thí dụ: Cán bộ về môn tài chính, phải hiểu rõ chính sách tài chính và những nghị quyết về tài chính của Chính phủ”(7).

Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao đối với đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa. Người quan niệm đào tạo văn hóa là yêu cầu rất quan trọng đối với cán bộ, đặc biệt với những cán bộ còn kém văn hóa. Người xem đó là nền tảng để phát triển tri thức, là cơ sở để nâng cao trình độ mọi mặt của người cán bộ; đồng thời, giúp cán bộ khắc phục tình trạng kém hiểu biết nên lạm dụng quyền lực, mà không biết bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh, nếu cán bộ không nắm được những kiến thức thông thường, sẽ rất khó khăn trong nghiên cứu lý luận hoặc học tập chuyên môn, nghiệp vụ và không đủ năng lực để tự kiểm soát quyền lực được giao.

Để nâng cao hiệu quả KSQLNN, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mỗi cán bộ. Đây là vấn đề rất quan trọng giúp Đảng ta kiểm soát tốt hoạt động của các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước, và thông qua đó ngăn ngừa tận gốc tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu. Vì vậy, Người yêu cầu nâng cao tinh thần trách nhiệm, không chỉ khẩu hiệu chung chung, mà phải xây dựng thành phong trào sâu rộng ở các cấp, các ngành, nhất là đối với công việc liên quan đến nắm giữ về kinh tế, tài chính. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, ngày 24-7-1962, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “từ nay, chúng ta bắt đầu mở một cuộc vận động “Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu””(8).

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả KSQLNN thông qua công tác cán bộ, Người yêu cầu các cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo đứng đầu các cấp, các ngành nói riêng phải luôn nêu gương sáng về đạo đức, về tác phong, về ý chí phấn đấu vươn lên: “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng”(9).

Thứ ba, về bố trí, sử dụng cán bộ

Để hạn chế tình trạng cán bộ bị quyền lực tha hóa, trong bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh nêu quan điểm “khéo dùng cán bộ” và “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Đây là cách dùng cán bộ hiệu quả, vì khi dùng đúng người sẽ phát huy được năng lực, nhiệt huyết của cán bộ, qua đó ngăn ngừa tình trạng lạm dụng chức quyền của cán bộ để đạt lợi ích cá nhân. Nội dung này được Hồ Chí Minh bàn tập trung trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10-1947). Người viết: “Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”(10).

Hồ Chí Minh phê bình những biểu hiện không biết tùy tài mà dùng người. Đồng thời, Người phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè, kéo cánh” trong công tác cán bộ. Theo Người, tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Hậu quả của tình trạng này sẽ làm cho quyền lực nhà nước không được kiểm soát, không phục vụ lợi ích nhân dân, dân tộc, mà rơi vào tay số ít người.

Để khắc phục nguy cơ trên, trong bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu khi cất nhắc một cán bộ, phải xem xét toàn diện từ mối quan hệ với quần chúng, có năng lực, sở trường gì để đặt công việc cho thích hợp, tránh sử dụng cán bộ mà không dựa trên khả năng của cán bộ. Do đó, Người phê phán những bệnh: “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình”(11).

Những chứng bệnh này không chỉ làm tổn hại uy tín, thanh danh của Đảng, mà còn tổn hại danh dự của người lãnh đạo; làm cho hiệu quả công việc ngày càng đi xuống, bởi khuyết điểm ngày càng nhiều do quyền lực không được kiểm soát hiệu quả. Theo đó, Hồ Chí Minh yêu cầu trong cách dùng cán bộ cần có lòng độ lượng, có tinh thần rộng rãi, có tính chịu khó dạy bảo, có sự sáng suốt, có thái độ vui vẻ, thân mật để phát huy hiệu quả công việc trên cơ sở tùy tài mà dùng người; đồng thời hướng vào thực hiện tốt mục đích: “khéo dùng cán bộ, cốt để thực hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ”(12).

Thứ tư, “phải có gan cất nhắc cán bộ”, có chính sách đãi ngộ cán bộ

Theo Hồ Chí Minh, “cất nhắc cán bộ” và chính sách cán bộ có ý nghĩa quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả KSQLNN. Vì khi làm tốt khâu này, sẽ sử dụng và phát huy tài năng, động viên cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc phục cán bộ rơi vào tình trạng lạm dụng quyền lực, hoặc thiếu phẩm chất, năng lực dẫn đến bị quyền lực tha hóa. Do vậy, Người cho rằng, Đảng phải có chính sách đúng đắn để “chiêu hiền đãi sĩ”, “cầu người hiền tài” cho đất nước. Người chỉ rõ: “Phải có gan cất nhắc cán bộ” và “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”(13).

Hồ Chí Minh lưu ý, phải xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt phải theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Người nhấn mạnh: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy”(14). Theo đó, Người yêu cầu khi đã xem xét kỹ lưỡng thì phải sáng suốt cất nhắc cán bộ đó. Điều này, được Người lý giải: “trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”(15).

Hồ Chí Minh yêu cầu phải có chính sách quan tâm, chăm lo cán bộ, việc này có tác dụng và ý nghĩa to lớn, nhằm tạo ra động lực vật chất, tinh thần để nâng cao chất lượng công việc của đội ngũ cán bộ. Người khẳng định: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”(16). Theo Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách đối với cán bộ cần chú ý đến các nội dung: hiểu biết cán bộ; khéo sử dụng cán bộ; cất nhắc cán bộ cho đúng; thương yêu cán bộ; bảo đảm tiền lương cho cán bộ; phê bình cán bộ. Người lưu ý các cấp ủy đảng cần khắc phục tình trạng “các cấp, các ngành phụ trách lại chưa quan tâm đúng mức đến vật chất và tinh thần của các cô, các chú, chưa làm đúng như Đảng và Chính phủ đã quy định”(17). Nếu để tình trạng đó kéo dài, có thể làm cho cán bộ nảy sinh tư tưởng lợi ích cá nhân dẫn đến lạm quyền, lộng quyền. Do vậy, dù trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Người đặc biệt lưu ý chế độ lương bổng cho cán bộ cùng với các lực lượng khác trong xã hội, để không chỉ cải thiện đời sống cán bộ mà còn giúp cán bộ tránh bị quyền lực tha hóa.

Thứ năm, kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ

Kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ được Hồ Chí Minh xác định là khâu quan trọng để KSQLNN trong toàn bộ các khâu của công tác cán bộ. Theo Người, công tác kiểm tra, giám sát cán bộ góp phần phát hiện và giúp đỡ cán bộ, cơ quan nhà nước sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, từ đó, thực thi hiệu quả quyền lực được nhân dân ủy quyền. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra, vì Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, nên “kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân”(18). Người nêu rõ: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(19).

Hồ Chí Minh chỉ ra ba cách kiểm tra, gồm: Một là, kiểm tra phải có tính hệ thống, đồng bộ và quyết liệt. Hai là, kiểm tra không chỉ dựa vào báo cáo mà phải dựa vào thực tế. Ba là, kiểm tra phải biết phê bình đúng cách. Đồng thời, Hồ Chí Minh yêu cầu “Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên”(20). Người lưu ý, trong hoạt động kiểm tra cần phải biết “kiểm tra khéo” để có thể rút ra đánh giá, nhận xét xác đáng về tình hình thực thi quyền lực của đội ngũ cán bộ, công chức, vì “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”(21).

Đối với hoạt động giám sát cán bộ, Hồ Chí Minh quan niệm, công tác giám sát phải được chú trọng và tiến hành đồng thời cả hai mặt: mặt thứ nhất là từ lãnh đạo đối với cấp dưới và đối với nhân viên theo nguyên tắc “Cấp dưới cần phải báo cáo. Cấp trên cần phải kiểm soát”(22); mặt thứ hai là từ quần chúng nhân dân đối với cơ quan nhà nước, với cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, Hồ Chí Minh chú ý, phải giám sát cán bộ theo tinh thần “luôn luôn kiểm soát cán bộ”(23) và “dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”(24).

Một công tác nữa mà Hồ Chí Minh rất coi trọng, nhằm KSQLNN trong công tác cán bộ là Đảng phải bảo đảm kỷ luật nghiêm minh. Người nêu rõ: “Kỷ luật nghiêm để bảo đảm tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất của toàn Đảng, toàn dân”(25). Theo Người, kỷ luật đảng là thứ kỷ luật thép, đây là căn cứ răn đe, cũng như giúp cán bộ, đảng viên có thể khắc phục sai lầm, khuyết điểm; làm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động; ngăn ngừa đội ngũ cán bộ của Đảng trong các cơ quan nhà nước lạm dụng quyền lực. Đối với cán bộ thiếu trách nhiệm, không làm tròn nhiệm vụ với dân, với nước, không có uy tín trong quần chúng, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước, thì cũng phải xem xét, xử lý thật nghiêm theo tinh thần: “thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”(26) và “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(27).

2. Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ được Đảng ta hiện thực hóa trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam. Quan điểm của Người vẫn giữ nguyên giá trị lý luận, có tính thời sự sâu sắc trong định hướng việc KSQLNN hiện nay.

Ở Việt Nam nhiều năm qua, KSQLNN trong công tác cán bộ đã được coi trọng và có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng ta đã ban hành Quy định số 205/QĐ-TW, ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị “về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” và Quy định số 114/QĐ-TW, ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”.

Đánh giá về việc KSQLNN trong công tác cán bộ, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền;”(28) và “... đẩy mạnh thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn. Việc chống chạy chức, chạy quyền được coi trọng, có chuyển biến. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới, nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ các cấp, gắn với tiêu chuẩn chức danh và quy hoạch cán bộ được quan tâm, chú trọng và đầu tư tương xứng”(29).

Tuy nhiên, việc KSQLNN trong công tác cán bộ vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm do chưa được thực hiện sát sao, thiếu đồng bộ và chưa toàn diện. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn không ít trường hợp chưa phản ánh đúng thực chất. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, cá biệt có nơi bố trí người nhà, người thân chưa đủ uy tín. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; nhiều cán bộ còn thiếu tính chuyên nghiệp”(30) và “nhiều nơi còn tình trạng nể nang, chưa chỉ rõ những cán bộ có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực”(31). Do đó, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ hiện nay, cần chú ý các định hướng giải pháp:

Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(32). Nếu đơn giản về nhận thức, hoặc nhận thức về KSQLNN trong công tác cán bộ chưa đầy đủ, sâu sắc, sẽ dẫn đến thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo vận dụng tư tưởng của Người vào KSQLNN trong công tác cán bộ hiện nay. Theo đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục làm cho cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, Mặt trận Tổ quốc và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về nội dung, giá trị các quan điểm, cũng như tấm gương mẫu mực, tận hiến của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả việc KSQLNN trong công tác cán bộ.

Quán triệt và thực hiện nghiêm Quy định số 114/QĐ-TW, ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu”(33), làm cho các chủ thể tự giác học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ.

Hai là, phát huy vai trò của cấp ủy, cơ quan chức năng các cấp để kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan chức năng (ban tổ chức cấp ủy, cơ quan tổ chức - cán bộ, cơ quan nội vụ, các cơ quan được giao phối hợp trong công tác đề xuất, nhận xét, đánh giá, thẩm định cán bộ,...) phải thường xuyên nâng cao hiệu quả công tác theo đúng nguyên tắc, các khâu trong công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch đối với các đối tượng có liên quan theo Quy định số 114/QĐ-TW. Đồng thời, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát, rà soát chặt chẽ các khâu, các bước của quy trình công tác cán bộ; tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, nhận xét, lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ; quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ và kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm cán bộ vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước.

Bên cạnh đó, để KSQLNN hiệu quả, công tác cán bộ cần sâu sát thực tế, tránh mọi biểu hiện chủ quan, qua loa, đại khái; coi trọng phát hiện và lựa chọn cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực, cán bộ nữ ở các cấp, bảo đảm cơ cấu, có sự kế thừa và liên tục trong xây dựng nguồn cán bộ. Qua đó, công tác cán bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc phòng ngừa các biểu hiện lạm quyền, lộng quyền của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước.

Ba là, đổi mới thể chế Đảng lãnh đạo việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với công tác cán bộ, các ban cán sự đảng trong từng nhánh của quyền lực nhà nước. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ”(34). Theo đó, việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác cán bộ cần được luật hóa thành các chế định của văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.

Bổ sung, hoàn thiện quy phạm pháp luật về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong các cơ quan của bộ máy công quyền; nâng cao tính răn đe của các chế tài xử lý đối với cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền, vi phạm kỷ luật, pháp luật theo quan điểm “Xử lý nghiêm minh, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật của Nhà nước và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”(35) và tinh thần “không bao che, không dung túng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”.

Ngoài ra, cần triển khai và thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường kiểm tra, giám sát của Đảng, cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, báo chí, truyền thông và nhân dân để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.

Bốn là, chăm lo đến chính sách cán bộ và nâng cao trách nhiệm từng cán bộ trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực

Để nâng cao hiệu quả KSQLNN trong công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương về chính sách đối với cán bộ, và phát huy vai trò từng cán bộ trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành và triển khai thực hiện chính sách đối với cán bộ, nhất là chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách đãi ngộ cán bộ bằng tiền lương, phụ cấp tương xứng với cống hiến của cán bộ trên từng vị trí đảm nhiệm. Quan tâm chính sách cán bộ, tạo động lực cho cán bộ phấn đấu và cống hiến trong công việc; giúp cán bộ tự phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực nảy sinh do chính sách đãi ngộ chưa tương xứng.

Cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải nêu gương, làm gương và thường xuyên có biện pháp khích lệ, động viên từng cán bộ nâng cao trách nhiệm trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực; chú ý nâng cao trách nhiệm của cán bộ theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là “vì nhân dân phục vụ”.