Trong quá trình xây dựng và phát triển Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Triết học có nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo triết học Mác - Lênin; tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở cho những thành công to lớn của sự nghiệp cách mạng. Bài viết nêu bật những đóng góp của Viện Triết học góp phần phát triển lý luận triết học Mác - Lênin, bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.
PGS, TS ĐẶNG QUANG ĐỊNH
Viện Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Viện Triết học với nhiệm vụ nghiên cứu, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện mới, gồm ba bộ phận cấu thành chủ yếu là triết học, kinh tế chính trị học và CNXH khoa học, được hình thành trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và tổng kết thực tiễn phát triển của khoa học và cách mạng thế giới. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng, dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật, nhằm giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội tốt đẹp để phát triển toàn diện con người, theo lý tưởng cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn cờ tư tưởng, vũ khí lý luận của các đảng cộng sản và phong trào cách mạng trên toàn thế giới đấu tranh vì hòa bình, tự do, tiến bộ, văn minh, hạnh phúc.
Từ khi được truyền bá vào Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành phương pháp luận trong quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhất quán khẳng định quan điểm này(2). Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, điểm 1 Điều 4 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(3). Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng đối với tư duy, phương pháp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phải nghiên cứu, vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, triết học Mác - Lênin, làm cơ sở xây dựng thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhất là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ này được Đảng giao cho nhiều tổ chức khoa học trong cả nước, trong đó Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là nghiên cứu, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng vào đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ khoa học lý luận chính trị.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được thành lập năm 1949, đến nay đã có 75 năm truyền thống vẻ vang. Theo Quyết định số 145-QĐ/TW, ngày 08-8-2018 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội; là trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý phục vụ giảng dạy, học tập, góp phần cung cấp luận cứ khoa học trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được thành lập tháng 9-1957 với chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận triết học, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, xây dựng, hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giảng dạy triết học Mác - Lênin trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý trung, cao cấp cho hệ thống chính trị; nghiên cứu xây dựng chương trình, nội dung, tổ chức biên soạn, chỉnh lý các giáo trình, tài liệu học tập và tài liệu tham khảo về triết học; tham mưu cho Giám đốc Học viện về chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học về triết học; hợp tác với các tổ chức trong nước, nước ngoài trên lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu triết học theo quy định của pháp luật và của Học viện. Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, Viện Triết học đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp quan trọng vào truyền thống 75 năm Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong đó, nổi bật là phát triển lý luận triết học, góp phần khẳng định tính khoa học và cách mạng của triết học Mác - Lênin, củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trong 75 năm qua, Viện Triết học đã thực hiện xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc nghiên cứu, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng, tham gia xây dựng những đề xuất, kiến nghị quan trọng của Học viện đối với Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực triết học, tư tưởng lý luận, tạo cơ sở phương pháp luận trong đổi mới tư duy lý luận, tư duy lãnh đạo, tư duy quản lý của Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Những thành tựu đó được chuyển hóa vào hoạt động của Viện Triết học trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cho Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội.
Với thành những thành tích đã đạt được, Viện Triết học nhận được nhiều phần thưởng cao quý do Đảng, Nhà nước trao tặng cho tập thể và các cá nhân, như: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba cho tập thể; Huân chương Hồ Chí Minh; danh hiệu Anh hùng Lao động, Huân chương Lao động; danh hiệu Nhà giáo nhân dân; Nhà giáo ưu tú… của các cá nhân.
2. Những đóng góp nổi bật của Viện Triết học trong nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận triết học Mác - Lênin
Thứ nhất, góp phần làm rõ tính khoa học, cách mạng và vai trò của triết học Mác - Lênin, khẳng định ý nghĩa phương pháp luận của triết học đối với tất cả các nghiên cứu, cách tiếp cận về khoa học xã hội, khoa học lý luận chính trị thông qua phương pháp biện chứng duy vật
Năm 1970, Viện Triết học xuất bản cuốn giáo trình đầu tiên về triết học (gồm 10 bài). Đây là tài liệu giảng dạy sớm nhất của Học viện cũng như của cả nước về triết học. Năm 1976, giáo trình Triết học do Viện chủ trì đã ra đời, gồm 2 tập: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử (với 23 chuyên đề). Năm 1991, Viện chủ trì xuất bản 3 tập giáo trình mới, gồm: Lịch sử triết học, Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cùng với đó, hệ thống các đề tài cấp nhà nước, cấp bộ đã góp phần nghiên cứu, làm sáng tỏ tính khoa học, cách mạng của triết học Mác - Lênin. Chứng minh rằng đó là “Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(4); triết học Mác - Lênin “không còn là một triết học nữa, mà là một thế giới quan, nó không cần phải được chứng thực và biểu hiện thành một khoa học đặc biệt nào đó của các khoa học, mà được chứng thực và biểu hiện trong các khoa học hiện thực”(5).
Các nghiên cứu đã khẳng định, triết học Mác - Lênin mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử, trên cơ sở quy luật vận động và phát triển của lịch sử xã hội, được đánh dấu bằng quan niệm duy vật về lịch sử do C.Mác phát hiện. Hệ thống triết học đó đã đóng góp to lớn vào sự phát triển khoa học triết học và nhiều khoa học khác, trở thành nền tảng lý luận có ý nghĩa phương pháp luận trong phát triển tư duy và nhận thức của nhân loại.
Khoa học triết học này không chỉ là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ, mà còn trở thành sự cần thiết tuyệt đối, hình thức tư duy quan trọng nhất, cao nhất, thích hợp nhất đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Nó đem lại cho các khoa học hiện đại phương pháp luận trong việc xem xét, lý giải bản thân sự phát triển của chính khoa học. V.I.Lênin khẳng định: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh”(6). “Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng, và kết hợp không phải một cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng, mà là kết hợp trong chính bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng khít”(7).
C.Mác “đã vạch ra con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học, coi lịch sử là một quá trình thống nhất và có quy luật, mặc dầu quá trình đó cực kỳ phức tạp và có nhiều mâu thuẫn”(8). Bất cứ những quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.
Các công trình nghiên cứu đã làm rõ triết học Mác - Lênin không chỉ là thế giới quan, phương pháp luận để chúng ta nhận thức về sự biến đổi của thế giới đương đại, mà còn là “vũ khí lý luận” trong cuộc đấu tranh, giải phóng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới để giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, hướng đến sự giải phóng triệt để và phát triển toàn diện con người. V.I.Lênin khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích được địa vị thực sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa”(9). “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”(10). “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(11).
Thứ hai, nghiên cứu sâu sắc, bổ sung và phát triển sáng tạo nhiều nội dung của thế giới quan triết học duy vật biện chứng, làm cơ sở cho việc xây dựng thế giới quan duy vật, khoa học và cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân
Các công trình nghiên cứu của Viện Triết học đã khẳng định, thế giới quan triết học duy vật biện chứng trên cơ sở triết học Mác - Lênin là thế giới quan duy vật, khoa học và cách mạng, là cơ sở để xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng của người Việt Nam.
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử đã hình thành những loại hình thế giới quan khác nhau, góp phần định hướng cho việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong thực tiễn lao động, sản xuất, bảo vệ giang sơn, bờ cõi. Quan điểm của các nhà tư tưởng trong giải quyết quan hệ giữa tâm (tinh thần) và vật; giữa linh hồn và thể xác; giữa lý và khí (vật) đã cho thấy quan niệm duy vật (vật có trước thần; thể xác có trước linh hồn; khí có trước lý), hay duy tâm (thần có trước vật; lý có trước khí; hồn có trước thể xác). Hay qua việc giải thích nguyên nhân và nguồn gốc các sự kiện trọng đại của dân tộc như an nguy, trị loạn, hưng vong của các triều đại, số mệnh con người... Khi triết học duy vật biện chứng được truyền bá vào Việt Nam, thế giới quan của người Việt Nam có sự thay đổi căn bản. Những quan điểm duy vật khoa học về quy luật của tự nhiên, về sức mạnh của tự nhiên cũng như vị trí, vai trò và sức mạnh của con người, tin vào chính nghĩa, sự tất thắng của cách mạng, tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân... đã định hướng cho những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, thúc đẩy sự cải biến đời sống vật chất và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần mới, tiến bộ, góp phần hình thành những con người XHCN nhân văn, nhân đạo, văn minh.
Thứ ba, nghiên cứu sâu sắc, bổ sung và phát triển sáng tạo nhiều nội dung của phép biện chứng duy vật, làm rõ các nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; chứng minh triết học Mác - Lênin là hệ thống mở, tự đổi mới, tự phát triển, tạo khả năng mở rộng tư duy con người
Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những nguyên lý, quy luật và những phạm trù chung nhất. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nêu những nguyên lý nền tảng, những nội dung có tính chất phương pháp luận để nghiên cứu về thế giới vật chất nói chung. Khoa học hiện đại đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề cần tiếp tục bổ sung, làm sâu sắc hơn đối với phép biện chứng duy vật, theo cách mà V.I.Lênin đã bổ sung phép biện chứng duy vật trong Bút ký triết học, làm cơ sở để giải quyết những vấn đề của thực tiễn.
Cách mạng XHCN ở nước ta đã xuất hiện nhiều vấn đề phải giải quyết nhưng chưa được đề cập dưới góc độ lý luận trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và phát triển triết học Mác - Lênin là một yêu cầu tất yếu. Nhận thức được điều đó, các nghiên cứu của Viện Triết học, cùng với các viện nghiên cứu của Học viện đã góp phần khẳng định, làm rõ thêm nhiều vấn đề quan trọng. Chẳng hạn, làm rõ sự thống nhất giữa lý luận duy vật biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là điều hết sức cần thiết để khẳng định tính thống nhất, tính đa dạng của hệ thống lý luận triết học Mác - Lênin, từ đó cho phép nhìn nhận, phân tích những vấn đề của thực tiễn một cách toàn diện, tránh giáo điều, máy móc.
Các nghiên cứu đã khẳng định, phép biện chứng duy vật là lý thuyết triết học, đồng thời là phương pháp phổ biến của tư duy, sự nhận thức khoa học, “nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”(12), đồng thời là phương pháp để cải tạo xã hội. Phép biện chứng duy vật không cung cấp phương pháp cho những vấn đề cụ thể, mà nêu ra cách tiếp cận biện chứng, khoa học dưới góc độ phương pháp luận để thay đổi tư duy, cách nhìn nhận, đánh giá về các sự vật, hiện tượng, nhất là những sự kiện chính trị trong xã hội hiện đại. Phép biện chứng duy vật không chỉ là cơ sở để chúng ta hiểu bản chất, quá trình vận động, biến đổi của CNTB đương đại, mà còn tìm ra xu hướng, quy luật tất yếu của sự ra đời CNXH, CNCS. Nếu thiếu những điều đó, cách mạng không thể bảo đảm tính liên tục, không ngừng và không đi đến thắng lợi cuối cùng.
Đồng thời, phép biện chứng duy vật có khả năng tự đổi mới và phát triển, trở thành kim chỉ nam cho hành động, mở đường và hướng dẫn nhân loại tiến bộ tiếp tục tìm kiếm và nhận thức chân lý, chứ không đi tới chân lý tuyệt đích, cuối cùng. V.I.Lênin cho rằng: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”(13). Bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin hàm chứa những luận điểm mà để giải quyết, chúng ta phải tìm ở chính thực tiễn hôm nay, chứ không có tiền lệ trong lịch sử.
Những nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ phép biện chứng duy vật, như: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc thực tiễn đã được các công trình khoa học nghiên cứu, phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận, nội dung và yêu cầu cụ thể để quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trong những năm qua, Viện Triết học đã thực hiện hàng trăm đề tài, nhiệm vụ khoa học các cấp, nhiều đề tài có giá trị kiến nghị khoa học - thực tiễn với Đảng, Nhà nước. Điển hình như: “Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”, “Triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, “Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực”, “Nghiên cứu tổng kết học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề xuất, bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới”; “Nghiên cứu tổng kết làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”; “Quan hệ cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”; “Giải pháp đột phá phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước hiện nay”; “Tổng kết sự phát triển lý luận của Đảng qua các kỳ Đại hội thời kỳ đổi mới”; “Khơi dậy khát vọng phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh mới”…
Các nghiên cứu của Viện Triết học đã làm rõ quan điểm duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư như là kết quả của lập luận lôgíc, tất yếu từ phép biện chứng duy vật. Điều cốt yếu được rút ra từ phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch sử đó là sự ra đời tất yếu của CNCS. “Chủ nghĩa cộng sản là hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp tới”(14). Đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”(15). Đây là cơ sở quan trọng để Đảng nêu quan điểm: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”(16).
Những nghiên cứu triết học đã khẳng định, CNXH hiện thực về bản chất là chủ nghĩa Mác - Lênin trong “tính hiện thực trực tiếp” của nó. Vì vậy, nghiên cứu CNXH hiện thực với những thành tựu, những giá trị với tư cách là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như những hậu quả, sự trả giá do xa rời hay vận dụng không đúng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là phương pháp luận của phép biện chứng duy vật liên quan trực tiếp đến việc làm sáng tỏ vận mệnh và tương lai của CNXH. Những nghiên cứu cũng khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng không lỗi thời, lạc hậu. Điều này góp phần củng cố bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tin tưởng vào con đường lên CNXH.
Thông qua bổ sung, phát triển học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, các nghiên cứu đã phân tích, làm rõ sự phân kỳ lịch sử theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, để thấy tính liên tục trong sự thay thế một cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển, tạo nên vòng nối tiếp, giữa các nấc thang, các thời đại, cũng như sự kế thừa, chế ước lẫn nhau giữa các dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Đồng thời, thấy được những khuynh hướng chủ đạo trong sự vận động của lịch sử, những dấu hiệu phổ biến cho các nấc thang phát triển của xã hội, cũng như những nét đặc thù cho từng xã hội cụ thể, nhất là những nước chưa trải qua chế độ TBCN như Việt Nam. Chẳng hạn, khẳng định về tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa các loại hình và hình thức sở hữu từ tình hình thực tiễn của một nền kinh tế lạc hậu, với trình độ vừa thấp, vừa không đồng đều của lực lượng sản xuất. Điều này thực chất là trở về với những vấn đề căn cốt lý luận của triết học Mác - Lênin, trên quan điểm lịch sử - cụ thể. Đây là điều cần thiết trong việc xác định những quan điểm, định hướng về sự phát triển của đất nước theo định hướng XHCN từ sự phân tích, lập luận của triết học.
Thứ tư, nghiên cứu sâu sắc, bổ sung và phát triển sáng tạo nhiều nội dung của triết học chính trị như vấn đề nhà nước, giai cấp, dân tộc, cách mạng xã hội, con người, ý thức xã hội, làm cơ sở để xây dựng các quan điểm, đường lối trong các lĩnh vực cụ thể, định hướng cho sự phát triển đất nước theo hướng tiến bộ, văn minh
Những nghiên cứu triết học đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của những vấn đề quan trọng như: Đảng Cộng sản cầm quyền, Nhà nước pháp quyền XHCN, nền dân chủ XHCN, mô hình CNXH, giai cấp, dân tộc cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay… Chẳng hạn, những nghiên cứu lý luận triết học về nguồn gốc, bản chất của nhà nước đã minh chứng tính ưu việt của nhà nước XHCN, cũng như tính tất yếu khách quan của sự ra đời Nhà nước XHCN Việt Nam; nghiên cứu về cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam trên cơ sở phương thức sản xuất vật chất với sự đan xen đa dạng, phức tạp của các kết cấu kinh tế - xã hội trong điều kiện đặc thù của một nước phương Đông…
Thành tựu to lớn đã đạt được qua 40 năm đổi mới đã chứng tỏ nhận thức lý luận của chúng ta hoàn toàn đúng đắn, lý tưởng của chúng ta hoàn toàn hiện thực. Việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể luôn là cơ sở cho những thành công của sự nghiệp cách mạng, để xây dựng được xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Phát huy những kết quả đạt được, Viện Triết học tiếp tục mở rộng nghiên cứu, bổ sung, vận dụng sáng tạo triết học Mác - Lênin, để nâng cao vai trò của triết học với đời sống xã hội, đồng thời tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của đất nước nói chung, của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nói riêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét