Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Vững vàng trên mâm pháo

 

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung đoàn 240, Sư đoàn 363 (Quân chủng Phòng không-Không quân) đã chiến đấu anh dũng, diệt nhiều máy bay địch, được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Phát huy truyền thống vẻ vang, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn hôm nay luôn vững vàng trên mâm pháo, nêu cao cảnh giác, huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao, góp phần bảo vệ sự bình yên bầu trời Tổ quốc.

Chúng tôi đến Trung đoàn 240 đúng vào dịp cán bộ, chiến sĩ đơn vị đang đẩy mạnh thực hiện đợt thi đua chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Trung đoàn (20-10-1954 / 20-10-2024). Hai bên đường từ cổng vào đơn vị, hệ thống cờ, hoa, băng rôn, khẩu hiệu được trang hoàng rực rỡ. Ôn lại những trang lịch sử hào hùng và chiến công vẻ vang của Trung đoàn năm xưa, mỗi cán bộ, chiến sĩ đơn vị hôm nay đều trào dâng niềm tự hào.

Vững vàng trên mâm pháo
Kíp chiến đấu Đại đội 171 (Trung đoàn 240) huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. 

Ngày 20-10-1954, Trung đoàn 689 (tiền thân của Trung đoàn 240) được thành lập tại Định Hóa, Thái Nguyên. Sau khi ổn định biên chế, tiếp nhận vũ khí, khí tài, Trung đoàn bắt tay vào xây dựng doanh trại, trận địa và tổ chức huấn luyện chiến đấu. Tháng 12-1955, Trung đoàn 689 tiến về tiếp quản, bảo vệ TP Hải Phòng, rồi được đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 240, đồng thời mang tên Đoàn Thành Tô, bí danh của đồng chí Tô Hiệu-người cộng sản trung kiên, nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng.

Sau lời giới thiệu về truyền thống đơn vị của chỉ huy Trung đoàn, chúng tôi được tham quan buổi huấn luyện kíp chiến đấu tại Đại đội 171 (Trung đoàn 240). Bài tập giả định là đơn vị đánh địch tập kích bảo vệ mục tiêu quan trọng. Sau tiếng kẻng báo động cấp 1 vang lên, các chiến sĩ nhanh chóng cơ động ra vị trí chiến đấu. Chỉ trong giây lát, các pháo thủ thuần thục động tác theo chức trách của từng số; nòng pháo 37mm giương cao, hướng lên bầu trời sục sạo mục tiêu.

Phát huy truyền thống, từ đầu năm đến nay, 100% phân đội trực ban sẵn sàng chiến đấu của Trung đoàn đều đạt tiêu chuẩn “Đơn vị trực ban khá”. Các lần tham gia diễn tập, bắn đạn thật trong nhiều năm trở lại đây đều được Tư lệnh Quân chủng tặng Cờ “Đơn vị bắn giỏi”. Trung đoàn còn chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật và tiến hành tốt hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị. Đơn vị tham gia hàng trăm ngày công giúp nhân dân địa phương vệ sinh môi trường, xóa đói, giảm nghèo, chữa cháy rừng, khắc phục hậu quả bão số 3, thực hiện các hoạt động đền ơn đáp nghĩa...

Để có được những kết quả trên, Đảng ủy, chỉ huy Trung đoàn đã chú trọng, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho bộ đội về truyền thống anh hùng của Quân đội, Quân chủng và đơn vị. Từ đó khơi dậy lòng tin, niềm tự hào, xác định rõ hơn vinh dự và trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu".

Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ Hà Nội vững mạnh, rộng khắp

 

Lực lượng dân quân tự vệ Thủ đô Hà Nội những năm qua được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm xây dựng vững mạnh, rộng khắp, tổ chức hoạt động hiệu quả, đáp ứng nhiệm vụ thường xuyên cũng như đột xuất trên địa bàn.

Nâng cao chất lượng tuyển chọn, huấn luyện hiệu quả

Để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với lực lượng dân quân tự vệ (DQTV) Thủ đô là phải được lựa chọn đáp ứng đúng, đủ tiêu chuẩn; đào tạo cơ bản; rèn luyện, huấn luyện, bồi dưỡng thường xuyên.

Theo Đại tá Nguyễn Quang Đấu, Trưởng phòng DQTV (Bộ Tham mưu Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội), những năm qua, Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã tham mưu, chỉ đạo thực hiện tốt công tác xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh, rộng khắp bằng nhiều biện pháp, cách làm sáng tạo. Các đơn vị, địa phương làm tốt công tác đăng ký công dân trong độ tuổi; xây dựng, kiện toàn tổ chức biên chế đúng quy định, đủ cơ cấu thành phần, có số lượng phù hợp, chất lượng chính trị ngày càng được nâng cao. Hiện TP Hà Nội đã xây dựng được hơn 1.600 đơn vị DQTV, tỷ lệ DQTV đạt 1,2% so với dân số, tỷ lệ đảng viên trong DQTV đạt 23,2%.

Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ Hà Nội vững mạnh, rộng khắp
 Huấn luyện phòng cháy, chữa cháy cho dân quân quận Bắc Từ Liêm (Hà Nội). Ảnh: HỮU THU

Đặc biệt, thực hiện Chương trình số 09-CTr/TU ngày 17-3-2021 của Thành ủy Hà Nội về “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố giai đoạn 2021-2025” và Kế hoạch số 579/KH-UBND ngày 22-12-2020 của UBND thành phố về “Tổ chức xây dựng lực lượng DQTV TP Hà Nội 5 năm 2021-2025", TP Hà Nội chỉ đạo các đơn vị, địa phương đẩy nhanh tiến độ thành lập đơn vị dân quân thường trực (DQTT). Tính đến hết tháng 10-2024, toàn thành phố đã thành lập được 8 trung đội và 125 tiểu đội DQTT.      

TP Hà Nội đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) cho DQTV. Ngoài huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị theo đúng chương trình, kế hoạch, DQTV còn được huấn luyện bổ sung để sử dụng thành thạo nhiều loại công cụ hỗ trợ hiện đại được biên chế. Hằng năm, 100% đơn vị DQTV được huấn luyện đúng kế hoạch, quân số tham gia đạt hơn 97%.

Công tác diễn tập có sự đổi mới theo hướng thiết thực, chất lượng, bám sát chức năng, nhiệm vụ trên từng địa bàn; nội dung, hình thức phong phú, như: Diễn tập khu vực phòng thủ; diễn tập phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn; diễn tập phòng, chống cháy rừng... Qua đó, chất lượng tổng hợp và khả năng SSCĐ của lực lượng DQTV được nâng lên.

Theo đồng chí Đào Đăng Đức, Chỉ huy trưởng Ban CHQS phường Đội Cấn (Ba Đình, Hà Nội), phường Đội Cấn là địa bàn trung tâm thành phố, điều kiện thao trường, bãi tập không thuận lợi, nhưng đơn vị vẫn vận dụng linh hoạt, sử dụng các công trình công cộng để làm thao trường huấn luyện cho lực lượng DQTV. Đặc biệt, Tiểu đội DQTT của phường ngoài thực hiện nghiêm chế độ trực SSCĐ tại đơn vị thì nhiệm vụ huấn luyện quân sự, học tập chính trị cũng được duy trì thường xuyên. “Việc rèn luyện thường xuyên, liên tục giúp anh em luôn nêu cao ý thức, trách nhiệm, nâng cao nhận thức, tích cực, chủ động trong mọi nhiệm vụ”, đồng chí Đức chia sẻ.

Chỗ dựa vững chắc của chính quyền và nhân dân

Hoạt động tại địa bàn Thủ đô có nhiều đặc điểm khác, đòi hỏi yêu cầu cao hơn so với các địa phương của cả nước. Lực lượng DQTV Thủ đô luôn gương mẫu, đi đầu, làm nòng cốt trong công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ và phòng thủ dân sự, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng trong thực hiện nhiệm vụ trực SSCĐ, tuần tra, canh gác, nắm chắc tình hình, sẵn sàng ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, cháy nổ... góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Theo Thượng tá Lương Hồng Trường, Chỉ huy trưởng Ban CHQS quận Thanh Xuân, lực lượng DQTV của quận phát huy rất tốt ở cơ sở trong các nhiệm vụ đột xuất như phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ-cứu nạn và phòng, chống thiên tai... Đầu tháng 10 vừa qua, quận Thanh Xuân đã chính thức thành lập Trung đội DQTT của quận. “Chúng tôi tin tưởng sự ra đời của đơn vị này sẽ góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quân sự, quốc phòng ở địa phương”, Thượng tá Lương Hồng Trường chia sẻ.   

Tương tự, Tiểu đội DQTT phường Đội Cấn tuy thành lập chưa lâu nhưng đã phát huy rất hiệu quả trong thực hiện các nhiệm vụ của địa phương. Ngoài duy trì huấn luyện, trực SSCĐ theo quy định, các chiến sĩ của đơn vị còn tham gia điều tiết giao thông, giữ gìn trật tự, khắc phục hậu quả mưa bão, phục vụ bảo đảm an ninh trật tự cho các sự kiện lớn trên địa bàn.

Tại các huyện ven sông, vùng trũng thấp của Hà Nội như Chương Mỹ, Quốc Oai, Thạch Thất... thường phải chịu hậu quả nặng nề hơn khi có mưa bão. Theo Thượng tá Bùi Bá Dũng, Chính trị viên Ban CHQS huyện Chương Mỹ, trong những tình huống như vậy, lực lượng dân quân tại các địa phương thường được huy động tối đa, là lực lượng chính, xung kích đi đầu trong việc đắp đê ngăn lũ, di chuyển tài sản, di tản người dân ra khỏi vùng ngập lụt, cứu hộ các trường hợp gặp nạn, trực gác tại các điểm trọng yếu...

Theo số liệu do Phòng DQTV (Bộ Tham mưu Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội) cung cấp, chỉ trong 9 tháng của năm 2024, Hà Nội đã huy động hơn 123.000 lượt DQTV tham gia trực thường xuyên; phối hợp tuần tra, canh gác, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các mục tiêu được giao; bảo vệ các ngày lễ, tết, các sự kiện chính trị quan trọng; tham gia phòng, chống lụt bão, cháy nổ, cháy rừng, tìm kiếm cứu nạn và tham gia xây dựng nông thôn mới...

Con số đó nói lên nhiều điều, cho thấy chủ trương xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh, rộng khắp là hoàn toàn đúng đắn. Trước mỗi nhiệm vụ, mỗi vấn đề phát sinh ở cơ sở, lực lượng này luôn là nòng cốt, nhanh chóng có mặt phối hợp với các lực lượng giải quyết hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại. Như nhận xét của đồng chí Nguyễn Văn Tuấn, Bí thư Đảng ủy phường Long Biên, quận Long Biên (Hà Nội): “Lực lượng dân quân luôn tham gia tích cực, xung kích trong các nhiệm vụ, đóng góp rất lớn trong giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của địa phương, là chỗ dựa tin cậy của cấp ủy, chính quyền mỗi khi xảy ra sự cố, thiên tai, dịch bệnh”.  

Có thể thấy, qua các hoạt động, lực lượng DQTV của Thủ đô ngày càng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt, đóng góp xứng đáng, cùng với các lực lượng bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, bảo vệ Thủ đô, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới...

Chuyển hóa cơ hội, tiềm năng thành những dự án hợp tác thực chất, hiệu quả với các nước vùng Vịnh

 Với những định hướng, thỏa thuận đã đạt được, chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đặt cơ sở quan trọng để chuyển hóa những cơ hội, tiềm năng thành những dự án hợp tác cụ thể, thực chất, hiệu quả thời gian tới với vùng Vịnh

Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam vừa kết thúc tốt đẹp chuyến thăm đến ba nước Trung Đông với tinh thần mở đường, tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, coi trọng "thời gian" và "trí tuệ". Trong chuyến công tác này, lần đầu tiên Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác toàn diện và ký kết hiệp định thương mại tự do với một nước Trung Đông, góp phần huy động những nguồn lực mới phát triển đất nước.

Đêm ngày 1/11, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã về tới Hà Nội, kết thúc tốt đẹp chuyến thăm đến ba nước Trung Đông: Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Vương quốc Saudi Arabia và Nhà nước Qatar. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đến khu vực sau 15 năm.

Vùng Vịnh là một trong những khu vực phát triển năng động hàng đầu thế giới, đứng đầu về trữ lượng dầu mỏ, có các trung tâm tài chính hàng đầu, đang đi đầu trong chuyển đổi mô hình phát triển mới theo hướng đa dạng hóa nền kinh tế và đang đón đầu các xu thế mới về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

UAE, Saudi Arabia và Qatar nằm trong những cường quốc năng lượng, có quy mô kinh tế lớn và vai trò quan trọng tại Trung Đông. Ba nước nói riêng và khu vực Trung Đông - Bắc Phi là những đối tác, thị trường, trung tâm tài chính, công nghệ lớn của khu vực, thế giới với tiềm năng, dư địa hợp tác với Việt Nam còn rất lớn.

Việt Nam và các quốc gia khu vực vùng Vịnh, Trung Đông - Bắc Phi từ lâu đã có truyền thống quan hệ hữu nghị tốt đẹp. Đặc biệt, trong những năm gần đây, các quốc gia Trung Đông đều đặt Việt Nam vào vị trí ưu tiên trong "chính sách hướng Đông" của mình. Các nước Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) ngày càng gần gũi với các nước ASEAN về tầm nhìn và định hướng phát triển.

Đây là những nền tảng quan trọng để UAE, Saudi Arabia, Qatar cũng như các nước khác trong khu vực và Việt Nam tăng cường hợp tác, khai thác những tiềm năng, thế mạnh của nhau, kết nối với nhau, bổ trợ cho nhau, đưa quan hệ lên tầm cao mới, toàn diện hơn, sâu sắc hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và ba nước trong thời gian gần đây còn chưa tương xứng với quan hệ chính trị - ngoại giao tốt đẹp, tiềm năng, nhu cầu và mong muốn của hai bên.

Trong thời gian thăm ba nước, Thủ tướng Chính phủ đã có chương trình làm việc dày đặc, phong phú, thực chất, hiệu quả với gần 60 hoạt động, gồm các cuộc hội đàm, tiếp xúc với Lãnh đạo cấp cao, các bộ trưởng, lãnh đạo các tập đoàn, quỹ đầu tư hàng đầu thế giới của ba nước; phát biểu tại Hội nghị Sáng kiến đầu tư tương lai lần thứ 8 (FII8) tại Saudi Arabia; phát biểu chính sách tại Học viện Ngoại giao UAE; phát biểu tại Tọa đàm Doanh nghiệp Việt Nam - UAE; dự lễ khai trương phòng trưng bày của Vinfast tại UAE và lễ khai trương văn phòng khu vực của FPT tại Saudi Arabia; thăm khu liên hợp hóa dầu Ras Laffan tại Qatar, Bảo tàng Tương lai tại Dubai (UAE) và Bảo tàng Quốc gia Qatar; gặp gỡ cán bộ nhân viên đại sứ quán, cộng đồng người Việt Nam tại ba nước…

Các Bộ trưởng, lãnh đạo các cơ quan, địa phương tham gia đoàn công tác cũng có hàng chục cuộc tiếp xúc, làm việc, trao đổi thiết thực, hiệu quả với các đối tác.

Chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, thực chất, là dấu mốc quan trọng của mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với ba nước UAE, Saudi Arabia, Qatar nói riêng và khu vực Trung Đông - Bắc Phi nói chung.

"Trí tuệ", "Thời gian" và Tầm nhìn tương lai

"Thời gian" và "Trí tuệ" là những định hướng quan trọng được người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm trong suốt chuyến thăm tới ba nước. Tư duy, tầm nhìn chiến lược, hướng tới tương lai cũng là những ấn tượng đậm nét trong các hoạt động của Thủ tướng Chính phủ, ngay từ tên gọi các sự kiện, địa điểm như Hội nghị Sáng kiến đầu tư tương lai, Bảo tàng Tương lai và con đường phát triển trong tương lai mà ba nước cũng như Việt Nam đã xác định.

Theo Thủ tướng, con đường phát triển của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với ba nước, trong đó các nhà Lãnh đạo có những điểm chung về tầm nhìn, tư duy đổi mới và phát triển; coi trọng "thời gian", coi trọng "trí tuệ", cùng chung khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao và ấn tượng với sự phát triển vượt bậc, những kỳ tích, thành công ngoạn mục trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, "biến những gì không thể thành có thể" của ba quốc gia. Cùng nhìn về tương lai, với khát vọng không ngừng vươn lên, UAE đang nỗ lực hiện thực hóa "Tầm nhìn UAE 2031", "Tầm nhìn UAE 2071", Qatar triển khai chiến lược "Tầm nhìn 2030" và Saudi Arabia thực hiện chiến lược "Tầm nhìn 2030".

Trong khi đó, Việt Nam đang nỗ lực hiện thực hóa hai mục tiêu 100 năm: đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng), trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước), trở thành nước phát triển có thu nhập cao.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, Việt Nam và các nước cần cùng đồng hành, truyền cảm hứng, sát cánh cùng nhau, hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trên hành trình hiện thực hóa tầm nhìn và khát vọng phát triển, hướng tới tương lai phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Đặc biệt, qua tiếp xúc với các nhà lãnh đạo ba nước, Thủ tướng Chính phủ nhiều lần chia sẻ ấn tượng mạnh mẽ về tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, cách thức quản trị và định hướng, giải pháp phát triển đất nước, cũng như phương châm hành động quyết liệt, xác định nhiệm vụ công việc rõ ràng, coi trọng thời gian, trí tuệ của lãnh đạo các nước. Đây cũng là những kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam có thể nghiên cứu, tham khảo.

Đơn cử, thủ tục lập doanh nghiệp chỉ mất 5 phút đã giúp UAE có 1,5 triệu doanh nghiệp niêm yết, tăng gấp 3 lần so với con số 500.000 doanh nghiệp cách đây 3 năm. Bảo tàng Tương lai Dubai (UAE) thể hiện tham vọng phá vỡ giới hạn thông thường về vật lý và tư duy. Bảo tàng Quốc gia Qatar là một trong những công trình trong dự án tổng thể nhằm biến Doha thành một thủ đô văn hóa nổi tiếng thế giới…

"Thời gian không đợi ai cả, còn tư duy, tầm nhìn, trí tuệ phải vượt qua chính mình thì mới làm được việc lớn", Thủ tướng Phạm Minh Chính chia sẻ.

Với tâm thế như vậy, chuyến thăm đã khẳng định tư duy mới, tầm nhìn chiến lược mới, quyết tâm cao, cam kết mạnh mẽ, hành động quyết liệt của lãnh đạo Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp tác nhiều mặt, góp phần nâng tầm quan hệ với 3 nước nói riêng và vùng Vịnh, Trung Đông - Bắc Phi giàu tiềm năng nói chung.

Việc chính thức nâng cấp quan hệ đã đưa UAE trở thành Đối tác toàn diện đầu tiên của Việt Nam tại Trung Đông, mở ra không gian phát triển mới cho quan hệ hai nước, mở rộng mạng lưới Đối tác Toàn diện của Việt Nam lên 14 nước. Việt Nam với Saudi Arabia và Qatar cũng nhất trí thúc đẩy sớm nâng quan hệ lên tầm cao mới trong thời gian tới, qua đó góp phần thúc đẩy Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác quan trọng khác ở khu vực.

Chuyến thăm làm sâu sắc hơn sự tin cậy chính trị, củng cố quan hệ tốt đẹp giữa Lãnh đạo cấp cao Việt Nam với các nhà Lãnh đạo cấp cao và Hoàng gia ba nước. Các nước đã dành sự tiếp đón chu đáo, trọng thị với nhiều biệt lệ dành cho Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam; theo đó, các nước đối tác hiểu hơn về Việt Nam, không chỉ là một đất nước với nền văn hóa phong phú, đặc sắc, lịch sử hào hùng, quật cường trong bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ mà còn có khát vọng lớn lao và đang trên đà vươn lên mạnh mẽ, đóng góp cho việc gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Khẳng định không có giới hạn nào trong quan hệ với Việt Nam, Quốc vương Qatar cho biết Qatar luôn mở cửa cho các hoạt động hợp tác với Việt Nam. Tổng thống UAE khẳng định Việt Nam là đối tác quan trọng của UAE tại châu Á và hợp tác với Việt Nam là một trong những quan tâm chính của UAE. Trong khi đó, Bộ trưởng Đầu tư Saudi Arabia khẳng định Hoàng thái tử, Thủ tướng Saudi Arabia và Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có cuộc hội đàm mang tính "lịch sử".

Nhiều văn kiện quan trọng đã được thông qua nhân chuyến công tác, trong đó có Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - UAE lên Đối tác toàn diện, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (CEPA) giữa Việt Nam - UAE, Thông cáo chung giữa Việt Nam và Qatar, 33 văn bản hợp tác trong các lĩnh vực thương mại - đầu tư, tài chính, năng lượng, đổi mới sáng tạo, tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng, giáo dục - đào tạo, thể thao, hợp tác giữa các doanh nghiệp…

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống UAE Sheikh Mohammed bin Zayed Al Nahyan nhất trí 06 trọng tâm ưu tiên hợp tác, chỉ đạo khẩn trương xây dựng các chương trình hành động triển khai ngay khuôn khổ quan hệ Đối tác toàn diện.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Hoàng Thái tử, Thủ tướng Saudi Arabia thống nhất đưa hợp tác kinh tế thành trụ cột chính trong quan hệ song phương, đưa Saudi Arabia trở thành một trong các nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam và nhất trí xác định trụ cột "hợp tác tương lai" của hai nước là đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Qatar cùng thống nhất đánh giá quan hệ Việt Nam - Qatar đã bước vào một giai đoạn mới, sâu sắc và toàn diện hơn, xác định hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư là một trụ cột quan trọng. Hai bên nhất trí thúc đẩy thương mại, ưu tiên các mặt hàng thế mạnh của nhau như nông sản, thủy sản, giày dép, dệt may... của Việt Nam và các sản phẩm dầu khí, năng lượng, hóa chất của Qatar.

Trên cơ sở củng cố nền tảng tin cậy chính trị - ngoại giao, cùng với thúc đẩy trọng tâm hợp tác về kinh tế - thương mại - đầu tư, Thủ tướng Chính phủ và các Nhà lãnh đạo các nước cũng nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh, góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền của mỗi nước và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển ở hai khu vực và thế giới.

Những thông điệp truyền cảm hứng

Điểm nhấn đặc biệt quan trọng của chuyến thăm là thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư với cả ba nước nói riêng và khu vực vùng Vịnh, Trung Đông nói chung. Thủ tướng đã phát biểu, chuyển tải nhiều thông điệp quan trọng tại các cuộc hội đàm, cuộc gặp với các nhà lãnh đạo, các hội nghị, sự kiện và có hàng loạt cuộc gặp gỡ với các Bộ trưởng, Quốc vụ khanh các bộ phụ trách kinh tế, đầu tư, công nghiệp, năng lượng, ngoại thương... của UAE, Saudi Arabia và Qatar.

Thủ tướng Chính phủ đã tham dự Hội nghị Sáng kiến đầu tư tương lai lần thứ 8 (Hội nghị FII8) do Saudi Arabia tổ chức với chủ đề "Chân trời vô tận: đầu tư hôm nay, định hướng tương lai". Trong bài phát biểu quan trọng, Thủ tướng gửi thông điệp về Việt Nam đổi mới, năng động và sẵn sàng cùng các nước trao đổi, chia sẻ, đưa ra các sáng kiến thúc đẩy đầu tư vì một tương lai phát triển bền vững và thịnh vượng.

Thủ tướng nhấn mạnh, là một trong những nước chịu nhiều đau thương, mất mát nhất kể từ sau Đại chiến Thế giới thứ II, liên tục bị tác động bởi chiến tranh, bao vây, cấm vận trong nhiều thập kỷ, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam đã gác lại quá khứ, biến thù thành bạn, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng đến tương lai.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, sau gần 40 năm đổi mới, hội nhập và phát triển, từ một nước bị bao vây, cấm vận, nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, quy mô GDP của Việt Nam đã tăng lên 430 tỷ USD năm 2023, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD. Trong những năm gần đây, mặc dù tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, bất ổn, tăng trưởng nhiều nền kinh tế và đầu tư toàn cầu suy giảm, nhưng tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt mức gần gấp đôi mức tăng trưởng bình quân toàn cầu, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.

Thủ tướng nêu rõ, Việt Nam mong muốn các đối tác, cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư ba nước, vùng Vịnh và thế giới tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động hợp tác, đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và với các đối tác Việt Nam, nhất là làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.

Thủ tướng khẳng định: "Việt Nam luôn kiên định chính sách tăng cường thu hút mọi nguồn lực từ bên trong và bên ngoài, nhất là hợp tác công tư, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư", với "thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh".

Cùng với nỗ lực đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, có tính cạnh tranh cao trong khu vực, toàn cầu, không ngừng cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính, ưu tiên các ngành, lĩnh vực mới nổi, tháo gỡ khó khăn cho đầu tư, kinh doanh, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: "Việt Nam đang tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, logistics để tiết giảm chi phí, thời gian, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm và hạ tầng y tế, giáo dục để bảo đảm phúc lợi cho nhà đầu tư" và "Việt Nam luôn hết sức quan tâm đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, gắn với phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả đầu tư".

Đồng thời, "Việt Nam đầu tư củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, tạo nền tảng vững chắc để bảo đảm an ninh, an toàn và gìn giữ môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư". Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định.

Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã tận dụng tối đa thời gian và cơ hội để giới thiệu, quảng bá về những tiềm năng, thế mạnh, cơ hội hợp tác đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam - một trong những nền kinh tế năng động, sáng tạo, tăng trưởng nhanh của khu vực và thế giới. Thủ tướng đã chỉ rõ và đề nghị thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác trong nhiều lĩnh vực, các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam và của ba nước với các nhà lãnh đạo và các tập đoàn, quỹ đầu tư hàng đầu thế giới.

Đơn cử như Quỹ Đầu tư quốc gia Abu Dhabi (ADIA) đang quản lý tài sản khoảng 830 tỷ USD, là quỹ đầu tư lớn thứ tư trên thế giới; Quỹ Mubadala thuộc sở hữu của Chính phủ Abu Dhabi với tổng tài sản khoảng 300 tỷ USD; Quỹ Đầu tư quốc gia của Qatar (QIA) với tài sản ước tính khoảng 475 tỷ USD,…

Cùng với đó là Tập đoàn Dầu khí Saudi Aramco của Saudi Arabia với doanh thu năm 2023 đạt gần 500 tỷ USD và tổng tài sản đạt trên 660 tỷ USD; Tập đoàn Dầu khí quốc gia Abu Dhabi (ADNOC) là một trong những tập đoàn dầu mỏ lớn nhất thế giới; Qatar Energy là công ty chịu trách nhiệm quản lý tất cả các hoạt động dầu khí của Qatar - quốc gia xuất khẩu khí hóa lỏng lớn nhất thế giới.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề nghị và nhận được sự nhất trí cao của các nhà Lãnh đạo ba nước và các tập đoàn, quỹ đầu tư lớn về tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực, dự án chiến lược, đột phá, mang tính biểu tượng tại Việt Nam. Trong lĩnh vực dầu khí, Thủ tướng đề nghị Qatar Energy tăng cường hợp tác với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam để thực hiện các dự án lớn tăng cường khả năng tự chủ của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất điện khí; thúc đẩy ADNOC xây dựng trung tâm trung chuyển, dự trữ dầu thô và sản phẩm lọc hóa dầu tại Việt Nam để xuất khẩu sang các thị trường tại khu vực.

Về nông nghiệp, Thủ tướng cho biết Việt Nam có thể đạt kim ngạch xuất khẩu nông sản khoảng 60 tỷ USD trong năm 2024, đang tập trung chuyển đổi, cơ cấu lại theo hướng chất lượng cao, "ăn ngon, ăn sạch"; việc hợp tác trong lĩnh vực này sẽ vừa góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho ba nước, vừa mở ra cơ hội hợp tác với Việt Nam để khai thác thị trường Halal đầy tiềm năng.

Sự thiện chí, chân thành, mong muốn thúc đẩy hợp tác với các đối tác của Thủ tướng thể hiện qua từng chi tiết nhỏ, như khi tiếp đoàn doanh nghiệp Qatar, Thủ tướng đã đề nghị phiên dịch viên nói to hơn để các thành viên trong đoàn đều được nghe thấy, hay khi lắng nghe đối tác UAE về phát triển doanh nghiệp và chính sách nhập cảnh, Thủ tướng đề nghị chia sẻ sâu hơn nữa, làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Các nhà lãnh đạo, các doanh nghiệp, nhà đầu tư ba nước đánh giá cao những thông tin, thông điệp mà Thủ tướng chia sẻ về môi trường đầu tư kinh doanh, chiến lược, cơ chế, chính sách ưu tiên thu hút đầu tư của Việt Nam; đồng thời nêu rõ sẵn sàng thúc đẩy hợp tác, mở rộng đầu tư tại Việt Nam trong thời gian tới. Như đánh giá của Bộ trưởng Công nghiệp và Khoáng sản của Saudi Arabia: "Những thông điệp của Thủ tướng Phạm Minh Chính đã truyền cảm hứng mạnh mẽ".

Cùng với những yếu tố quan trọng, mang tính nền tảng về tốc độ tăng trưởng, môi trường đầu tư, nguồn nhân lực trẻ, chất lượng ngày càng cao, vị trí địa lý thuận lợi, các đối tác, cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư ba nước còn đặc biệt ấn tượng với chủ trương, đường lối, chiến lược, chính sách phát triển của Việt Nam và truyền thống văn hóa, lịch sử của đất nước, những giá trị quý giá của con người Việt Nam như tinh thần hòa hiếu, yêu hòa bình, phản đối chiến tranh, đặc biệt trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động, xung đột ở nhiều nơi.

Bộ trưởng Đầu tư Saudi Arabia khẳng định: "Cá nhân ông, Hoàng gia và tất cả người dân Saudi Arabia đều rất cảm phục về những gì mà Việt Nam làm được, tạo nên một phép màu sau chiến tranh khốc liệt". Theo Bộ trưởng: "Những quốc gia khác nếu phải chịu thảm họa như vậy sẽ phải mất nhiều thế hệ để khắc phục, nhưng Việt Nam đã sớm phục hồi và phát triển vào hàng nhanh nhất thế giới, tạo cơ hội to lớn cho người dân, doanh nghiệp và các nhà đầu tư, đặc biệt gần đây Việt Nam đã đưa ra các giải pháp thay thế để bảo đảm chuỗi cung ứng toàn cầu, trong đó có chuỗi cung ứng công nghệ cao không bị đứt gãy".

“Dấu ấn lịch sử" CEPA và những thỏa thuận cụ thể, thực chất

Trong chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính, ba nước và Việt Nam đã thống nhất được nhiều định hướng lớn, đạt nhiều thỏa thuận quan trọng về hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư.

Việt Nam - UAE đặt mục tiêu kim ngạch thương mại hai chiều đạt 20 tỷ USD trong thời gian tới... Với Saudi Arabia, hai bên thống nhất mục tiêu kim ngạch thương mại 10 tỷ USD. Với Qatar, hai bên nghiên cứu thành lập Tổ công tác chung về thương mại; xem xét khả năng xây dựng Trung tâm trưng bày sản phẩm của Việt Nam tại Qatar…

Tại UAE, Bộ trưởng Bộ Kinh tế nước này cho biết rất quan tâm tìm hiểu về các chính sách kinh tế của Việt Nam và UAE mong muốn tổ chức Hội nghị thu hút đầu tư Việt Nam - UAE, dự kiến tổ chức trong quý 1 năm 2025 trong khuôn khổ sáng kiến Investopia do UAE khởi xướng. Bộ trưởng Bộ Đầu tư UAE cho biết sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ Việt Nam xây dựng các trung tâm tài chính tại TPHCM và thành phố Đà Nẵng theo đề nghị của Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Tại Saudi Arabia, Bộ Đầu tư của nước này mong muốn thúc đẩy tiến trình đàm phán Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tiến tới đàm phán Hiệp định Thương mại tự do giữa hai nước.

Tại Qatar, Bộ trưởng Truyền thông và Công nghệ thông tin của nước này đề nghị Việt Nam mở Trung tâm Doanh nghiệp công nghệ tại Qatar để sản xuất các sản phẩm, cung cấp dịch vụ cho không chỉ Qatar mà cho cả khu vực vùng Vịnh. Bộ trưởng Lao động của Qatar cam kết đẩy nhanh tiến độ đàm phán, để sớm ký Hiệp định Lao động giữa hai nước, tạo cơ sở pháp lý tiếp nhận nhiều hơn lao động từ Việt Nam - đất nước có 100 triệu dân với nguồn lao động trẻ, dồi dào, có tay nghề cao.

Lãnh đạo các quỹ đầu tư, các tập đoàn lớn của ba nước đều khẳng định, sau chuyến thăm của Thủ tướng sẽ cử ngay đoàn vào Việt Nam tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh với tinh thần "không bỏ lỡ cơ hội" đang mở ra và sớm hiện thực hóa thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao.

Đơn cử, lãnh đạo tập đoàn năng lượng ACWA Power của Saudi Arabia nhấn mạnh muốn hợp tác lâu dài với Việt Nam, kể cả đào tạo nhân lực và sẵn sàng đầu tư 5 tỷ USD với việc tạo thuận lợi từ phía Việt Nam. Giám đốc Quỹ Quốc gia Abu Dhabi (ADIA) muốn triển khai các dự án tại Việt Nam "nhanh nhất có thể".

Thủ tướng Phạm Minh Chính đã giao các Bộ trưởng, lãnh đạo bộ, cơ quan, địa phương tham gia Đoàn công tác thúc đẩy trao đổi ngay với các đối tác để cụ thể hóa các kết quả trao đổi, thỏa thuận của Lãnh đạo cấp cao. Thủ tướng yêu cầu sau chuyến thăm cần thường xuyên trao đổi cụ thể với các đầu mối hai bên đã thống nhất trên tinh thần "đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện".

Một điểm nhấn hết sức được mong chờ và đã trở thành hiện thực trong chuyến thăm, đó là việc ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam – UAE (CEPA) - Hiệp định thương mại tự do đầu tiên của Việt Nam với một nước Trung Đông. Được đàm phán và ký kết trong thời gian ngắn kỷ lục, CEPA là Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới thứ 17 của Việt Nam được ký kết.

Đây là kết quả từ quyết tâm cao của lãnh đạo hai nước, trong đó có sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Phạm Minh Chính. Chỉ trong một năm qua, Thủ tướng đã có 3 cuộc gặp với Quốc vụ khanh Thương mại quốc tế, phụ trách vấn đề này của phía UAE.

Với Hiệp định này, UAE sẽ mở cửa cho gần như toàn bộ các mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu, được đánh giá là dấu mốc lịch sử mở ra con đường lớn cho Việt Nam tiến sâu vào thị trường UAE, các nước khu vực vùng Vịnh, Trung Đông – Bắc Phi. Nhân dịp hai nước ký CEPA trong chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Quốc vụ khanh phụ trách thương mại quốc tế của UAE đã có bài viết riêng về CEPA được Hãng thông tấn xã UEA đưa tin rộng rãi.

Với sự khởi đầu của Hiệp định CEPA từ UAE, tới thăm Saudi Arabia và Qatar, Thủ tướng đã đề nghị và nhận được sự phản hồi tích cực, đầy hào hứng từ các nhà Lãnh đạo hai nước về việc thúc đẩy đàm phán, ký kết hiệp định thương mại tự do song phương trong thời gian ngắn nhất, trên cơ sở tham khảo nội dung, cách làm của Việt Nam và UAE trong đàm phán và ký kết Hiệp định CEPA.

Tại Diễn đàn Sáng kiến đầu tư tương lai mà Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự tại Saudi Arabia, các nhà Lãnh đạo nhiều nước đều chúc mừng sự kiện Việt Nam và UAE ký CEPA - sự kiện tạo nên tiếng vang lớn tại vùng Vịnh, đồng thời mong muốn sớm đàm phán và ký kết với Việt Nam hiệp định tương tự.

Trong các cuộc gặp với Thủ tướng Phạm Minh Chính, Thủ tướng các nước Pakistan, Ai Cập và Hoàng Thái tử Jordan đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc Chủ tịch Hồ Chí Minh và dành tình cảm đặc biệt đối với đất nước, Nhân dân Việt Nam. Các Nhà lãnh đạo đã trao đổi sâu sắc, toàn diện về quan hệ giữa Việt Nam và các nước cũng như các biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển trên các lĩnh vực cho tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của Việt Nam và các nước đối tác.

Hoàng Thái tử Jordan hoan nghênh hướng đi mới của Việt Nam trong đầu tư phát triển ngành Halal, khẳng định khu vực các nước Arab là thị trường rất tiềm năng và sẵn sàng phối hợp, nhập khẩu các sản phẩm lương thực Halal của Việt Nam nhằm bảo đảm an ninh lương thực trong nước cũng như mở rộng, tái xuất khẩu vào các thị trường khu vực.

Cũng trong chuyến thăm, Thủ tướng đã đề nghị các nhà Lãnh đạo ba nước tạo điều kiện thuận lợi nhất để cộng đồng người Việt Nam ổn định cuộc sống, an ninh, an toàn, yên tâm làm việc lâu dài, hiệu quả, góp phần làm cầu nối vững chắc cho quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước.

Với những định hướng, thỏa thuận đã đạt được, chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đặt cơ sở quan trọng để chuyển hóa những cơ hội, tiềm năng thành những dự án hợp tác cụ thể, thực chất, hiệu quả thời gian tới với ba nước và khu vực trên các lĩnh vực; trong đó tạo đột phá về hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động, đặc biệt là trong những trụ cột hợp tác về năng lượng, dầu khí, lương thực, lĩnh vực Halal, các lĩnh vực mới nổi như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức, kinh tế ban đêm, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, Internet vạn vật…; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác về đưa an ninh, giáo dục, du lịch, giao lưu nhân dân... để trở thành nền tảng vững chắc cho quan hệ hữu nghị và hợp tác lâu dài với các nước.

Chuyến thăm đã thúc đẩy mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận những nguồn lực mới, những bài học kinh nghiệm quý, tạo động lực mới cho những lĩnh vực hợp tác truyền thống, thúc đẩy khai phá những lĩnh vực tiềm năng, tạo dựng vững chắc sự tin cậy chính trị, đối ngoại để mở đường cho một giai đoạn hợp tác mới giữa Việt Nam và ba nước cũng như toàn khu vực.

Đây là bước triển khai thiết thực, sinh động, hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, là sự cụ thể hoá quan điểm chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, nhất là đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, đa dạng hóa đối tác, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, góp phần tiếp tục củng cố môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, thu hút tối đa các nguồn lực phục vụ phát triển đất nước nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.

Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.

 Trong các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước đã có định hướng, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như hướng dẫn thực hiện khá cụ thể và chi tiết. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, điều hành quyết liệt, sát sao, đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác cổ phần hóa và thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước còn một số vấn đề bất cập, đòi hỏi có giải pháp mới, quyết liệt hơn nữa và phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.

Cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước - hướng đi tất yếu

Trải qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển, doanh nghiệp nhà nước đã chứng minh và khẳng định được vị trí, vai trò và vị thế trong nền kinh tế của đất nước. Trong giai đoạn kháng chiến chống giặc ngoại xâm, cũng như trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hợp tác xã đóng vai trò là lực lượng chủ yếu của nền kinh tế. Bước sang giai đoạn đổi mới, với nền kinh tế nhiều thành phần, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục giữ vai trò quan trọng, là một trong ba trụ cột của nền kinh tế. So với khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước vẫn là lực lượng có tiềm lực mạnh về tài chính, nắm giữ tài nguyên, đất đai, thương hiệu, lực lượng lao động, có đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, quản lý hùng hậu.

Sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước luôn dành được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thể hiện trong đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Trên cơ sở đánh giá đúng thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp nhà nước, cùng với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng, sự phát triển của nền kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác và quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước, vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế đã được điều chỉnh, từng bước chuyển dịch theo hướng chỉ tập trung vào ngành, nghề, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh hoặc lĩnh vực mà nền kinh tế đang có nhu cầu phát triển, nhưng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.

Doanh nghiệp nhà nước được tiếp tục chú trọng phát triển là doanh nghiệp có quy mô lớn, tính chất chuyên môn cao, có năng lực cạnh tranh ở khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội có nhu cầu lớn để thực sự là lực lượng nòng cốt thực hiện những cân đối lớn trong nền kinh tế, thực hiện được các mục tiêu chính trị - xã hội, đã khẳng định được vị trí, vai trò trong nền kinh tế.

Cùng với đó là đổi mới, cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước sử dụng hiệu quả các nguồn lực quan trọng được Nhà nước giao, huy động nguồn lực của xã hội đầu tư vào doanh nghiệp để phát triển sản xuất, kinh doanh, làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần vào phát triển kinh tế của đất nước.

Trong những năm qua, các cấp, các ngành, doanh nghiệp nhà nước đã cụ thể hóa và triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cũng đã đạt được một số kết quả tích cực trong sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, ngay từ đầu của nhiệm kỳ 2021 - 2026, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành để đẩy mạnh công tác sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, chú trọng việc nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 12-5-5-2022, của Chính phủ, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và  huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển kinh tế - xã hội”; Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg, ngày 2-7-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, thoái vốn giai đoạn 2021 - 2025”; Quyết định số 360/QĐ-TTg, ngày 17-3-2022, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021 - 2025”. 

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, kết quả cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước như sau:

Tình hình cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn 2016 - 2020(1):

Tình hình cổ phần hóa: lũy kế giai đoạn 2016 - 2020, cả nước đã cổ phần hóa 180 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 498.690 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 233.792 tỷ đồng, với quy mô vốn nhà nước được xác định, đánh giá lại đã tăng 23,3% so với giai đoạn 2011 - 2015.

Tình hình thoái vốn: tổng số vốn đã thoái là 27.312 tỷ đồng (theo giá trị sổ sách), thu về 177.397 tỷ đồng (theo giá trị thị trường), gấp 6,5 lần giá trị sổ sách, cao hơn so với giai đoạn 2011 - 2015 cả về giá trị và hiệu quả thoái vốn.

Tình hình cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn từ năm 2021 đến tháng 6-2024(2):

Tình hình cổ phần hóa: Năm 2021 ghi nhận 4 doanh nghiệp cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp được phê duyệt theo phương án là 333 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước được phê duyệt theo phương án là 196 tỷ đồng; Năm 2022, ghi nhận bổ sung 1 doanh nghiệp cổ phần hóa (đã chính thức chuyển thành công ty cổ phần năm 2021) với tổng giá trị doanh nghiệp được phê duyệt theo phương án là 309 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước được phê duyệt theo phương án là 278 tỷ đồng; Năm 2023 và 6 tháng đầu năm 2024 không có doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa.

Tình hình thoái vốn: Năm 2021: 1- Thoái vốn nhà nước tại 4 doanh nghiệp với giá trị sổ sách 52,8 tỷ đồng, thu về 85,1 tỷ đồng; 2- Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thoái vốn tại 14 doanh nghiệp với giá trị sổ sách 1.612 tỷ đồng, thu về 4.317 tỷ đồng. Năm 2022: 1- Thoái vốn nhà nước tại 1 doanh nghiệp với giá trị sổ sách 195 tỷ đồng thu về 390 tỷ đồng; 2- Các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước thoái vốn tại 31 doanh nghiệp với giá trị sổ sách là 688,7 tỷ đồng thu về 3.900,6 tỷ đồng; Năm 2023: 1- Thoái vốn nhà nước tại 5 doanh nghiệp (trong đó 4 doanh nghiệp theo Quyết định số 1479/QĐ-TTg, 1 doanh nghiệp theo Thông báo số 281/TB-VPCP) với giá trị sổ sách 11,65 tỷ đồng, thu về 22,68 tỷ đồng; 2- Các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước đã thoái vốn tại 7 doanh nghiệp với giá trị sổ sách là 53,5 tỷ đồng thu về 206,3 tỷ đồng.

Sau một giai đoạn triển khai thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại tinh gọn hơn, nhiều doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước; có vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đối phó với biến động thị trường; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế, chính trị, quốc tế khác được Đảng và Nhà nước giao. Cùng với đó, vai trò của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), Công ty trách nhiệm hữu hạn mua bán nợ Việt Nam (DATC) cũng từng bước được khẳng định, phát huy trong việc hỗ trợ quá trình thoái vốn, tiếp nhận và xử lý nợ của doanh nghiệp cổ phần hóa, là tổ chức chuyên nghiệp trong việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thoái vốn và sau cổ phần hóa theo đúng định hướng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.

Điểm nghẽn cần tháo gỡ

Bên cạnh kết quả đạt được, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn trong những năm gần đây chưa đạt kế hoạch đề ra, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đang chậm lại, kết quả đạt được rất thấp, giảm dần qua các năm, chưa mang tính toàn diện, đi vào thực chất...; việc xử lý vướng mắc trong quá trình thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, càng về sau càng khó khăn hơn, cụ thể: 1- Trong giai đoạn 2016 - 2020, có 180 doanh nghiệp được phê duyệt phương án cổ phần hóa và tiến hành thoái vốn tại 403 doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, trong 180 doanh nghiệp cổ phần hóa, chỉ có 39/128 doanh nghiệp thuộc danh mục cổ phần hóa theo kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (đạt 30% kế hoạch). Tám mươi chín doanh nghiệp chưa hoàn thành phê duyệt phương án cổ phần hóa. Số lượng doanh nghiệp nhà nước đã thoái vốn mới chỉ đạt 21,8% kế hoạch đề ra. Xét tổng thể thời gian qua, mặc dù đã có tới hơn 95% doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, nhưng tổng số vốn nhà nước được bán ra mới đạt khoảng 8%; 2- Trong giai đoạn 2021 - 2025, thực hiện cổ phần hóa 19 doanh nghiệp (có một số doanh nghiệp lớn như Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam...) và thoái vốn 141 doanh nghiệp (có một số doanh nghiệp có phần vốn nhà nước cần phải thoái lớn, như Tổng công ty Cơ khí xây dựng, Tổng công ty cổ phần Sông Hồng, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, Tổng công ty Viglacera, Tổng công ty Truyền hình Cáp Việt Nam...)(3). Tuy nhiên, tính đến nay, chỉ 5/19 (đạt 26,31% kế hoạch) doanh nghiệp được cổ phần hóa và 63/141 (đạt 44,68% kế hoạch) doanh nghiệp được thoái vốn theo kế hoạch đề ra.

Quá trình triển khai thực hiện còn phát sinh một số vướng mắc trong việc cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Các vướng mắc này do nhiều nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó:

Đầu tiên, việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn có nơi, có lúc chưa thống nhất, trong đó có việc chưa xác định rõ tiêu chí thế nào là hiệu quả đối với từng doanh nghiệp cụ thể, nên quá trình triển khai còn khó khăn, chậm, không đạt tiến độ theo kế hoạch đề ra. Việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn chưa thống nhất, chưa coi cổ phần hóa, thoái vốn là để thu hút các nguồn lực của nền kinh tế, giúp Nhà nước có thêm nguồn lực đầu tư, nên việc cổ phần hóa, thoái vốn nhiều nơi diễn ra hình thức, không tạo được sự thay đổi về chất. Cá biệt có doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa, Nhà nước vẫn nắm giữ đến 99% vốn điều lệ. Chẳng hạn, kết quả cổ phần hóa của Công ty mẹ Tổng công ty Sông Đà, sau khi tổ chức chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) hơn 219,6 triệu cổ phần, tương đương 48,82% vốn điều lệ sau cổ phần hóa với mức giá khởi điểm 11.000 đồng/cổ phần. Tham dự phiên đấu giá có tổng cộng 229 nhà đầu tư cá nhân, song khối lượng đăng ký mua hợp lệ lại chỉ đạt 801.500 cổ phần, tương đương 0,37% khối lượng cổ phần chào bán. Phiên đấu giá bán được 790.900 cổ phần, chiếm 0,36% số cổ phần đưa ra đấu giá, tổng giá trị đạt hơn 8,8 tỷ đồng.

Thứ hai, giai đoạn vừa qua, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức từ sự thay đổi tình hình địa - chính trị trên thế giới và các khu vực liên quan tới phát triển kinh tế và thương mại. Các cuộc chiến tranh thương mại, xung đột, cũng như các vấn đề về an ninh không gian mạng... đã có nhiều tác động tiêu cực tới ổn định kinh tế vĩ mô và hợp tác quốc tế. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 đã tác động, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có việc triển khai công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn này, việc cổ phần hóa một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, do có tình hình tài chính phức tạp, phạm vi hoạt động rộng tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, nên việc xử lý tài chính, phê duyệt phương án sử dụng đất; xác định, kiểm toán giá trị doanh nghiệp, bán cổ phần lần đầu gặp nhiều khó khăn, thời gian xem xét kéo dài.

Thứ ba, đâu đó còn hiện tượng không dám làm, không dám chịu trách nhiệm, viện dẫn khó khăn, vướng mắc để chờ đợi, kéo dài thời gian, làm chậm hoặc không thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, chưa xem xét đúng trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp thực hiện chậm cổ phần hóa, quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần và việc chuyển giao doanh nghiệp về SCIC, niêm yết trên sàn chứng khoán còn chậm.

Thứ tư, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được ban hành tương đối đầy đủ và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, nhưng chưa đáp ứng được kịp thời yêu cầu của thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn; các văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ: 1- Chưa đồng bộ giữa pháp luật về cổ phần hóa và thoái vốn, trước khi thực hiện công tác quyết toán vốn cổ phần hóa, doanh nghiệp không thể triển khai việc thoái vốn do chưa xác định được nghĩa vụ phải trả với Nhà nước. Trên thực tế, công tác quyết toán vốn lần thứ hai thường kéo dài, có doanh nghiệp đã hoạt động theo mô hình công ty cổ phần trên 5 năm vẫn chưa được quyết toán vốn, đồng thời vẫn chưa có chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân chậm thực hiện quyết toán; 2- Chưa đồng bộ giữa thoái vốn với pháp luật về doanh nghiệp, trường hợp Nhà nước thoái vốn góp tại công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, chuyển nhượng cổ phần với tư cách là cổ đông sáng lập, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp (năm 2020), Nhà nước phải ưu tiên chuyển nhượng cho các cổ đông còn lại. Trong khi đó, quy định về thoái vốn lại yêu cầu thực hiện định giá và tổ chức bán đấu giá công khai khi thoái vốn nhà nước...

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.

Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và không để tình trạng chậm cổ phần hóa, chậm thoái vốn nhà nước, các cấp, các bộ, cơ quan ngang bộ, doanh nghiệp nhà nước cần nghiêm túc quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, triển khai quyết liệt công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, tránh tình trạng mơ hồ về nhận thức, quan điểm, hành động cầm chừng, sợ khó, sợ sai. Các nghị quyết của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước cần được quán triệt sâu sắc, bao gồm:

- Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” đã đề ra quan điểm: 1- Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; 2- Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hóa, thoái vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả doanh nghiệp đang kinh doanh hiệu quả.

- Nội dung Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định rằng, nhiệm vụ sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cách thức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước tiếp tục là nội dung quan trọng, trong đó đổi mới cách thức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu và giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa. Hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước...

- Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 12-5-2022, của Chính phủ, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội”; Quyết định số 360/QĐ-TTg, ngày 17-3-2022, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021 - 2025”; Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg, ngày 2-7-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, thoái vốn giai đoạn 2021 - 2025”; Công điện số 478/CĐ-TTg, ngày 27-5-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Về đẩy mạnh công tác sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước” và Quyết định số 1479/QĐ-TTg, ngày 29-11-2022, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước giai đoạn 2022 - 2025”.

Thứ hai, đổi mới cơ chế, chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.

Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, ngày 16-11-2017, của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung tại điểm a, khoản 2, Điều 1 Nghị định số 140/2020/NĐ-CP), về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần, điều kiện cổ phần hóa doanh nghiệp là phải có phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc phạm vi sắp xếp lại, xử lý nhà, đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công; theo đó, căn cứ phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, phương án sử dụng đất theo quy định đối với các công ty nông, lâm nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước lập phương án sử dụng đất tính đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp để báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu gửi lấy ý kiến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước khi quyết định phê duyệt phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa. Đây là bất cập rất khó giải quyết, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ quá trình cổ phần hóa.

Vì vậy, để tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước được nhanh chóng, theo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và để khắc phục tình trạng chậm cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước, cần hoàn thiện khung khổ pháp lý về vấn đề này theo hướng gỡ vướng tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa; sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa... Cần tách công tác sắp xếp lại, xử lý nhà, đất khỏi quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai cần thường xuyên rà soát hiện trạng nhà, đất để bảo đảm sử dụng đúng mục đích và hiệu quả sử dụng đất tránh hoang hóa, lãng phí chứ không phải chỉ để thực hiện công tác cổ phần hóa, thoái vốn.

Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước.

Có chế tài xử lý nghiêm đối với các tập thể, cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước cố tình chậm quá trình cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước; coi việc thực hiện nhiệm vụ và kết quả thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước là một tiêu chí đánh giá cơ quan, đơn vị, tập thể, cá nhân... doanh nghiệp nhà nước thuộc sự quản lý của cơ quan nào thì thủ trưởng cơ quan đó phải chịu trách nhiệm người đứng đầu trong việc để chậm trễ việc thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch đề ra.

Thứ tư, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế để chức năng, vai trò, nhiệm vụ của SCIC, DATC là các thiết chế hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa cho quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp để thực hiện thống nhất đầu mối thực hiện tiếp nhận vốn nhà nước tại doanh nghiệp và bán vốn nhà nước, giúp nâng cao hiệu quả quản lý, hiệu quả công tác bán vốn; thay đổi cơ chế giám sát của Nhà nước đối với hoạt động doanh nghiệp và thay đổi cách thức tiếp cận đối với hoạt động thanh tra, kiểm toán để khắc phục tình trạng hình sự hóa nhiều vi phạm hành chính, kinh tế... làm triệt tiêu động lực và sáng tạo trong đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp.

Thực tế nêu trên đòi hỏi các cơ quan chức năng, các cấp, các bộ, ngành, doanh nghiệp nhà nước quyết liệt hơn trong công tác cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp trong thời gian tới, để sớm hoàn thành việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước và để doanh nghiệp nhà nước sử dụng hiệu quả các nguồn lực quan trọng đang được giao, huy động nguồn lực của xã hội đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh, làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần vào phát triển kinh tế của đất nước và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội./.