Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Sự phát triển lý luận triết học Mác - Lênin ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

 Trong quá trình xây dựng và phát triển Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Triết học có nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo triết học Mác - Lênin; tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở cho những thành công to lớn của sự nghiệp cách mạng. Bài viết nêu bật những đóng góp của Viện Triết học góp phần phát triển lý luận triết học Mác - Lênin, bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.

PGS, TS ĐẶNG QUANG ĐỊNH
Viện Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Tập thể Viện Triết học tại Lễ Kỷ niệm 65 năm thành lập Viện và đón nhận Huân chương lao động Hạng Nhì - năm 2022

1. Viện Triết học với nhiệm vụ nghiên cứu, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện mới, gồm ba bộ phận cấu thành chủ yếu là triết học, kinh tế chính trị học và CNXH khoa học, được hình thành trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và tổng kết thực tiễn phát triển của khoa học và cách mạng thế giới. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng, dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật, nhằm giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội tốt đẹp để phát triển toàn diện con người, theo lý tưởng cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn cờ tư tưởng, vũ khí lý luận của các đảng cộng sản và phong trào cách mạng trên toàn thế giới đấu tranh vì hòa bình, tự do, tiến bộ, văn minh, hạnh phúc.

Từ khi được truyền bá vào Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành phương pháp luận trong quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhất quán khẳng định quan điểm này(2). Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, điểm 1 Điều 4 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(3). Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng đối với tư duy, phương pháp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phải nghiên cứu, vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, triết học Mác - Lênin, làm cơ sở xây dựng thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhất là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ này được Đảng giao cho nhiều tổ chức khoa học trong cả nước, trong đó Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là nghiên cứu, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng vào đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ khoa học lý luận chính trị.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được thành lập năm 1949, đến nay đã có 75 năm truyền thống vẻ vang. Theo Quyết định số 145-QĐ/TW, ngày 08-8-2018 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội; là trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý phục vụ giảng dạy, học tập, góp phần cung cấp luận cứ khoa học trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước.

Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được thành lập tháng 9-1957 với chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận triết học, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, xây dựng, hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giảng dạy triết học Mác - Lênin trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý trung, cao cấp cho hệ thống chính trị; nghiên cứu xây dựng chương trình, nội dung, tổ chức biên soạn, chỉnh lý các giáo trình, tài liệu học tập và tài liệu tham khảo về triết học; tham mưu cho Giám đốc Học viện về chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học về triết học; hợp tác với các tổ chức trong nước, nước ngoài trên lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu triết học theo quy định của pháp luật và của Học viện. Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, Viện Triết học đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp quan trọng vào truyền thống 75 năm Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong đó, nổi bật là phát triển lý luận triết học, góp phần khẳng định tính khoa học và cách mạng của triết học Mác - Lênin, củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong 75 năm qua, Viện Triết học đã thực hiện xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc nghiên cứu, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng, tham gia xây dựng những đề xuất, kiến nghị quan trọng của Học viện đối với Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực triết học, tư tưởng lý luận, tạo cơ sở phương pháp luận trong đổi mới tư duy lý luận, tư duy lãnh đạo, tư duy quản lý của Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Những thành tựu đó được chuyển hóa vào hoạt động của Viện Triết học trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cho Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội.

Với thành những thành tích đã đạt được, Viện Triết học nhận được nhiều phần thưởng cao quý do Đảng, Nhà nước trao tặng cho tập thể và các cá nhân, như: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba cho tập thể; Huân chương Hồ Chí Minh; danh hiệu Anh hùng Lao động, Huân chương Lao động; danh hiệu Nhà giáo nhân dân; Nhà giáo ưu tú… của các cá nhân.

2. Những đóng góp nổi bật của Viện Triết học trong nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận triết học Mác - Lênin

Thứ nhất, góp phần làm rõ tính khoa học, cách mạng và vai trò của triết học Mác - Lênin, khẳng định ý nghĩa phương pháp luận của triết học đối với tất cả các nghiên cứu, cách tiếp cận về khoa học xã hội, khoa học lý luận chính trị thông qua phương pháp biện chứng duy vật

Năm 1970, Viện Triết học xuất bản cuốn giáo trình đầu tiên về triết học (gồm 10 bài). Đây là tài liệu giảng dạy sớm nhất của Học viện cũng như của cả nước về triết học. Năm 1976, giáo trình Triết học do Viện chủ trì đã ra đời, gồm 2 tập: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử (với 23 chuyên đề). Năm 1991, Viện chủ trì xuất bản 3 tập giáo trình mới, gồm: Lịch sử triết học, Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cùng với đó, hệ thống các đề tài cấp nhà nước, cấp bộ đã góp phần nghiên cứu, làm sáng tỏ tính khoa học, cách mạng của triết học Mác - Lênin. Chứng minh rằng đó là “Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(4); triết học Mác - Lênin “không còn là một triết học nữa, mà là một thế giới quan, nó không cần phải được chứng thực và biểu hiện thành một khoa học đặc biệt nào đó của các khoa học, mà được chứng thực và biểu hiện trong các khoa học hiện thực”(5).

Các nghiên cứu đã khẳng định, triết học Mác - Lênin mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử, trên cơ sở quy luật vận động và phát triển của lịch sử xã hội, được đánh dấu bằng quan niệm duy vật về lịch sử do C.Mác phát hiện. Hệ thống triết học đó đã đóng góp to lớn vào sự phát triển khoa học triết học và nhiều khoa học khác, trở thành nền tảng lý luận có ý nghĩa phương pháp luận trong phát triển tư duy và nhận thức của nhân loại.

Khoa học triết học này không chỉ là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ, mà còn trở thành sự cần thiết tuyệt đối, hình thức tư duy quan trọng nhất, cao nhất, thích hợp nhất đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Nó đem lại cho các khoa học hiện đại phương pháp luận trong việc xem xét, lý giải bản thân sự phát triển của chính khoa học. V.I.Lênin khẳng định: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh”(6). “Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng, và kết hợp không phải một cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng, mà là kết hợp trong chính bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng khít”(7).

C.Mác “đã vạch ra con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học, coi lịch sử là một quá trình thống nhất và có quy luật, mặc dầu quá trình đó cực kỳ phức tạp và có nhiều mâu thuẫn”(8). Bất cứ những quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.

Các công trình nghiên cứu đã làm rõ triết học Mác - Lênin không chỉ là thế giới quan, phương pháp luận để chúng ta nhận thức về sự biến đổi của thế giới đương đại, mà còn là “vũ khí lý luận” trong cuộc đấu tranh, giải phóng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới để giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, hướng đến sự giải phóng triệt để và phát triển toàn diện con người. V.I.Lênin khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích được địa vị thực sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa”(9). “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”(10). “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(11).

Thứ hai, nghiên cứu sâu sắc, bổ sung và phát triển sáng tạo nhiều nội dung của thế giới quan triết học duy vật biện chứng, làm cơ sở cho việc xây dựng thế giới quan duy vật, khoa học và cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân

Các công trình nghiên cứu của Viện Triết học đã khẳng định, thế giới quan triết học duy vật biện chứng trên cơ sở triết học Mác - Lênin là thế giới quan duy vật, khoa học và cách mạng, là cơ sở để xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng của người Việt Nam.

Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử đã hình thành những loại hình thế giới quan khác nhau, góp phần định hướng cho việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong thực tiễn lao động, sản xuất, bảo vệ giang sơn, bờ cõi. Quan điểm của các nhà tư tưởng trong giải quyết quan hệ giữa tâm (tinh thần) và vật; giữa linh hồn và thể xác; giữa lý và khí (vật) đã cho thấy quan niệm duy vật (vật có trước thần; thể xác có trước linh hồn; khí có trước lý), hay duy tâm (thần có trước vật; lý có trước khí; hồn có trước thể xác). Hay qua việc giải thích nguyên nhân và nguồn gốc các sự kiện trọng đại của dân tộc như an nguy, trị loạn, hưng vong của các triều đại, số mệnh con người... Khi triết học duy vật biện chứng được truyền bá vào Việt Nam, thế giới quan của người Việt Nam có sự thay đổi căn bản. Những quan điểm duy vật khoa học về quy luật của tự nhiên, về sức mạnh của tự nhiên cũng như vị trí, vai trò và sức mạnh của con người, tin vào chính nghĩa, sự tất thắng của cách mạng, tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân... đã định hướng cho những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, thúc đẩy sự cải biến đời sống vật chất và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần mới, tiến bộ, góp phần hình thành những con người XHCN nhân văn, nhân đạo, văn minh.

Thứ ba, nghiên cứu sâu sắc, bổ sung và phát triển sáng tạo nhiều nội dung của phép biện chứng duy vật, làm rõ các nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; chứng minh triết học Mác - Lênin là hệ thống mở, tự đổi mới, tự phát triển, tạo khả năng mở rộng tư duy con người

Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những nguyên lý, quy luật và những phạm trù chung nhất. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nêu những nguyên lý nền tảng, những nội dung có tính chất phương pháp luận để nghiên cứu về thế giới vật chất nói chung. Khoa học hiện đại đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề cần tiếp tục bổ sung, làm sâu sắc hơn đối với phép biện chứng duy vật, theo cách mà V.I.Lênin đã bổ sung phép biện chứng duy vật trong Bút ký triết học, làm cơ sở để giải quyết những vấn đề của thực tiễn.

Cách mạng XHCN ở nước ta đã xuất hiện nhiều vấn đề phải giải quyết nhưng chưa được đề cập dưới góc độ lý luận trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và phát triển triết học Mác - Lênin là một yêu cầu tất yếu. Nhận thức được điều đó, các nghiên cứu của Viện Triết học, cùng với các viện nghiên cứu của Học viện đã góp phần khẳng định, làm rõ thêm nhiều vấn đề quan trọng. Chẳng hạn, làm rõ sự thống nhất giữa lý luận duy vật biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là điều hết sức cần thiết để khẳng định tính thống nhất, tính đa dạng của hệ thống lý luận triết học Mác - Lênin, từ đó cho phép nhìn nhận, phân tích những vấn đề của thực tiễn một cách toàn diện, tránh giáo điều, máy móc.

Các nghiên cứu đã khẳng định, phép biện chứng duy vật là lý thuyết triết học, đồng thời là phương pháp phổ biến của tư duy, sự nhận thức khoa học, “nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”(12), đồng thời là phương pháp để cải tạo xã hội. Phép biện chứng duy vật không cung cấp phương pháp cho những vấn đề cụ thể, mà nêu ra cách tiếp cận biện chứng, khoa học dưới góc độ phương pháp luận để thay đổi tư duy, cách nhìn nhận, đánh giá về các sự vật, hiện tượng, nhất là những sự kiện chính trị trong xã hội hiện đại. Phép biện chứng duy vật không chỉ là cơ sở để chúng ta hiểu bản chất, quá trình vận động, biến đổi của CNTB đương đại, mà còn tìm ra xu hướng, quy luật tất yếu của sự ra đời CNXH, CNCS. Nếu thiếu những điều đó, cách mạng không thể bảo đảm tính liên tục, không ngừng và không đi đến thắng lợi cuối cùng.

Đồng thời, phép biện chứng duy vật có khả năng tự đổi mới và phát triển, trở thành kim chỉ nam cho hành động, mở đường và hướng dẫn nhân loại tiến bộ tiếp tục tìm kiếm và nhận thức chân lý, chứ không đi tới chân lý tuyệt đích, cuối cùng. V.I.Lênin cho rằng: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”(13). Bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin hàm chứa những luận điểm mà để giải quyết, chúng ta phải tìm ở chính thực tiễn hôm nay, chứ không có tiền lệ trong lịch sử.

Những nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ phép biện chứng duy vật, như: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc thực tiễn đã được các công trình khoa học nghiên cứu, phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận, nội dung và yêu cầu cụ thể để quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Trong những năm qua, Viện Triết học đã thực hiện hàng trăm đề tài, nhiệm vụ khoa học các cấp, nhiều đề tài có giá trị kiến nghị khoa học - thực tiễn với Đảng, Nhà nước. Điển hình như: “Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”, “Triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, “Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực”, “Nghiên cứu tổng kết học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề xuất, bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới”; “Nghiên cứu tổng kết làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”; “Quan hệ cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”; “Giải pháp đột phá phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước hiện nay”; “Tổng kết sự phát triển lý luận của Đảng qua các kỳ Đại hội thời kỳ đổi mới”; “Khơi dậy khát vọng phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh mới”…

Các nghiên cứu của Viện Triết học đã làm rõ quan điểm duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư như là kết quả của lập luận lôgíc, tất yếu từ phép biện chứng duy vật. Điều cốt yếu được rút ra từ phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch sử đó là sự ra đời tất yếu của CNCS. “Chủ nghĩa cộng sản là hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp tới”(14). Đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”(15). Đây là cơ sở quan trọng để Đảng nêu quan điểm: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”(16).

Những nghiên cứu triết học đã khẳng định, CNXH hiện thực về bản chất là chủ nghĩa Mác - Lênin trong “tính hiện thực trực tiếp” của nó. Vì vậy, nghiên cứu CNXH hiện thực với những thành tựu, những giá trị với tư cách là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như những hậu quả, sự trả giá do xa rời hay vận dụng không đúng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là phương pháp luận của phép biện chứng duy vật liên quan trực tiếp đến việc làm sáng tỏ vận mệnh và tương lai của CNXH. Những nghiên cứu cũng khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng không lỗi thời, lạc hậu. Điều này góp phần củng cố bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tin tưởng vào con đường lên CNXH.

Thông qua bổ sung, phát triển học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, các nghiên cứu đã phân tích, làm rõ sự phân kỳ lịch sử theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, để thấy tính liên tục trong sự thay thế một cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển, tạo nên vòng nối tiếp, giữa các nấc thang, các thời đại, cũng như sự kế thừa, chế ước lẫn nhau giữa các dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Đồng thời, thấy được những khuynh hướng chủ đạo trong sự vận động của lịch sử, những dấu hiệu phổ biến cho các nấc thang phát triển của xã hội, cũng như những nét đặc thù cho từng xã hội cụ thể, nhất là những nước chưa trải qua chế độ TBCN như Việt Nam. Chẳng hạn, khẳng định về tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa các loại hình và hình thức sở hữu từ tình hình thực tiễn của một nền kinh tế lạc hậu, với trình độ vừa thấp, vừa không đồng đều của lực lượng sản xuất. Điều này thực chất là trở về với những vấn đề căn cốt lý luận của triết học Mác - Lênin, trên quan điểm lịch sử - cụ thể. Đây là điều cần thiết trong việc xác định những quan điểm, định hướng về sự phát triển của đất nước theo định hướng XHCN từ sự phân tích, lập luận của triết học.

Thứ tư, nghiên cứu sâu sắc, bổ sung và phát triển sáng tạo nhiều nội dung của triết học chính trị như vấn đề nhà nước, giai cấp, dân tộc, cách mạng xã hội, con người, ý thức xã hội, làm cơ sở để xây dựng các quan điểm, đường lối trong các lĩnh vực cụ thể, định hướng cho sự phát triển đất nước theo hướng tiến bộ, văn minh

Những nghiên cứu triết học đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của những vấn đề quan trọng như: Đảng Cộng sản cầm quyền, Nhà nước pháp quyền XHCN, nền dân chủ XHCN, mô hình CNXH, giai cấp, dân tộc cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay… Chẳng hạn, những nghiên cứu lý luận triết học về nguồn gốc, bản chất của nhà nước đã minh chứng tính ưu việt của nhà nước XHCN, cũng như tính tất yếu khách quan của sự ra đời Nhà nước XHCN Việt Nam; nghiên cứu về cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam trên cơ sở phương thức sản xuất vật chất với sự đan xen đa dạng, phức tạp của các kết cấu kinh tế - xã hội trong điều kiện đặc thù của một nước phương Đông…

Thành tựu to lớn đã đạt được qua 40 năm đổi mới đã chứng tỏ nhận thức lý luận của chúng ta hoàn toàn đúng đắn, lý tưởng của chúng ta hoàn toàn hiện thực. Việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể luôn là cơ sở cho những thành công của sự nghiệp cách mạng, để xây dựng được xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.

Phát huy những kết quả đạt được, Viện Triết học tiếp tục mở rộng nghiên cứu, bổ sung, vận dụng sáng tạo triết học Mác - Lênin, để nâng cao vai trò của triết học với đời sống xã hội, đồng thời tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của đất nước nói chung, của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nói riêng.

Đóng góp của Viện Quan hệ quốc tế vào sự phát triển của Học viện và thực hiện các nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong thời kỳ mới.

 Là một Viện chuyên ngành, thực hiện chức năng nghiên cứu và giảng dạy, tập thể cán bộ, giảng viên, viên chức các thế hệ của Viện Quan hệ quốc tế đã không ngừng phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào thành tích chung đầy tự hào của Trường Đảng mang tên Bác Hồ kính yêu. Bài viết tập trung phân tích làm rõ những đóng góp của Viện Quan hệ quốc tế vào sự phát triển của Học viện, thể hiện trên các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học và tham mưu hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng.

qhqt.jpg
Tập thể cán bộ, giảng viên Viện Quan hệ quốc tế tham gia Tọa đàm Ngoại giao đa phương trong việc phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam hiện nay, tháng 8-2024.

1. Mở đầu

Viện Quan hệ quốc tế, tiền thân là Khoa Phong trào Cộng sản và Công nhân Quốc tế, được thành lập ngày 17-10-1978, có chức năng giảng dạy, nghiên cứu, tham mưu hoạch định đường lối, chính sách về các vấn đề liên quan đến chính trị quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, địa - chính trị thế giới, an ninh chiến lược, nghiệp vụ ngoại giao. Trong dòng chảy 75 năm truyền thống vẻ vang của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cùng với các đơn vị trong toàn hệ thống Học viện, Viện Quan hệ quốc tế đã vinh dự đóng góp một phần để dựng xây nên truyền thống vẻ vang ấy.

2. Viện Quan hệ quốc tế góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong nước và quốc tế

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị. Trong suốt 46 năm xây dựng và trưởng thành, Viện Quan hệ quốc tế đã không ngừng nỗ lực thực hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, góp phần vào việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chung của Học viện.

Chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo của Viện Quan hệ quốc tế được thể hiện rõ trong nhận thức và hành động thực tiễn của học viên - những người sau khi ra trường đảm đương những trọng trách, cương vị lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Học viên sau khi học tập, nghiên cứu các môn học của Viện Quan hệ quốc tế đã được trang bị kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đối ngoại, đồng thời nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về thời đại và những vấn đề lớn của thế giới đương đại, cũng như biến động phức tạp của tình hình quốc tế. Những kiến thức mới trong các bài giảng về quan hệ quốc tế, địa - chính trị thế giới và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế đã được các lớp học viên khẳng định là rất bổ ích và thiết thực. Điều này đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao uy tín, vị thế của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong hệ thống chính trị và để lại ấn tượng tốt đẹp đối với các thế hệ học viên.

Một trong những thành tích rất đáng tự hào của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong suốt 75 năm xây dựng và phát triển là công tác đào tạo cán bộ dự nguồn từ trung ương đến địa phương. Hòa trong thành tích chung ấy, Viện Quan hệ quốc tế vinh dự có những giảng viên được lựa chọn tham gia giảng dạy chuyên đề “Cục diện thế giới và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam”. Các cơ quan trung ương và các địa phương đều đánh giá cao công tác lựa chọn giảng viên, lựa chọn chuyên đề và cách thức tổ chức lớp học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Cán bộ, giảng viên Viện Quan hệ quốc tế tích cực tham gia các hoạt động hợp tác nghiên cứu, giảng dạy với các trung tâm nghiên cứu lớn, các trường đại học hàng đầu Việt Nam về quan hệ quốc tế như các viện nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Ngoại giao…, trở thành những thành viên chủ chốt trong nhiều dự án nghiên cứu, trong công tác giảng dạy (thỉnh giảng), trong các hội đồng khoa học đánh giá luận văn, luận án, nghiệm thu đề tài… của các cơ sở đào tạo, từ đó tạo nên ấn tượng tốt đẹp của các đơn vị bạn đối với trình độ và uy tín của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Viện Quan hệ quốc tế đã nhiều năm liên tục tham gia bồi dưỡng, đào tạo cán bộ các hệ lớp hoàn chỉnh đại học, cử nhân chính trị, cao cấp lý luận và cao học, nghiên cứu sinh cho nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào. Đặc biệt, Viện còn được giao chủ trì giảng dạy các lớp bồi dưỡng kiến thức quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại, lễ tân ngoại giao cho cán bộ làm công tác đối ngoại của nước bạn, qua đó góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào.

Những năm qua, được sự đồng ý của Giám đốc Học viện, Viện Quan hệ quốc tế đã phối hợp với các đối tác nước ngoài tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm khoa học. Các hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học ngày càng hiệu quả, nhiều cán bộ, giảng viên, nhà khoa học tham dự đã sử dụng thành thạo tiếng Anh để trao đổi học thuật với các chuyên gia nước ngoài, qua đó góp phần làm tăng uy tín, hình ảnh và vị thế khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đồng thời, thông qua việc tổ chức các cuộc hội thảo khoa học quốc tế để đánh dấu những chặng đường hợp tác, phát triển giữa Việt Nam và các nước trên thế giới hoặc những hội thảo về các vấn đề chính trị thế giới, đường lối đối ngoại…, Viện Quan hệ quốc tế đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với bạn bè quốc tế, các đại sứ quán và các đối tác nước ngoài về công tác tổ chức chu đáo, khoa học, về sự nghiêm túc trong hoạt động chuyên môn, sự nhiệt tình và trách nhiệm trong công việc. Với tư cách là một đơn vị cấu thành Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, những ấn tượng tốt đẹp của các đối tác quốc tế đối với Viện Quan hệ quốc tế cũng chính là những đánh giá cao của phía bạn đối với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nói chung.

Trải qua gần nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, Viện Quan hệ quốc tế đã tạo môi trường làm việc, học tập, rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành cho nhiều thế hệ cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên. Nhiều đồng chí lãnh đạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ quan nhà nước đã từng công tác hoặc học tập tại Viện như PGS Thái Văn Lan - Phó Giám đốc Học viện; PGS, TS Nguyễn Tất Giáp - Phó Giám đốc Học viện; PGS, TS Nguyễn Viết Thảo - Phó Giám đốc Học viện; TS Ngô Hoan - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Học viện… Các đồng chí lãnh đạo trưởng thành từ Viện Quan hệ quốc tế đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh qua các thời kỳ. Trong dòng chảy lịch sử 75 năm vẻ vang của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Quan hệ quốc tế vinh dự và tự hào vì đã có những đóng góp vào công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống Học viện, đó cũng chính là nguồn động viên, cổ vũ để các thế hệ cán bộ đang công tác tại Viện tiếp bước, noi theo.

3. Viện Quan hệ quốc tế góp phần khẳng định vai trò không thể thiếu của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong việc tham mưu, tư vấn hoạch định đường lối, chính sách cho Đảng và Nhà nước

Trong mỗi bước ngoặt của lịch sử dân tộc, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh luôn thể hiện dấu ấn của mình. Những năm 80 thế kỷ XX, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng trong việc tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ cho Đảng và Nhà nước để giải quyết vấn đề lạm phát ở Việt Nam; Học viện đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước kiên định lập trường tư tưởng, vững vàng trước những biến động ở Liên Xô và Đông Âu. Hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục thể hiện vai trò là một think - tank hàng đầu ở Việt Nam.

Trong suốt 46 năm xây dựng và phát triển, tập thể cán bộ, giảng viên Viện Quan hệ quốc tế đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu, sáng tạo, trên cơ sở cập nhật tình hình trong nước và quốc tế, đã tiến hành nghiên cứu hàng trăm đề tài khoa học các cấp, sản phẩm nghiên cứu chứa đựng những đề xuất, giải pháp, khuyến nghị đối sách cho Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại và quan hệ quốc tế. Ngoài ra, trước những vấn đề thời sự cấp bách, từng cá nhân hoặc nhóm nghiên cứu của Viện đã kịp thời có những Báo cáo kiến nghị gửi cơ quan trung ương, đây là những sản phẩm nghiên cứu góp phần quan trọng vào việc hoạch định đường lối hoặc tư vấn đối sách cho Đảng và Nhà nước. Trong số đó có bốn báo cáo điển hình, được lựa chọn đưa vào tài liệu tham khảo cho các lớp bồi dưỡng cán bộ cấp chiến lược khóa XIII và dự nguồn cán bộ chiến lược khóa XIV tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đó là:

- “Về đường lối đối ngoại và hợp tác quốc tế của nước ta trong điều kiện nền kinh tế số” do PGS, TS Phan Văn Rân và TS Ngô Chí Nguyện thực hiện năm 2019.

- “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân trong tình hình mới” do PGS, TS Nguyễn Thị Quế và PGS, TS Phan Văn Rân thực hiện năm 2021.

- “Khủng hoảng Ucraina và kiến nghị đối sách của Việt Nam” do PGS, TS Nguyễn Viết Thảo, GS, TSKH Phan Xuân Sơn, TS Đào Ngọc Báu thực hiện năm 2022.

- “Bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới” do PGS, TS Thái Văn Long thực hiện năm 2022.

Các Báo cáo kiến nghị của Viện Quan hệ quốc tế đã góp phần vào việc hình thành nên hệ thống các tài liệu của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về tư vấn chính sách, đối sách, đường lối chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, qua đó không chỉ thể hiện sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của Trường Đảng mang tên Bác Hồ kính yêu, mà còn khẳng định vai trò không thể thiếu của một think - tank hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực khoa học chính trị.

Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học các cấp cũng cung cấp nhiều luận cứ khoa học, nhiều kiến nghị, giải pháp, trở thành những nguồn tài liệu tham khảo rất có giá trị cho các cơ quan đảng, nhà nước trong hoạch định và thực hiện đường lối đối ngoại.

Quan hệ quốc tế không ngừng vận động và biến đổi, mặc dù hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng thế giới vẫn đứng trước nhiều thách thức; tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tập hợp lực lượng trong cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc đóng vai trò then chốt đối với việc định hình cục diện thế giới thời gian tới; cuộc đua tranh về kinh tế và khoa học công nghệ, nhất là giữa các cường quốc và các trung tâm kinh tế sẽ ngày càng quyết liệt; khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tiếp tục là trung tâm của sự vận động địa - chính trị và địa - kinh tế toàn cầu, điều đó đòi hỏi công tác tham mưu, tư vấn chính sách càng phải nhanh chóng, kịp thời với những dự báo chính xác và đối sách phù hợp với thực lực của đất nước và bối cảnh quốc tế.

Nhận thức sâu sắc điều này, hiện nay, Viện Quan hệ quốc tế tập trung vào việc xây dựng đội ngũ chuyên gia có kiến thức sâu về từng quốc gia hoặc từng khu vực, nhất là những nước lớn, những trung tâm quyền lực chính của thế giới có ảnh hưởng chủ yếu đến quan hệ quốc tế nhằm đưa ra những báo cáo tư vấn chính sách kịp thời, đúng và trúng vấn đề cần giải quyết. Thực hiện tốt điều này sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng, số lượng của các tư vấn chính sách của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh gửi tới các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

4. Viện Quan hệ quốc tế góp phần vào việc xây dựng Đảng bộ Học viện vững mạnh, xây dựng Học viện trở thành trung tâm quốc gia về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Chi bộ Viện Quan hệ quốc tế luôn chú trọng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, xây dựng khối đoàn kết thống nhất, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt đảng và kỷ luật đảng. Các đảng viên của Chi bộ luôn gương mẫu, tiên phong trong công việc, trong sinh hoạt đảng tại cơ quan và nơi cư trú, qua đó tạo nên một hình ảnh đẹp về người đảng viên, cán bộ Trường Đảng, góp phần củng cố niềm tin của người dân vào Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống Trường Đảng. Với 100% cán bộ đang công tác tại Viện là đảng viên, Chi bộ Viện Quan hệ quốc tế đã góp phần tích cực vào việc xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên của Học viện, tạo nên một tập thể gương mẫu, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Đảng viên Chi bộ Viện Quan hệ quốc tế luôn tích cực tham gia công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Một số cán bộ Viện được phân công phụ trách chuyên mục Vấn đề quốc tế của website Vietnamthinhvuong, đã tích cực tham gia công tác biên tập, biên dịch các bài viết, góp phần nâng cao uy tín, tạo sự lan tỏa của các bài viết về chủ đề này. Việc tham gia vào hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn được thể hiện ở các bài viết của cán bộ Viện Quan hệ quốc tế được đăng trên các báo, tạp chí hằng tháng; thể hiện ở sự nhiệt tình hưởng ứng và tham gia tích cực vào Cuộc thi chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Những thành tích này không chỉ thể hiện qua số lượng bài dự thi mà còn ở chất lượng tác phẩm, kết quả là liên tục các năm qua, một số cán bộ của Viện đã đạt giải. Dù giải thưởng còn khiêm tốn nhưng những kết quả đạt được của Viện Quan hệ quốc tế đã góp phần tạo nên thành tích chung của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đưa Học viện trở thành một trong những đơn vị có thành tích xuất sắc trong thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII về Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, trở thành chỗ dựa về lý luận và là nguồn cung cấp tài liệu quý giá cho nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể trên cả nước. Đến nay, Cuộc thi đã trở thành hoạt động thường niên, thu hút sự quan tâm của đông đảo nhà khoa học, công chức, viên chức, người làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân, người dân Việt Nam và người nước ngoài.

5. Viện Quan hệ quốc tế góp phần vào thành tích chung của công tác đoàn thể và công tác thi đua của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Cán bộ Viện Quan hệ quốc tế luôn tham gia tích cực vào các hoạt động do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Công đoàn tổ chức, góp phần vào thành tích chung của Học viện, được tổ chức Đoàn và Công đoàn cấp trên ghi nhận, biểu dương. Những hoạt động văn nghệ, thể thao, hoạt động chung tay xây dựng nhà tình nghĩa, trợ cấp người nghèo, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, phong trào phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà, phong trào hiến máu nhân đạo… được tập thể Viện Quan hệ quốc tế nhiệt tình hưởng ứng và ủng hộ, góp phần hình thành nên những hoạt động sôi nổi trong toàn hệ thống Học viện. Viện Quan hệ quốc tế đã vinh dự có 2 công đoàn viên được Công đoàn Viên chức Việt Nam tặng Bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua xây dựng cơ quan và tổ chức công đoàn vững mạnh.

Đoàn viên thanh niên của Viện luôn nhiệt tình tham gia các hoạt động Đoàn. Trong tổ chức Đoàn, một cán bộ của Viện đã từng được tín nhiệm bầu là Bí thư Đoàn Thanh niên Học viện, một số cán bộ tham gia Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Học viện, tất cả đều không ngừng nỗ lực cùng với tập thể đoàn viên thanh niên tạo nên những phong trào nghiên cứu khoa học, rèn luyện, học tập để trưởng thành trong nghiên cứu và giảng dạy, qua đó góp phần đào tạo cán bộ trẻ “vừa hồng vừa chuyên” trong toàn hệ thống Học viện.

Một số cán bộ Viện nhiệt tình tham gia xây dựng và phát triển Chi hội Cựu chiến binh Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Họ luôn phát huy bản lĩnh, khí phách của Bộ đội cụ Hồ, gương mẫu, tiên phong trong các công việc tập thể, góp phần tạo nên những hoạt động ý nghĩa của tổ chức Hội.

Đối với các phong trào thi đua của Học viện, tập thể cán bộ Viện Quan hệ quốc tế luôn nhiệt tình hưởng ứng, chung tay tạo nên những thành tích đáng ghi nhận, điển hình như phong trào thi đua xây dựng “Tập thể kiểu mẫu” và “Cán bộ trường Đảng mẫu mực”; một số cán bộ của Viện đã tham gia vào những cuộc thi để lan tỏa các phong trào thi đua như “Cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan Đảng Trung ương thi đua thực hiện văn hóa công sở”, đóng góp của các cá nhân tham gia hội thi đã góp phần đưa Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xếp hạng hai toàn đoàn, được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đồng chí lãnh đạo các cơ quan Đảng Trung ương ghi nhận và biểu dương.

Với bề dày thành tích đạt được trong công tác giảng dạy và đào tạo, tập thể Viện Quan hệ quốc tế đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba; nhiều cán bộ của Viện đã được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu cao quý như Huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba; nhiều cán bộ của Viện đã vinh dự được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; tập thể và một số cán bộ của Viện vinh dự được Đảng và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba; Huân chương và Huy chương Hữu nghị. Những kết quả đạt được ấy đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong bảng vàng thành tích của tập thể cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên, người lao động Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

6. Kết luận

Là một Viện chuyên ngành, đơn vị cấu thành hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tập thể cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên và người lao động Viện Quan hệ quốc tế luôn ý thức sâu sắc về trách nhiệm của người cán bộ Trường Đảng, không ngừng nỗ lực phấn đấu, chung sức, đồng lòng, quyết tâm cùng các tập thể, đơn vị khác xây dựng một Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày càng vững mạnh, phát triển, cùng cả dân tộc vững bước đi trên con đường CNXH mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp thực hiện quy định của Ban Bí thư về trường chính trị chuẩn.

 Xây dựng trường chính trị chuẩn có tầm quan trọng đặc biệt nhằm chuẩn hóa các điều kiện của trường chính trị, chuẩn hóa quá trình hoạt động của nhà trường, tạo bước đột phá trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, giúp các trường chính trị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Với ý nghĩa đó, ngày 19-5-2021, Ban Bí thư ban hành Quy định số 11-QĐ/TW về trường chính trị chuẩn. Bài viết khái quát những điểm nổi bật trong quá trình triển khai thực hiện đạt chuẩn mức 1 của Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp, từ đó rút ra những kinh nghiệm để làm cơ sở tiếp tục phấn đấu đạt chuẩn mức 2 ở giai đoạn tiếp theo.

Trường Chính trị
Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp tổ chức Hội nghị viên chức và người lao động năm 2023 _ Ảnh: truongchinhtri.dongthap.gov.vn

1. Mở đầu

“Cán bộ là gốc của mọi công việc… huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, để làm tốt công việc “gốc” của Đảng đòi hỏi hệ thống Trường Đảng - trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được chuẩn hóa. Xuất phát từ yêu cầu đó, Ban Bí thư ban hành Quy định số 11-QĐ/TW ngày 19-5-2021, về trường chính trị chuẩn, nhằm chuẩn hóa, nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn và các hoạt động khác của trường chính trị. Theo Quy định số 11, có 2 mức chuẩn: chuẩn mức 1 bao gồm 6 nhóm tiêu chí, với 55 chỉ tiêu; chuẩn mức 2 là trên cơ sở đã đạt chuẩn mức 1, gồm 55 chỉ tiêu của mức 1 nhưng được nâng lên, yêu cầu cao hơn cộng thêm 12 chỉ tiêu mới. Việc xem xét đánh giá công nhận đạt chuẩn được tính trong khoảng thời gian là 5 năm kể từ năm xét công nhận tính lùi lại.

2. Quá trình triển khai thực hiện Quy định số 11 của Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp

Khái quát về Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp

Năm 1955, do yêu cầu phải tổ chức các lớp huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ, Tỉnh ủy Sa Đéc quyết định thành lập “Khung Trường Đảng tỉnh” (chỉ có vài đồng chí phụ trách công việc của trường, chưa có tổ chức bộ máy và cán bộ) với tên gọi là “Tư Huyến” để bảo đảm hoạt động bí mật. Trải qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng, mang những tên gọi khác nhau, Trường Đảng của tỉnh Đồng Tháp thực hiện nhiệm vụ chính trị là đào tạo cán bộ của tỉnh có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ trong từng giai đoạn.

Thực hiện Quy định số 09-QĐi/TW ngày 13-11-2018 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy và thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định.

Tổ chức, bộ máy gồm: Ban Giám hiệu, gồm Hiệu trưởng và 02 Phó Hiệu trưởng; 03 khoa chuyên môn và 02 phòng chức năng; tổng biên chế được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao là 38 biên chế.

Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện Quy định số 11

Thuận lợi

Thực hiện chủ trương, sự chỉ đạo, hướng dẫn của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; sự quan tâm lãnh đạo thường xuyên của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, trực tiếp là các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy đã có sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời từ chủ trương đến cơ chế, chính sách.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Đề án “Xây dựng Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đạt chuẩn”, chỉ đạo các ngành, các cấp trong tỉnh phối hợp với Trường Chính trị sớm triển khai thực hiện và sự nhiệt tình hỗ trợ của các ngành, các cấp, các cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy, nhất là Ban Tổ chức Tỉnh ủy.

Đảng ủy, Ban Giám hiệu và toàn thể viên chức, người lao động và học viên các lớp đã đoàn kết thống nhất và tự giác thực hiện với quyết tâm chính trị cao nhất nhằm sớm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đạt chuẩn.

Khó khăn

Các quy định, hướng dẫn thi, xét thăng hạng đối với viên chức chậm ban hành, thiếu đồng bộ, dẫn đến việc không tổ chức thi hoặc xét thăng hạng thường xuyên nên đội ngũ giảng viên của trường chính trị gặp khó khăn trong việc hoàn thành chỉ tiêu này. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên đổi mới; giáo trình cập nhật, tài liệu phát hành không kịp thời dẫn đến việc tổ chức thực hiện bị động.

Việc triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn khó khăn, bất cập như hồ sơ, thủ tục rườm rà, phức tạp; Trường triển khai các đề tài khoa học xã hội, khoa học lý luận chính trị nhưng trong quy định có những yêu cầu đòi hỏi về sản phẩm, hiệu quả, kết quả sau khi nghiên cứu như là đề tài thuộc lĩnh vực khoa học ứng dụng, khoa học kỹ thuật, từ đó dẫn đến đề tài không được chấp nhận…, bên cạnh đó, do yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngày càng tăng, Trường phải mở nhiều lớp hơn, giảng viên phải ưu tiên thời gian cho công tác giảng dạy, không còn nhiều thời gian cho công tác nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác.

Trong Quy định số 11-QĐ/TW của Ban Bí thư về trường chính trị chuẩn, quy định về tiêu chí cơ sở vật chất còn chung chung, chưa quy định cụ thể diện tích phòng làm việc của từng vị trí việc làm, quy định tiêu chuẩn của Ban Giám hiệu, lãnh đạo khoa - phòng,… để các trường có căn cứ, cơ sở đưa vào Đề án.

Quá trình triển khai và kết quả thực hiện các tiêu chí trường chính trị chuẩn

Khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp ban hành Đề án, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng Kế hoạch thực hiện Đề án; Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo; củng cố, giữ vững niềm tin, thống nhất hành động; tạo sự đồng thuận và quyết tâm chính trị cao để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Trường Chính trị đạt chuẩn mức I.

Ban Giám hiệu đã ban hành Kế hoạch số 252-KH/TCT ngày 08-9-2023 về triển khai thực hiện Đề án xây dựng Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đạt chuẩn. Tiếp đó, Đảng ủy Trường ban hành Nghị quyết số 10-NQ/ĐU ngày 15-10-2023 về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, phát huy vai trò tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nhiệm vụ xây dựng Trường Chính trị đạt chuẩn và Chương trình hành động số 47-CTr/ĐU thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/ĐU của Đảng ủy Trường. Trong Nghị quyết và Chương trình hành động của Đảng ủy Trường Chính trị đã xác định rõ mục tiêu và đưa ra các chỉ tiêu cụ thể để phấn đấu trong toàn Đảng bộ.

Qua đó, đã tạo động lực, niềm tin, khơi dậy sự nỗ lực cố gắng từ lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Trường đến toàn thể viên chức, nhân viên, học viên nhà trường xác định mục tiêu, quyết tâm thực hiện các tiêu chí.

Đến nay, Trường đã đạt 6 nhóm tiêu chí với 55 chỉ tiêu, bao gồm: 1) Tiêu chí về thể chế, quy định (có 01 chỉ tiêu); 2) Tiêu chí về đội ngũ cán bộ, viên chức (có 29 chỉ tiêu); 3) Tiêu chí về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng (có 05 chỉ tiêu); 4) Tiêu chí về hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn (có 09 chỉ tiêu); 5) Tiêu chí về văn hóa Trường Đảng, thực hiện kỷ luật, kỷ cương (có 08 chỉ tiêu); 6) Tiêu chí về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và tài chính (có 03 chỉ tiêu); trong đó, có 08 chỉ tiêu vượt chuẩn và Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đã đạt chuẩn mức 1 sớm hơn 1 năm so với mục tiêu của Đề án đặt ra. Trong kết quả chung đó, có thể thấy Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp có những điểm sáng đáng tự hào, đó là:

Thứ nhất, về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, giảng viên

Hiện tại, Trường có 25/26 giảng viên trình độ sau đại học, trong đó có 05 giảng viên có trình độ tiến sĩ, có 05 giảng viên đang học nghiên cứu sinh. Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp có số tiến sĩ, nghiên cứu sinh nằm trong top đầu các trường chính trị trong cả nước.

Đội ngũ giảng viên có nhiều đổi mới về phương pháp giảng dạy, chú trọng áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Qua hai kỳ Hội thi giảng viên giỏi toàn quốc lần thứ VII, VIII, Trường cử 04 giảng viên tham dự, cả 04 đều đạt danh hiệu Giảng viên dạy giỏi, trong đó có 02 giảng viên đạt Giảng viên dạy xuất sắc.

Trường quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, đã tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy phê duyệt danh sách giảng viên thỉnh giảng gồm 29 đồng chí là lãnh đạo chủ chốt của tỉnh; đồng thời Hiệu trưởng cũng Quyết định danh sách giảng viên thỉnh giảng gồm 34 đồng chí là giảng viên ở các cơ sở giáo dục trong và ngoài tỉnh, là lãnh đạo các ban, sở ngành, địa phương có chuyên môn phù hợp và có phương pháp sư phạm; đây là cơ hội để bổ sung kinh nghiệm thực tiễn về lãnh đạo, quản lý cho cán bộ, giảng viên, học viên của Trường.

Nhằm trang bị kiến thức thực tiễn và kỹ năng công tác cho giảng viên, Trường đã phối hợp Ban Tổ chức Tỉnh ủy cùng với địa phương, cơ sở để đưa giảng viên đi biệt phái có kỳ hạn ở cơ sở. Năm 2023, biệt phái 2 giảng viên, 01 giảng viên giữ chức Phó Giám đốc Trung tâm Chính trị huyện Lai Vung, 01 Phó Khoa Xây dựng Đảng giữ chức Phó Trưởng Ban Tuyên giáo của Thành ủy Sa Đéc.

Thứ hai, về công tác đào tạo, bồi dưỡng

Giai đoạn 2019-2024, Trường tổ chức được 64 lớp trung cấp lý luận chính trị, trong đó có 20 lớp tập trung, 44 lớp không tập trung. Trường đã thực hiện đầy đủ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo chức năng, nhiệm vụ tại Quy định số 09-QĐ/TW. Trường luôn hoàn thành vượt định mức kế hoạch được giao về nhiệm vụ đào tạo trung cấp lý luận chính trị; đồng thời, thực hiện tốt việc đa dạng hóa các loại hình bồi dưỡng với 227 lớp bồi dưỡng. Trường luôn chú trọng cải tiến nội dung chương trình, cập nhật kịp thời các chủ trương, nghị quyết mới, bổ sung các chuyên đề thực tiễn vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng; bảo đảm rõ về lý luận, sát với đối tượng, phù hợp với thực tiễn. Trường thực hiện nghiêm việc đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng theo quy định và kết quả đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng hằng năm đều đạt mức khá trở lên.

Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh covid-19, được sự hướng dẫn của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và sự đồng ý của Thường trực Tỉnh ủy, năm 2021, Trường đã linh hoạt tổ chức các lớp bằng hình thức trực tuyến để triển khai tốt các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; đồng thời, chủ động đổi mới hình thức thảo luận, kiểm tra, thi kết thúc học phần, nghiên cứu thực tế, viết tiểu luận tốt nghiệp, theo hướng bảo đảm nội dung, chương trình, quy chế, quy định và chất lượng, hiệu quả. Đây là lần đầu tiên Trường áp dụng hình thức dạy - học trực tuyến và là một trong những trường chính trị tiên phong chuyển đổi sang hình thức dạy - học trực tuyến để thích ứng với tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp.

Thứ ba, về hoạt động nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn

Trong 5 năm, Trường thực hiện được 01 đề tài khoa học cấp bộ và 2 đề án cấp tỉnh; 15 đề tài khoa học cấp trường; tổ chức được 02 hội thảo khoa học cấp tỉnh và tương đương, 01 hội thảo khoa học cấp bộ; 15 hội thảo, tọa đàm cấp trường, trong cụm, khối thi đua; xuất bản 07 cuốn sách chuyên khảo, tham khảo, kỷ yếu hội thảo khoa học được chuyển giao về các khoa chuyên môn để phục vụ cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học của Trường; làm tài liệu tham khảo có giá trị cho các trường chính trị trong khu vực và cả nước. Đội ngũ cán bộ, giảng viên tích cực viết bài đăng trên các tạp chí khoa học quốc gia và quốc tế.

Thứ tư, về xây dựng văn hóa Trường Đảng

Trường đã xây dựng Quy định về ứng xử văn hóa trong nhà trường, ban hành được bộ Tiêu chí văn hóa ứng xử trong nhà trường. Đảng ủy Trường ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, phát huy vai trò tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nhiệm vụ xây dựng Trường Chính trị đạt chuẩn.

Thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, theo đó đã xây dựng kế hoạch, quyết định… để triển khai phong trào thi đua. Trường luôn bám sát các phong trào thi đua do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phát động, xây dựng được mô hình điển hình có tính lan tỏa đến các trường chính trị trong khu vực và hệ thống. Trong 05 năm qua, có 03 tập thể, 36 cá nhân được khen thưởng; Trường vinh dự được tặng 3 Cờ thi đua (1 Cờ thi đua của Chính phủ, 2 Cờ thi đua của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) và 04 Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Thực hiện Kế hoạch số 341-KH/HVCTQG, ngày 20-8-2021 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về triển khai cuộc vận động “Xây dựng phong cách cán bộ Trường Đảng trung thành, sáng tạo, cống hiến vì sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu lý luận chính trị” giai đoạn 2021 - 2025, Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đăng cai tổ chức Hội thảo khoa học trong Cụm thi đua các trường chính trị khu vực đồng bằng sông Cửu Long với chủ đề “Xây dựng phong cách trung thành, sáng tạo, cống hiến vì sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, viên chức, giảng viên trường chính trị khu vực đồng bằng Sông Cửu Long”. Hội thảo góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, viên chức, người lao động của các trường chính trị trong Cụm thi đua về ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cống hiến vì sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu lý luận chính trị và xây dựng văn hóa trường Đảng.

5. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Ngay sau khi Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện với nhiều hoạt động:

Thành lập Tổ 35 để theo dõi và kịp thời tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; nắm bắt thông tin dư luận, tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và học viên, kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở các đảng viên, học viên và quần chúng trong sử dụng và khai thác thông tin từ các trang mạng xã hội.

Thành lập chuyên mục “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” trên trang thông tin điện tử của Trường để lan tỏa những bài viết chất lượng về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng; một số cán bộ, giảng viên tích cực viết bài về chủ đề này đăng trên các tạp chí khoa học, trang Việt Nam thịnh vượng...

Tích cực viết bài tham gia Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức; trong các năm Trường đều có giải (năm 2021: 01 giải C, năm 2022: 01 giải triển vọng, năm 2023: 01 giải khuyến khích); ngoài ra, năm 2022, Trường đã tổ chức cuộc thi riêng để lan tỏa đến tất cả đảng viên, học viên của Trường; năm 2023 và năm 2024, tất cả giảng viên của Trường đều có bài dự thi do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức và đều có giải.

Trường đã tích cực thực hiện việc lồng ghép nội dung Nghị quyết số 35 vào các bài giảng ở các lớp đào tạo, bồi dưỡng; phát huy vai trò, trách nhiệm của giảng viên trong công tác tuyên truyền, định hướng cho học viên trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Năm 2023, Trường đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức Hội thi giảng viên/giáo viên dạy giỏi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Chính trị tỉnh, trung tâm chính trị huyện, các trường đại học, cao đẳng trong tỉnh; giáo viên dạy môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trong tỉnh. Hội thi đã tạo ra một sân chơi mới để các giáo viên/giảng viên có thể kết nối, giao lưu, học tập kinh nghiệm, lan tỏa ý nghĩa và giá trị tốt đẹp; Hội thi thành công tốt đẹp, được Ban Thường vụ Tỉnh ủy đánh giá cao và đồng ý cho Trường Chính trị được tổ chức định kỳ 2 năm/lần.

3. Những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn xây dựng trường đạt chuẩn

Qua quá trình triển khai thực hiện Quy định số 11, Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, Ban Giám hiệu cần chủ động trong tất cả các giai đoạn thực hiện, trước tiên là chủ động trong việc dự thảo xây dựng Đề án, không trông chờ, ý lại vào sự hỗ trợ của các ngành, các cấp; phải chủ động trong công tác tham vấn, lấy ý kiến góp ý để sớm hoàn chỉnh dự thảo Đề án trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

Hai là, khi xây dựng dự thảo Đề án cần khảo sát, rà soát thật kỹ để biết chính xác Trường đã đạt bao nhiêu chỉ tiêu; còn những chỉ tiêu nào chưa đạt, cần bao nhiêu (%) nữa để đạt? Càng chính xác, càng cụ thể thì Ban Giám hiệu mới có kế hoạch, giải pháp, tiến độ thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu để đạt chuẩn. Từ kết quả rà soát đó, Ban Giám hiệu chủ động triển khai đến toàn thể các phòng, khoa, cá nhân viên chức dự thảo kế hoạch, biện pháp, lộ trình để thực hiện các chỉ tiêu chưa đạt để đến khi Đề án được Ban Thường vụ ban hành là triển khai thực hiện ngay chứ không chờ đến khi Đề án ban hành thì các phòng, khoa, cá nhân mới bắt đầu triển khai, như vậy sẽ rất chậm, mất nhiều thời gian. Nhờ có sự chủ động như vậy, nên khi Đề án được Ban Thường vụ ban hành vào ngày 03-02-2023 thì chỉ sau 1 năm, đến tháng 6-2024, Trường đã đạt đầy đủ 55/55 chỉ tiêu.

Ba là, phân chia các tiêu chí, chỉ tiêu thành các nhóm thuộc thẩm quyền của từng chủ thể để có cách tác động đến chủ thể đó một cách phù hợp. Cụ thể như trong 6 nhóm tiêu chí, 55 chỉ tiêu sẽ phân thành 03 nhóm: 1) Nhóm thuộc thẩm quyền của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; 2) Nhóm thuộc thẩm quyền của Tỉnh; 3) Nhóm thuộc thẩm quyền của Trường. Đối với các tiêu chí thuộc thẩm quyền của Học viện, của Tỉnh thì Ban Giám hiệu gửi công văn đề nghị hỗ trợ trường trong việc thực hiện các tiêu chí đó, như việc cử học các lớp bồi dưỡng cấp chứng chỉ theo quy định, hay cử tham gia xét thăng hạng giảng viên chính… Đối với các tiêu chí thuộc thẩm quyền của Trường, Đảng ủy ra Nghị quyết, Ban Giám hiệu ban hành Kế hoạch, lãnh đạo phòng - khoa triển khai đến toàn thể viên chức, với quyết tâm chính trị, sự đồng thuận và đoàn kết của tập thể viên chức của Trường cùng phấn đấu thực hiện đạt các tiêu chí của trường chính trị chuẩn để xây dựng Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp nằm trong top đầu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long về chất lượng, kỷ cương, sáng tạo và phát triển.

Bốn là, nghiên cứu kỹ Hướng dẫn số 61-HD/HVCTQG ngày 17-5-2024 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về quy trình công nhận trường chính trị chuẩn và cụ thể hóa một số nội dung của Quy định số 11- QĐ/TW; đồng thời thường xuyên liên hệ với Vụ Các trường chính trị để được tư vấn, hướng dẫn và hỗ trợ trực tiếp các vấn đề liên quan đến việc thực hiện các chỉ tiêu.

Thứ năm, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức của lãnh đạo các sở, ban ngành, địa phương, rằng việc thực hiện Đề án xây dựng Trường Chính trị đạt chuẩn là Đề án của Tỉnh ủy, là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, trong đó có trách nhiệm của các sở, ban ngành có liên quan chứ không phải là việc riêng của Trường Chính trị.

4. Kết luận

Xây dựng trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn là chủ trương chung của Đảng ta để nhằm chuẩn hóa, nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn của trường để góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển. Do đó, Đảng ủy, Ban Giám hiệu, toàn thể viên chức của Trường phải thấy được trách nhiệm của mình, phải hiểu được ý nghĩa lớn lao của việc xây dựng trường chính trị đạt chuẩn, từ đó mỗi trường phải đề ra mục tiêu rõ ràng, xây dựng kế hoạch cụ thể, lựa chọn giải pháp phù hợp, xác định lộ trình, tiến độ hợp lý cùng với sự đồng lòng, quyết tâm, đoàn kết của toàn thể cán bộ, viên chức tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu để sớm trở thành trường chính trị chuẩn.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN CHẾ TẠO MÁY BAY KHÔNG NGƯỜI LÁI ĐÃ ĐƯỢC HOA KỲ ĐẶT MUA ĐỂ PHỤC VỤ CẢNH SÁT!

         Sản phẩm này được giới chuyên môn đánh giá là đứng đầu thế giới trong phân khúc và không gặp bất cứ đối thủ nào ngang tầm. Đây là hình ảnh tiến sỹ Lương Việt Quốc người sáng lập Realtime Robotise (RtR). Năm 2002 anh Quốc nhận học bổng sau đại học ở Mỹ . Anh hoàn thành chương trình tiến sỹ và làm việc tại Hoa Kỳ . Năm 2017 anh trở về Vn thành lập công ty RtR và TRỞ THÀNH NGƯỜI VN ĐẦU TIÊN ĐƯỢC CẤP PHÉP SẢN XUẤT drone. Tính đến năm 2023 RtR đã nhận được khoảng 4 triệu USD vốn đầu tư . Hiện RtR có khoảng 50 kỹ sư đảm nhận toàn bộ quy trình sản xuất drone. Dòng drone Hera của cty RtR được giới chuyên ngành nhận định (là máy bay không người lái duy nhất trên thế giới có 12 tính năng vượt trội và sở hữu sức mạnh chiến đấu hàng đầu) Đáng chú ý lô hàng đầu tiên đã được nhà phân phối lớn drone của Mỹ cung cấp cho cảnh sát LB. 
Tại Vn RtR dự kiến sẽ cung cấp chiếc drone đầu tiên cho cục Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ thuộc Bộ Công An. Toàn bộ công nghệ sản xuất được đặt tại khu CN cao Tp HCM./.


Yêu nước ST.

10 Thành tựu nổi bật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Trong 10 năm (2014 - 2024).

 Kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1949-2024), Tạp chí Lý luận chính trị trân trọng giới thiệu 10 thành tựu nổi bật của Học viện trong 10 năm (2014-2024)

1. Đổi mới nội dung chương trình, biên soạn, xuất bản giáo trình cho tất cả các hệ đào tạo, bồi dưỡng

Thường xuyên chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật quan điểm của Đại hội Đảng vào hệ thống 29 giáo trình trung cấp, cao cấp lý luận chính trị. Hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung 03 chương trình, biên soạn 65 bộ giáo trình cho 03 chuyên ngành cử nhân chính trị. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo sau đại học của toàn hệ thống Học viện. Biên soạn 07 chương trình bồi dưỡng giảng viên các trường chính trị và giáo trình hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.

2. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng và kỷ cương công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh, vị trí việc làm đủ phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ

Học viện đã tổ chức thành công 03 lớp bồi dưỡng dành cho Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 02 lớp bồi dưỡng Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Đồng thời, lần đầu tiên tổ chức lớp bồi dưỡng theo chức danh Phó Bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; 10 lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, XIII và đang thực hiện lớp thứ hai bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV... Bên cạnh đó, Học viện còn tổ chức 02 Chương trình trao đổi chuyên đề dành cho cán bộ cấp cao và 02 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ cấp Thứ trưởng của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

3. Đổi mới mạnh mẽ công tác nghiên cứu khoa học theo hướng gắn kết giữa lý luận và thực tiễn; giữa nghiên cứu và tham mưu hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách lớn của Nhà nước

Học viện đã thực hiện thành công hơn 100 công trình khoa học lớn, cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và XIV. Tổ chức nhiều diễn đàn, hội thảo có sức lan tỏa lớn trong nước và quốc tế. Đã xây dựng hơn 100 báo cáo kiến nghị cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ phục vụ quá trình hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Tổ chức trao giải thưởng cho 04 công trình, cụm công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị xuất sắc vào năm 2024.

4.Tích cực, chủ động, tiên phong, đổi mới sáng tạo trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Học viện đã chủ động triển khai lồng ghép, tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vào chương trình, bài giảng và trong công tác đào tạo, bồi dưỡng. Trở thành trung tâm kết nối với ban tuyên giáo cấp ủy cấp tỉnh, các trường đại học, viện nghiên cứu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Biên soạn sổ tay bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cuộc thi Chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được nâng cấp từ cấp bộ lên cấp quốc gia.

5. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác biên soạn lịch sử Đảng và nghiên cứu tiểu sử các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, cán bộ lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam

Chủ động tổ chức, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng, ban, bộ, ngành và địa phương. Tham mưu hoàn thiện thể chế để không ngừng tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng. Đã nghiên cứu, đề xuất Bộ Chính trị công nhận 3 lãnh đạo tiền bối tiêu biểu, tổ chức nghiên cứu; và xuất bản 33 cuốn tiểu sử của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của cách mạng Việt Nam.

6. Tạo bước đột phá trong nâng cao vị thế và chất lượng các trường chính trị

Đã tham mưu Ban Bí thư ban hành Quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các trường chính trị và trường chính trị chuẩn. Hướng dẫn, hỗ trợ và thúc đẩy các trường chính trị đạt chuẩn, góp phần tạo ra sự thay đổi căn bản trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của các trường chính trị trong cả nước.

7. Đổi mới mạnh mẽ công tác hợp tác quốc tế, thông tin khoa học, xuất bản, tạp chí phục vụ cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học

Đã hợp tác với hơn 200 đối tác quốc tế; thực hiện nhiều dự án và hoạt động hợp tác quốc tế, gia tăng nguồn lực cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học và nâng cao vị thế, uy tín của Học viện trên trường quốc tế. Công tác thông tin khoa học, xuất bản, tạp chí phục vụ đắc lực cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học.

8. Gương mẫu đi đầu trong kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ hợp lý về số lượng và cơ cấu, chất lượng không ngừng nâng cao

Gương mẫu thực hiện nghiêm việc sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học, nhất là cán bộ trẻ. Tăng cường việc luân chuyển, cử cán bộ, giảng viên đi thực tế tại ban, bộ, ngành, địa phương.

9. Hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng công nghệ gắn với nâng cao chất lượng phục vụ

Đã xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp hệ thống nhà ở học viên hiện đại; nâng cao chất lượng giảng đường, hội trường, phòng hội thảo quốc tế, trang thiết bị vật chất, công nghệ, cảnh quan khuôn viên phục vụ tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mọi miền Tổ quốc. Đổi mới chất lượng, phong cách phục vụ theo hướng trách nhiệm, chuyên nghiệp, thân thiện.

10. Xây dựng Đảng bộ Học viện trong sạch, vững mạnh toàn diện, giữ gìn, phát huy bản sắc Trường Đảng

Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, tập thể Trường Đảng kiểu mẫu, phát huy bản sắc Trường Đảng mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.