Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024
BÁO CHÍ CÓ CÒN LÀ CỦA TA LÃNH ĐẠO: PHẢI CHĂNG BÁO PHƯƠNG TÂY CỨ ĐĂNG GÌ LÀ BÁO TA LẠI CỨ ĐĂNG NHƯ VẬY KHÔNG CẦN KIỂM SOÁT, KHÔNG CẦN KIỂM DUYỆT?
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: XUẤT XƯỞNG, BÀN GIAO DÒNG XE MINIBUS DO KỸ SƯ VIỆT NAM THIẾT KẾ, CHẾ TẠO, SẢN XUẤT!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: VỊ ĐẠI TƯỚNG ĐƯỢC BÁC HỒ ĐẶT TÊN!
PHÒNG, CHỐNG LÃNG PHÍ, CÔNG VIỆC THƯỜNG XUYÊN VÀ CẤP THIẾT ĐỂ ĐẤT NƯỚC VƯƠN MÌNH!
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “CỐT TINH, KHÔNG CỐT ĐÔNG” TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “CỐT TINH, KHÔNG CỐT ĐÔNG” TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
***
Từ thực tiễn xây dựng quân đội và kinh nghiệm tổ chức kháng chiến, các nhà nước quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học giữ nước, trong đó có quan điểm xây dựng quân đội thường trực của quốc gia “cốt tinh, không cốt đông”, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc nền độc lập và vẹn toàn cương vực quốc gia. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng xây dựng quân đội của các triều đại quân chủ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Ngoài việc kiên định nguyên tắc quản lý, lãnh đạo, coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tinh thần; gắn với đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo; tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực dự bị chất lượng cao... thì một trong những vấn đề quan trọng là phải gắn xây dựng lực lượng tinh nhuệ với điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế LLVT phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng LLVT có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân, trong đó quân triều đình quản lý giữ vai trò quyết định. LLVT triều Lý, Trần bao gồm quân chủ lực của triều đình, quân của quý tộc (vương hầu, tôn thất), quân của các lộ, phủ, châu (quân địa phương) và dân binh làng, xã, động, bản. Quân chủ lực của triều đình do nhà nước trực tiếp quản lý, chỉ huy, gồm các thành phần cấm quân và sương quân. Cấm quân là công cụ bạo lực chủ yếu, chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyền quân chủ, là trụ cột của quốc phòng, an ninh và là lực lượng chủ lực trong các cuộc chiến tranh giữ nước.
Đến triều Vua Lê Thánh Tông, cùng với việc cải cách hành chính, chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo sự thống nhất với hệ thống tổ chức chặt chẽ, quy củ. Lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: Quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm cấm binh (còn gọi là cấm vệ quân) và quân ngũ phủ. Cấm binh được chia thành vệ, sở, vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ vua, hoàng cung và kinh thành. Quân ngũ phủ được nhà nước xác định rõ là bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.
Để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh, thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định biên chế quân đội thành hệ thống gồm đội, cơ, đạo và doanh. Trong những trường hợp cần thiết, quân đội Tây Sơn còn được tổ chức thành các đơn vị quy mô lớn gọi là đại quân gồm 2-3 doanh do một đại đô đốc chỉ huy. Để tạo nên sức mạnh tổng hợp, tượng binh, kỵ binh, pháo binh và thủy binh được Vua Quang Trung quan tâm chú trọng phát triển và ngày càng hoàn thiện theo hướng gọn, tinh nhuệ, là lực lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng và bảo vệ nền độc lập...
Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo trên bình diện tư tưởng, lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng LLVT. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tháng 3-1947, lực lượng dân quân du kích được thống nhất về tổ chức, xây dựng thành một bộ phận đông đảo của LLVT nhân dân, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác chiến linh hoạt, sáng tạo.
Tháng 4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương có quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, Đảng ta rất chú trọng tới việc xây dựng các đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị cơ động cấp đại đoàn. Trong giai đoạn 1949-1952, các đại đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại đoàn Công pháo 351 lần lượt được thành lập.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không-Không quân, các binh chủng: Thông tin liên lạc, Đặc công... được thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Đặc biệt, các đơn vị chủ lực của bộ binh có bước phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232) vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Đây là lực lượng cơ động chiến lược hoạt động trên địa bàn cả nước, hoặc trên từng chiến trường theo yêu cầu, nhiệm vụ để tiến hành tác chiến tập trung, thực hành các trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh cách mạng.
Phương thức tổ chức ba thứ quân thể hiện đậm nét tính nhân dân của LLVT do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, lãnh đạo. Thành công trong việc xây dựng LLVT ba thứ quân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, là cơ sở quan trọng để Đảng phát huy thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh. Thế trận đó cho phép chúng ta thực hiện chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của lực lượng tại chỗ thuộc bộ đội địa phương và dân quân du kích, với chiến tranh nhân dân địa phương, phong trào toàn dân đánh giặc và phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng Quân đội đặt ra trong từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Đặc biệt, hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ đặt ra ngày càng cao; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới tất cả lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh ngày càng sâu sắc thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội nói chung là vấn đề khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng BVTQ.
Từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.
Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường Quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của Quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới./.
KẾT NỐI NGUỒN LỰC ĐỂ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
KẾT NỐI NGUỒN LỰC ĐỂ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
Những năm qua, Hội Văn học nghệ thuật (VHNT) tỉnh Đắk Lắk đã làm tốt công tác huy động, kết nối để đưa VHNT lan tỏa, thấm vào cuộc sống. Hoạt động VHNT tại địa phương ngày càng được quan tâm đầu tư, có bước phát triển mới; không khí hoạt động sáng tạo diễn ra sôi nổi.
Hội VHNT tỉnh Đắk Lắk có hơn 230 hội viên, sinh hoạt ở 7 chi hội chuyên ngành và 2 chi hội cơ sở của các loại hình nghệ thuật thuộc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam.
“Kết nối và đồng hành” đã là phương châm hành động để các hoạt động VHNT của Hội VHNT tỉnh Đắk Lắk diễn ra thành công, tạo sự lan tỏa sâu rộng. Để lấp cái khó thiếu kinh phí hoạt động, tại mỗi chương trình, sự kiện, Hội thường kêu gọi các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn cùng phối hợp thực hiện.
Có thể kể đến sự kết nối giữa Hội với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk, Hội Doanh nhân trẻ tỉnh Đắk Lắk, Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk (Simexco DakLak), Công ty Cổ phần Sách-Thiết bị trường học Đắk Lắk...
Nhờ đó, trong những năm qua, Hội VHNT tỉnh Đắk Lắk không chỉ tổ chức nhiều sự kiện, hoạt động VHNT còn tạo được tiếng vang, để lại nhiều dấu ấn trong lòng công chúng như: Ngày thơ Việt Nam; Ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam; các chương trình công bố giới thiệu tác phẩm mới; tọa đàm; triển lãm ảnh; triển lãm mỹ thuật về con người, đời sống văn hóa Tây Nguyên; gây dựng tủ sách VHNT tại các đơn vị, địa phương; ươm mầm tài năng VHNT trẻ... Tại mỗi chương trình, Hội luôn nhận được sự tài trợ giải thưởng cho văn nghệ sĩ đoạt giải và các suất học bổng, quà động viên các em học sinh dân tộc thiểu số, học sinh có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh.
Với mục tiêu để VHNT thấm vào cuộc sống, ngoài kênh đầu tư của Nhà nước cho hoạt động sáng tác, Hội ưu tiên kết nối thực hiện các chuyến đi thực tế sáng tác tại các cơ quan, đơn vị của Quân đội, Công an, tòa án, trọng tâm là hướng về các huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh. Từ đó, đội ngũ văn nghệ sĩ có thêm nhiều tư liệu sáng tác phong phú, sinh động về đề tài LLVT, chiến tranh cách mạng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống, phản ánh chân dung sống động và chân thực đời sống văn hóa của đồng bào 49 dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài việc tổ chức các mô hình trại sáng tác cố định hằng năm theo nguồn kinh phí hỗ trợ sáng tạo, lãnh đạo Hội VHNT tỉnh Đắk Lắk còn tìm hướng để tổ chức nhiều chuyến thực tế sáng tác theo chủ đề, chủ điểm. Trong hai năm qua, trại sáng tác với chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của Hội VHNT tỉnh Đắk Lắk đề xuất được Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk nhất trí và thực hiện hiệu quả.
Trại sáng tác năm 2023 tại các tỉnh miền Trung và năm 2024 tại tỉnh Khánh Hòa đã rất thành công khi quy tụ được các tác giả theo từng chuyên ngành, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ dành thời gian tập trung sáng tác những tác phẩm chất lượng về các đề tài chủ điểm như: Biển, đảo, hình tượng người lính hải quân, đại đoàn kết dân tộc...
Kết quả thu được nhiều tác phẩm để tham gia cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm VHNT, hướng vào phản ánh các gương điển hình tiêu biểu, những việc làm hiệu quả trong việc học tập và làm theo Bác.
Nhà văn Niê Thanh Mai, Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Đắk Lắk chia sẻ: “Chúng tôi luôn mong muốn VHNT phải thực sự được nhìn nhận ở mọi góc độ và đưa về đúng vai trò, vị trí của nó là góp phần nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn cho mỗi người, nhất là thế hệ trẻ thông qua các tác phẩm VHNT. Vì vậy, cần kịp thời nắm bắt, đón đầu những biến đổi của thời cuộc để có biện pháp thích ứng. Trong điều kiện hiện nay, cần có sự kết nối, đồng hành, sẻ chia từ nhiều nguồn, nhiều phía thì mới có thể đưa VHNT địa phương lên tầm cao mới, ngày càng tiến bộ, để luôn xứng đáng là bộ phận tinh túy của văn hóa, là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực phát triển bền vững đất nước và quê hương Đắk Lắk”.
Huy động được các nguồn lực góp phần để “tiếp lửa” VHNT phát triển và phát huy vai trò trong xã hội đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới, cần sự định hướng, giải pháp phù hợp từ các cấp và chính lãnh đạo của các Hội VHNT tại địa phương./.
LẠI THÊM NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN
LẠI THÊM NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN
Những ngày này, khi các địa phương trên cả nước đang tích cực triển khai công tác khám sức khỏe (từ ngày 1-11 đến 31-12), gọi thanh niên nhập ngũ thì trên không gian mạng lại xuất hiện các thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc việc tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự (NVQS), đả kích môi trường quân ngũ. Đây là luận điệu nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, xuyên tạc việc thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc, tạo dư luận xấu, gieo rắc tư tưởng thoái thác về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc, nhất là những người trong độ tuổi thực hiện NVQS.
Những luận điệu sai trái, xuyên tạc
Trên không gian mạng, mạng xã hội, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đang rêu rao, tuyên truyền các bài viết, đăng status, dòng trạng thái sai sự thật như: “Trong khi các nước phát triển quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi NVQS, nghĩa vụ công an”, “hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi NVQS”, “mất 2 năm đi NVQS về chẳng được gì”, “chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ”...
Trong khi sự thật là, nhiều nước trên thế giới vẫn đang áp dụng bắt buộc nghĩa vụ quân sự, không thực hiện miễn, hoãn-kể cả các ngôi sao nghệ thuật. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch, phản động còn đăng tải các cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài với lời bình xuyên tạc là ở Việt Nam; họ cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội... nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề.
Mục đích của họ là bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước. Từ đó, khiến cho công dân đến độ tuổi nhập ngũ và gia đình, người thân “tự diễn biến”, dao động tư tưởng, hoài nghi, thiếu niềm tin, trốn tránh thực hiện NVQS, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hệ quả là rơi vào âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.
Trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng, biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất.
Những anh hùng liệt sĩ như: Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc... là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, niềm tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam học tập, noi theo: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”-câu nói đanh thép của Anh hùng Lý Tự Trọng đã trở thành lời hiệu triệu, động lực thôi thúc hàng triệu thế hệ thanh niên Việt Nam mong muốn được cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc.
Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc là quyền lợi và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên cho chính quê hương, gia đình, người thân của mình. Thực hiện NVQS đã được hiến định trong Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Điều 45, Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân phải thực hiện NVQS và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Điều 64, Chương IV quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Thể chế hóa Hiến pháp, khoản 1, khoản 2, Điều 4 và khoản 1, Điều 59 Luật NVQS năm 2015 quy định: “NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân; công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện NVQS theo quy định.
Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện NVQS thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, công dân đến tuổi tham gia NVQS không thể đưa ra để bàn luận, so đo, tính toán “đi hay không đi”, “dám hay không dám”. Việc trốn tránh NVQS, trốn tránh trách nhiệm công dân không những vi phạm pháp luật mà còn là tội lớn với thế hệ cha anh đi trước, với Tổ quốc và dân tộc.
Trường học lớn để thanh niên phấn đấu
Cần khẳng định, Quân đội là trường học lớn để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường Quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Với kỷ luật tự giác và nghiêm minh, môi trường văn hóa quân sự là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, trưởng thành và cống hiến.
Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách đối với quân nhân ngày càng được quan tâm, bảo đảm tốt. Quá trình thực hiện NVQS, thanh niên được học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Trong môi trường quân ngũ, họ được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được giáo dục chính trị, truyền thống, giáo dục pháp luật...
Thông qua đó, thanh niên trưởng thành về nhận thức chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận diện rõ, đúng những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới; đồng thời, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch.
Môi trường quân ngũ còn giúp thanh niên được rèn luyện sức khỏe, thể lực dẻo dai; tác phong chững chạc, có trách nhiệm cao với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; giao tiếp, ứng xử đúng mực, có văn hóa. Quân đội cũng chính là môi trường giáo dục tốt nhất về tình đồng chí, đồng đội; tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái; cán bộ, chiến sĩ đồng sức, đồng lòng cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là nơi mà thanh niên thấm nhuần sâu sắc tình đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân, tình yêu quê hương, đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Bên cạnh đó, sau khi huấn luyện, những quân nhân có đủ điều kiện sẽ được tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng hoặc cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (nếu có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong Quân đội). Những quân nhân hoàn thành NVQS, khi xuất ngũ sẽ được hưởng chính sách ưu đãi như cộng điểm khi thi tuyển sinh vào các trường đại học, học viện, hỗ trợ đào tạo học nghề, tạo công ăn việc làm...
Khi xuất ngũ được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp việc làm, trợ cấp bảo hiểm, thanh toán nghỉ phép, quà Tết, phụ cấp, thẻ học nghề giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp và ổn định cuộc sống sau này. Điều đó minh chứng, môi trường Quân đội không những không “xấu” như sự bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch mà còn là nơi có điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.
Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà trên hết đó còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các thế hệ thanh niên được tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Thực tiễn sinh động đó là minh chứng bác bỏ, phê phán các luận điệu xuyên tạc về thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
THỂ CHẾ HOÁ KỊP THỜI ĐỊNH HƯỚNG LUẬT CHỈ QUY ĐỊNH NHỮNG VẤN ĐỀ KHUNG
THỂ CHẾ HOÁ KỊP THỜI ĐỊNH HƯỚNG LUẬT CHỈ QUY ĐỊNH NHỮNG VẤN ĐỀ KHUNG
Đề cập đến vấn đề đổi mới hoạt động lập pháp theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề khung, đại biểu Quốc hội kiến nghị cần thể chế hóa kịp thời định hướng này để tạo căn cứ cho việc tổ chức thực hiện theo đúng nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngày 4/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2025.
Đề cập đến vấn đề đổi mới hoạt động lập pháp theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề khung, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (đoàn Hà Nội) cho rằng, đây là định hướng đúng đắn và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đại biểu kiến nghị cần thể chế hóa kịp thời định hướng này để tạo căn cứ cho việc tổ chức thực hiện theo đúng nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời rà soát những văn bản liên quan để có điều chỉnh phù hợp.
Về trách nhiệm ban hành văn bản hướng dẫn, đại biểu nêu rõ, theo quy định hiện hành, văn bản hướng dẫn phải được ban hành đồng thời, có hiệu lực đồng thời với văn bản luật.
Tuy nhiên, theo nhận định trong báo cáo của Chính phủ trình tại kỳ họp này, việc ban hành văn bản chi tiết còn hạn chế, tình trạng chậm ban hành chưa được khắc phục. Năm 2024, số văn bản còn nợ chiếm 13,94%, 51 văn bản không có hiệu lực đồng thời, 18 văn bản hướng dẫn chưa được ban hành.
Đại biểu cho rằng, tới đây, khi đổi mới hoạt động lập pháp theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc thì trách nhiệm xây dựng pháp luật sẽ đặt lên vai Chính phủ nhiều hơn, số lượng văn bản hướng dẫn sẽ tăng lên rất nhanh và tính chất cũng phức tạp hơn, vì không chỉ đơn thuần là hướng dẫn.
Do vậy, đại biểu kiến nghị cần đề cao hơn nữa trách nhiệm cá nhân trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tiến độ đề ra cũng như chất lượng văn bản.
"Trong đó, cần đề cao tính khách quan, tránh lợi ích cục bộ và cần thực hiện nghiêm Quy định 178 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật", đại biểu Vũ Thị Lưu Mai lưu ý.
Nữ đại biểu đoàn Hà Nội cũng kiến nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo rà soát, nhận diện chính xác, đầy đủ những điểm nghẽn để xử lý kịp thời, đồng thời cũng nhận diện chính xác những hạn chế do tổ chức thực hiện.
Đối với yêu cầu "đúng vai thuộc bài", đại biểu bày tỏ tán thành với quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm và cho rằng đây là chỉ đạo hết sức đúng đắn. Đúng vai nghĩa là không nhầm vai, không lấn sân nhưng đồng thời cũng không bỏ vai, cần thực hiện đúng trách nhiệm Hiến pháp đã quy định, làm trọn bổn phận Đảng đã trao và nhân dân gửi gắm.
Đại biểu đề nghị cần rà soát các quy định của pháp luật liên quan về tổ chức bộ máy, trong đó có Luật Tổ chức Quốc hội và các quy định liên quan khác để xác định cụ thể phạm vi ranh giới trách nhiệm, quyền hạn để có căn cứ pháp lý thực hiện đúng yêu cầu đúng vai.
"Và khi đã đúng vai thì nhất định phải thuộc bài. Vì nếu như đúng vai mà không thuộc bài thì nhất định sẽ tạo ra những sản phẩm kém chất lượng", đại biểu lưu ý.
Đề cập về đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật, từ thực tiễn cơ sở, đại biểu Hoàng Quốc Khánh (đoàn Lai Châu) đồng tình cao với định hướng của lãnh đạo Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về đổi mới trong công tác lập pháp của Quốc hội.
Theo đó, xây dựng các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài. Luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc, không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao cho Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành.
"Đây là vấn đề rất lớn, quan trọng cần tạo sự đồng thuận từ nhận thức đến hành động", đại biểu nhấn mạnh./.
THÊM 1 LẦN NGHỆ THUẬT NGOẠI GIAO "CÂY TRE" CÙNG BẢN LĨNH VÀ UY TÍN CÁ NHÂN CỦA CÁC LÃNH ĐẠO VIỆT NAM ĐƯỢC THỂ HIỆN.
THÊM 1 LẦN NGHỆ THUẬT NGOẠI GIAO "CÂY TRE" CÙNG BẢN LĨNH VÀ UY TÍN CÁ NHÂN CỦA CÁC LÃNH ĐẠO VIỆT NAM ĐƯỢC THỂ HIỆN.
LẦN NÀY CHÚNG TA CŨNG LẠI KHẲNG ĐỊNH " VIỆT NAM KHÔNG CHỌN BÊN, VIỆT NAM CHỌN LẼ PHẢI, CHỌN HỢP TÁC LÀM ĂN ĐÔI BÊN CÙNG CÓ LỢI ... "
______________________
BRICS - CHIẾN LƯỢC CÂN BẮNG QUAN HỆ CỦA VIỆT NAM VỚI PHƯƠNG TÂY
Bối cảnh địa chính trị hiện nay đặt ra những thách thức chưa từng có cho các quốc gia vừa và nhỏ. Một mặt, cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ngày càng gay gắt đang tạo ra áp lực "chọn phe" ngày càng lớn. Mặt khác, xu hướng phi đô la hóa do Nga và Trung Quốc thúc đẩy thông qua BRICS đang dần định hình lại trật tự tài chính toàn cầu, đặt ra những thách thức mới về kinh tế và thương mại.
Thách thức đối với Việt Nam đến từ ba khía cạnh cốt lõi: áp lực cân bằng địa chính trị giữa các cường quốc, rủi ro từ sự phân mảnh của hệ thống tài chính-thương mại toàn cầu, và thách thức trong việc duy trì tự chủ chiến lược.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đang thể hiện một "nghệ thuật ngoại giao" tinh tế thông qua việc lựa chọn vị thế "đối tác" thay vì "thành viên đầy đủ" của BRICS. Đây không đơn thuần là sự do dự hay thiếu quyết đoán, mà là một tính toán chiến lược sâu sắc. Vị thế này cho phép Việt Nam tận dụng được các cơ hội hợp tác kinh tế-thương mại với khối BRICS - đặc biệt là với hai cường quốc có ảnh hưởng là Trung Quốc và Nga, trong khi vẫn duy trì được không gian chiến lược trong quan hệ với phương Tây, đặc biệt là Mỹ.
Cách tiếp cận này hoàn toàn nhất quán với chính sách "4 Không" của Việt Nam. Trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung ngày càng gay gắt, việc duy trì được thế cân bằng này đòi hỏi sự khéo léo và bản lĩnh trong điều hành đối ngoại. Nó cho thấy Việt Nam đã nắm bắt được bản chất của trật tự thế giới đa cực đang hình thành, nơi BRICS không đơn thuần là một tổ chức kinh tế, mà đang dần trở thành một cực quyền lực mới, một đối trọng với trật tự do phương Tây dẫn dắt.
Tuy nhiên, để duy trì được thế cân bằng này trong dài hạn, Việt Nam cần tăng cường năng lực nội sinh về kinh tế và công nghệ để giảm thiểu tính dễ bị tổn thương trước các biến động địa chính trị. Ranh giới giữa "hợp tác" và "cam kết" có thể trở nên mong manh trong bối cảnh các cường quốc đều muốn lôi kéo, gây ảnh hưởng. Đặc biệt, khi BRICS đang thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng phi đô la hóa - một động thái có thể tác động sâu sắc đến hệ thống tài chính toàn cầu, Việt Nam cần những tính toán hết sức cẩn trọng để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình.
Nhìn xa hơn, cách tiếp cận của Việt Nam với BRICS có thể được xem như một mô hình cho các nước vừa và nhỏ trong việc xử lý quan hệ với các cường quốc trong thế giới đa cực. Đó là nghệ thuật của sự cân bằng tinh tế, vừa tận dụng được cơ hội hợp tác, vừa bảo vệ được độc lập tự chủ, và quan trọng nhất là duy trì được không gian chiến lược cho những điều chỉnh trong tương lai.
GÓC NHÌN NGHỊ TRƯỜNG: LAO ĐỘNG ĐẶC BIỆT NÊN CẦN CƠ CHẾ ĐẶC BIỆT
GÓC NHÌN NGHỊ TRƯỜNG: LAO ĐỘNG ĐẶC BIỆT NÊN CẦN CƠ CHẾ ĐẶC BIỆT.
Thảo luận tại tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, rất nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị kéo dài độ tuổi tại ngũ của sĩ quan theo đúng quy định về độ tuổi nghỉ hưu của Luật Bảo hiểm xã hội.
Các ý kiến được đưa ra trên cơ sở sự quan tâm và tình cảm yêu mến rất đặc biệt đối với Bộ đội Cụ Hồ. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam đề nghị kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ đối với cấp úy từ 46 (quy định hiện hành) lên 50, Thiếu tá từ 48 lên 52, Trung tá từ 51 lên 54, Thượng tá từ 54 lên 56, Đại tá từ 57 với nam và 55 với nữ lên 58 áp dụng chung cho cả nữ và nam, cấp tướng từ 60 với nam và 55 với nữ thành áp dụng chung 60 tuổi cho cả nam và nữ sĩ quan. Các đại biểu Quốc hội cho rằng, quy định độ tuổi phục vụ tại ngũ như vậy dẫn tới thiệt thòi cho sĩ quan, vì sĩ quan sẽ phải nghỉ hưu sớm hơn cán bộ, công chức ở các lĩnh vực khác.
Trái ngược với quan điểm nêu trên, đại biểu Quản Minh Cường (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai) cho rằng, quy định tuổi phục vụ tại ngũ như dự thảo luật để sĩ quan được nghỉ hưu sớm không phải là chưa bảo đảm quyền lợi của sĩ quan. Trái lại, đây là chính sách thể hiện sự ưu tiên với sĩ quan QĐND Việt Nam, bởi “không giống như sĩ quan Công an nhân dân có thể cả đời chỉ phục vụ ở một nơi, sĩ quan QĐND Việt Nam phải chuyển rất nhiều đơn vị trên nhiều địa bàn khác nhau nên phải ưu tiên được nghỉ hưu sớm”. Đại biểu Quản Minh Cường cho biết, không chỉ Việt Nam mà pháp luật của các nước khác cũng đều quy định tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan Quân đội thấp hơn tuổi làm việc ở các khu vực khác.
Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giải thích, lao động của quân nhân là lao động đặc biệt. Sĩ quan 45 tuổi vẫn phải hành quân mỗi năm khoảng 300km, mỗi đợt hành quân phải hành quân bộ khoảng 25-27km mỗi ngày. Đại tướng Phan Văn Giang phân tích vui: “Nếu không phải hành quân bộ, mà cứ leo lên ô tô để đi thì 60 chứ 65 tuổi nghỉ hưu chúng tôi cũng vẫn làm được. Nhưng không thể như thế được, chúng tôi phải hành quân bộ, phải rèn như thế để sẵn sàng phục vụ khi có chiến tranh xảy ra”.
Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cũng phân tích rõ: Tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan QĐND Việt Nam như đề xuất trong dự thảo luật đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, bảo đảm phù hợp với thực tiễn huấn luyện và bảo đảm để khi nghỉ hưu, sĩ quan QĐND Việt Nam được hưởng mức lương hưu tối đa 75% như quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Phân tích của đại biểu Quản Minh Cường và Đại tướng Phan Văn Giang, Đại tướng Nguyễn Tân Cương rất thấu tình đạt lý. Không giống như lao động ở các ngành nghề, lĩnh vực khác, lao động của sĩ quan QĐND Việt Nam là lao động rất đặc biệt. Họ thường xuyên phải đóng quân xa nhà, thậm chí đóng quân ngay bên cạnh gia đình cũng vẫn phải có mặt ở đơn vị toàn thời gian, chỉ được nghỉ tranh thủ về thăm gia đình vài ngày mỗi tháng trong điều kiện bình thường. Điều kiện lao động của quân nhân cũng rất nặng nhọc, nguy hiểm nên người dân vẫn quen gọi lao động của bộ đội là "lao động xương máu". Vì thế, cũng cần có cơ chế đặc biệt dành cho sĩ quan QĐND Việt Nam!./.
GÓC NHÌN NGHỊ TRƯỜNG: LAO ĐỘNG ĐẶC BIỆT NÊN CẦN CƠ CHẾ ĐẶC BIỆT
GÓC NHÌN NGHỊ TRƯỜNG: LAO ĐỘNG ĐẶC BIỆT NÊN CẦN CƠ CHẾ ĐẶC BIỆT.
Thảo luận tại tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, rất nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị kéo dài độ tuổi tại ngũ của sĩ quan theo đúng quy định về độ tuổi nghỉ hưu của Luật Bảo hiểm xã hội.
Các ý kiến được đưa ra trên cơ sở sự quan tâm và tình cảm yêu mến rất đặc biệt đối với Bộ đội Cụ Hồ. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam đề nghị kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ đối với cấp úy từ 46 (quy định hiện hành) lên 50, Thiếu tá từ 48 lên 52, Trung tá từ 51 lên 54, Thượng tá từ 54 lên 56, Đại tá từ 57 với nam và 55 với nữ lên 58 áp dụng chung cho cả nữ và nam, cấp tướng từ 60 với nam và 55 với nữ thành áp dụng chung 60 tuổi cho cả nam và nữ sĩ quan. Các đại biểu Quốc hội cho rằng, quy định độ tuổi phục vụ tại ngũ như vậy dẫn tới thiệt thòi cho sĩ quan, vì sĩ quan sẽ phải nghỉ hưu sớm hơn cán bộ, công chức ở các lĩnh vực khác.
Trái ngược với quan điểm nêu trên, đại biểu Quản Minh Cường (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai) cho rằng, quy định tuổi phục vụ tại ngũ như dự thảo luật để sĩ quan được nghỉ hưu sớm không phải là chưa bảo đảm quyền lợi của sĩ quan. Trái lại, đây là chính sách thể hiện sự ưu tiên với sĩ quan QĐND Việt Nam, bởi “không giống như sĩ quan Công an nhân dân có thể cả đời chỉ phục vụ ở một nơi, sĩ quan QĐND Việt Nam phải chuyển rất nhiều đơn vị trên nhiều địa bàn khác nhau nên phải ưu tiên được nghỉ hưu sớm”. Đại biểu Quản Minh Cường cho biết, không chỉ Việt Nam mà pháp luật của các nước khác cũng đều quy định tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan Quân đội thấp hơn tuổi làm việc ở các khu vực khác.
Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giải thích, lao động của quân nhân là lao động đặc biệt. Sĩ quan 45 tuổi vẫn phải hành quân mỗi năm khoảng 300km, mỗi đợt hành quân phải hành quân bộ khoảng 25-27km mỗi ngày. Đại tướng Phan Văn Giang phân tích vui: “Nếu không phải hành quân bộ, mà cứ leo lên ô tô để đi thì 60 chứ 65 tuổi nghỉ hưu chúng tôi cũng vẫn làm được. Nhưng không thể như thế được, chúng tôi phải hành quân bộ, phải rèn như thế để sẵn sàng phục vụ khi có chiến tranh xảy ra”.
Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cũng phân tích rõ: Tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan QĐND Việt Nam như đề xuất trong dự thảo luật đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, bảo đảm phù hợp với thực tiễn huấn luyện và bảo đảm để khi nghỉ hưu, sĩ quan QĐND Việt Nam được hưởng mức lương hưu tối đa 75% như quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Phân tích của đại biểu Quản Minh Cường và Đại tướng Phan Văn Giang, Đại tướng Nguyễn Tân Cương rất thấu tình đạt lý. Không giống như lao động ở các ngành nghề, lĩnh vực khác, lao động của sĩ quan QĐND Việt Nam là lao động rất đặc biệt. Họ thường xuyên phải đóng quân xa nhà, thậm chí đóng quân ngay bên cạnh gia đình cũng vẫn phải có mặt ở đơn vị toàn thời gian, chỉ được nghỉ tranh thủ về thăm gia đình vài ngày mỗi tháng trong điều kiện bình thường. Điều kiện lao động của quân nhân cũng rất nặng nhọc, nguy hiểm nên người dân vẫn quen gọi lao động của bộ đội là "lao động xương máu". Vì thế, cũng cần có cơ chế đặc biệt dành cho sĩ quan QĐND Việt Nam!./.
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 02/11
“… Chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc, đăng trên Báo Nhân dân, số 2056, ngày 02 tháng 11 năm 1959.
Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ngành, các cấp ra sức thi đua thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Chính phủ về xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ tư hữu cá nhân về ruộng đất để phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất sâu sắc trong bối cảnh toàn miền Bắc đang thực hiện hợp tác xã nông nghiệp, việc xây dựng cũng như quản lý hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Mặt khác, ở một bộ phận cán bộ quản lý vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn nhận cái tốt về mình và đẩy cái xấu, cái chưa tốt cho người khác, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Lời dạy của Bác trong thời điểm này, không những chỉ ra những hạn chế, biện pháp khắc phục mà còn là lời căn dặn, nhắc nhở đối với toàn thể cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ta nói chung và quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, kịp thời chấn chỉnh những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số tổ chức và cá nhân trong phương thức làm ăn mới, góp phần vào xây dựng tính tập thể, tình đoàn kết toàn dân thành một khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở cho nông nghiệp miền Bắc phát triển và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, để cho mỗi cá nhân trong tập thể “tự soi, tự sửa”, xây dựng ý thức và hành động của bản thân, mình vì mọi người, tất cả vì miền Nam ruột thịt, góp phần vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm… Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn đề cao tình đồng chí, đồng đội, biết chia sẻ khó khăn, biết trân trọng những thành quả, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thiếu sót, không mắc bệnh “thành tích”, không háo danh, phô trương, không tranh công đổ lỗi cho người khác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện mẫu mực tiêu biểu./.
“CHỚ NÊN CÁI GÌ TỐT THÌ DÀNH CHO MÌNH, XẤU ĐỂ CHO NGƯỜI KHÁC”
“CHỚ NÊN CÁI GÌ TỐT THÌ DÀNH CHO MÌNH, XẤU ĐỂ CHO NGƯỜI KHÁC”
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc, đăng trên Báo Nhân dân, số 2056, ngày 02 tháng 11 năm 1959.
Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ngành, các cấp ra sức thi đua thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Chính phủ về xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ tư hữu cá nhân về ruộng đất để phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất sâu sắc trong bối cảnh toàn miền Bắc đang thực hiện hợp tác xã nông nghiệp, việc xây dựng cũng như quản lý hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Mặt khác, ở một bộ phận cán bộ quản lý vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn nhận cái tốt về mình và đẩy cái xấu, cái chưa tốt cho người khác, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Lời dạy của Bác trong thời điểm này, không những chỉ ra những hạn chế, biện pháp khắc phục mà còn là lời căn dặn, nhắc nhở đối với toàn thể cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ta nói chung và quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, kịp thời chấn chỉnh những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số tổ chức và cá nhân trong phương thức làm ăn mới, góp phần vào xây dựng tính tập thể, tình đoàn kết toàn dân thành một khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở cho nông nghiệp miền Bắc phát triển và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, để cho mỗi cá nhân trong tập thể “tự soi, tự sửa”, xây dựng ý thức và hành động của bản thân, mình vì mọi người, tất cả vì miền Nam ruột thịt, góp phần vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm… Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn đề cao tình đồng chí, đồng đội, biết chia sẻ khó khăn, biết trân trọng những thành quả, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thiếu sót, không mắc bệnh “thành tích”, không háo danh, phô trương, không tranh công đổ lỗi cho người khác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”./.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “CỐT TINH, KHÔNG CỐT ĐÔNG” TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “CỐT TINH, KHÔNG CỐT ĐÔNG” TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
***
Từ thực tiễn xây dựng quân đội và kinh nghiệm tổ chức kháng chiến, các nhà nước quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học giữ nước, trong đó có quan điểm xây dựng quân đội thường trực của quốc gia “cốt tinh, không cốt đông”, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc nền độc lập và vẹn toàn cương vực quốc gia. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng xây dựng quân đội của các triều đại quân chủ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Ngoài việc kiên định nguyên tắc quản lý, lãnh đạo, coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tinh thần; gắn với đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo; tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực dự bị chất lượng cao... thì một trong những vấn đề quan trọng là phải gắn xây dựng lực lượng tinh nhuệ với điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế LLVT phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng LLVT có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân, trong đó quân triều đình quản lý giữ vai trò quyết định. LLVT triều Lý, Trần bao gồm quân chủ lực của triều đình, quân của quý tộc (vương hầu, tôn thất), quân của các lộ, phủ, châu (quân địa phương) và dân binh làng, xã, động, bản. Quân chủ lực của triều đình do nhà nước trực tiếp quản lý, chỉ huy, gồm các thành phần cấm quân và sương quân. Cấm quân là công cụ bạo lực chủ yếu, chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyền quân chủ, là trụ cột của quốc phòng, an ninh và là lực lượng chủ lực trong các cuộc chiến tranh giữ nước.
Đến triều Vua Lê Thánh Tông, cùng với việc cải cách hành chính, chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo sự thống nhất với hệ thống tổ chức chặt chẽ, quy củ. Lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: Quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm cấm binh (còn gọi là cấm vệ quân) và quân ngũ phủ. Cấm binh được chia thành vệ, sở, vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ vua, hoàng cung và kinh thành. Quân ngũ phủ được nhà nước xác định rõ là bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.
Để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh, thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định biên chế quân đội thành hệ thống gồm đội, cơ, đạo và doanh. Trong những trường hợp cần thiết, quân đội Tây Sơn còn được tổ chức thành các đơn vị quy mô lớn gọi là đại quân gồm 2-3 doanh do một đại đô đốc chỉ huy. Để tạo nên sức mạnh tổng hợp, tượng binh, kỵ binh, pháo binh và thủy binh được Vua Quang Trung quan tâm chú trọng phát triển và ngày càng hoàn thiện theo hướng gọn, tinh nhuệ, là lực lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng và bảo vệ nền độc lập...
Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo trên bình diện tư tưởng, lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng LLVT. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tháng 3-1947, lực lượng dân quân du kích được thống nhất về tổ chức, xây dựng thành một bộ phận đông đảo của LLVT nhân dân, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác chiến linh hoạt, sáng tạo.
Tháng 4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương có quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, Đảng ta rất chú trọng tới việc xây dựng các đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị cơ động cấp đại đoàn. Trong giai đoạn 1949-1952, các đại đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại đoàn Công pháo 351 lần lượt được thành lập.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không-Không quân, các binh chủng: Thông tin liên lạc, Đặc công... được thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Đặc biệt, các đơn vị chủ lực của bộ binh có bước phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232) vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Đây là lực lượng cơ động chiến lược hoạt động trên địa bàn cả nước, hoặc trên từng chiến trường theo yêu cầu, nhiệm vụ để tiến hành tác chiến tập trung, thực hành các trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh cách mạng.
Phương thức tổ chức ba thứ quân thể hiện đậm nét tính nhân dân của LLVT do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, lãnh đạo. Thành công trong việc xây dựng LLVT ba thứ quân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, là cơ sở quan trọng để Đảng phát huy thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh. Thế trận đó cho phép chúng ta thực hiện chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của lực lượng tại chỗ thuộc bộ đội địa phương và dân quân du kích, với chiến tranh nhân dân địa phương, phong trào toàn dân đánh giặc và phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng Quân đội đặt ra trong từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Đặc biệt, hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ đặt ra ngày càng cao; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới tất cả lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh ngày càng sâu sắc thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội nói chung là vấn đề khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng BVTQ.
Từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.
Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường Quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của Quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới./.
PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM
PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM
Gần đây, trang Daploisongnui đăng tải bài viết: “Sự khác nhau giữa đối tác kiếm ăn và đồng minh ý thức hệ cộng sản”, xuyên tạc rằng: “Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 quốc gia, thì có 6 quốc gia dân chủ tư bản phát triển; Việt Nam vẫn là một quốc gia tụt hậu, hay không muốn nói là nghèo khổ so với các lân bang, chứ chưa cần với quốc gia phát triển; Việt Nam ký kết hợp tác chiến lược toàn diện, nó không giúp ích gì cho sự phát triển của quốc gia; mô hình chính trị của Việt Nam hoàn toàn khác biệt so với các quốc gia dân chủ; chế độ của chúng ta thiếu tôn trọng nhân quyền, không dặt con người là trung tâm của sự phát triển”...
Thực chất đây là những quan điểm sai trái, thù địch của một số người tự xưng là “người yêu nước”, “nhà dân chủ”, “học giả” thù địch; thường xuyên tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng các bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cố tình suy diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng còn cho rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược toàn diện, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình...
Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế, đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Việt Nam hiện đã có 8 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện gồm Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia và Pháp; đồng thời ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Tính đến tháng 9/2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.
Đó là những vấn đề thực tế không thể chối cãi được, nó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế lực thù địch./
KIÊN QUYẾT KHÔNG ĐỂ THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHIA RẼ TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT NAM - CAMPUCHIA
KIÊN QUYẾT KHÔNG ĐỂ THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHIA RẼ TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT NAM - CAMPUCHIA
Chủ tịch nước Tô Lâm và Chủ tịch Thượng viện Campuchia Hun Sen nhấn mạnh ý nghĩa giá trị lịch sử quan hệ Việt Nam - Campuchia, kiên quyết không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chia rẽ tình hữu nghị.
Chiều 12/7, Chủ tịch nước Tô Lâm đã hội đàm với Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia, Chủ tịch Thượng viện Campuchia Hun Sen.
Chủ tịch nước Tô Lâm bày tỏ vui mừng trước những thành tựu phát triển không ngừng mà Campuchia đã đạt được thời gian qua, trong đó có gần 4 thập kỷ dưới sự lãnh đạo bởi Chính phủ do Chủ tịch Hun Sen đứng đầu.
Chủ tịch nước tin tưởng Campuchia sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa với vai trò, vị thế ngày càng được nâng cao ở khu vực và thế giới.
Chủ tịch nước đánh giá cao tình cảm quý báu và vai trò then chốt của Chủ tịch Hun Sen trong việc gìn giữ, phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước thời gian qua.
Chủ tịch Hun Sen khẳng định chuyến thăm của Chủ tịch nước Tô Lâm góp phần củng cố hơn nữa quan hệ hữu nghị, gắn bó giữa hai nước.
Hai lãnh đạo đánh giá cao những thành tựu hợp tác trong thời gian qua. Trong đó, hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với Thượng viện, Quốc hội Campuchia ngày càng chặt chẽ.
Hai lãnh đạo nhất trí cho rằng, sự ổn định, hòa bình và phát triển của nước này cũng là lợi ích của nước kia.
Hai bên bày tỏ trân trọng sự giúp đỡ, đoàn kết, gắn bó và hy sinh cho nhau trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như xây dựng, phát triển đất nước ngày nay và khẳng định đó là chân lý không thể phủ nhận.
Chủ tịch Hun Sen dành nhiều lời tình cảm khắc ghi về sự giúp đỡ, hy sinh của Việt Nam trong việc giúp Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và hồi sinh đất nước Campuchia.
Nhằm đưa quan hệ phát triển hơn trong giai đoạn mới, hai bên nhất trí tích cực triển khai tốt thỏa thuận cấp cao, kết quả cuộc gặp cấp cao hai Đảng.
Tăng cường gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, các cấp và trên tất cả các kênh, nhất là giữa lãnh đạo trẻ và thanh niên hai nước. Mở rộng giao lưu, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, các tổ chức nhân dân, địa phương hai nước.
Hai bên nhấn mạnh tiếp tục đưa hợp tác an ninh-quốc phòng phát triển toàn diện và sâu sắc hơn, kiên định nguyên tắc không cho phép bất cứ thế lực thù địch nào sử dụng lãnh thổ nước này để chống phá nước kia và coi an ninh an toàn của nước này cũng là lợi ích của nước kia...
Hai lãnh đạo đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa giá trị lịch sử quan hệ Việt Nam – Campuchia và thống nhất cao cần đẩy mạnh đổi mới, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền giáo dục. Kiên quyết không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chia rẽ tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia.
Chủ tịch Hun Sen cũng đề cao tầm quan trọng của hợp tác phát triển nguồn nhân lực và đề nghị Việt Nam tiếp tục hỗ trợ Campuchia trong lĩnh vực này.
Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, trong đó có việc triển khai hiệu quả các thỏa thuận đạt được tại Cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Campuchia và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Ngoài ra, duy trì và phát huy hiệu quả các cuộc gặp giữa ba Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng Công an, Quốc phòng, Ngoại giao và lãnh đạo một số bộ, ngành ba nước; củng cố đoàn kết, gắn bó giữa ba nước vì lợi ích của mỗi nước, vì lợi ích chung của khu vực.
Đáp lại lời mời thăm Việt Nam của Chủ tịch nước Tô Lâm, Chủ tịch Hun Sen khẳng định sẽ sớm thăm Việt Nam.
LỢI ÍCH TỪ THÔN THÔNG MINH
LỢI ÍCH TỪ THÔN THÔNG MINH
Tuyến đường 4.0 thanh toán thông minh không dùng tiền mặt ở thôn Cộng Hòa, xã Phù Linh (Sóc Sơn, Hà Nội) hơn một năm qua đã đem lại nhiều tiện lợi cho nhân dân và khách du lịch.
Thôn Cộng Hòa là thôn thông minh đầu tiên ở xã Phù Linh đạt đủ các tiêu chí gồm: Tổ công nghệ số cộng đồng; giao tiếp thông minh; thương mại điện tử; du lịch thông minh; dịch vụ xã hội. Đồng chí Trương Ngọc Lan, Bí thư Đảng ủy xã Phù Linh phấn khởi chia sẻ: “Xây dựng thôn thông minh mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân, từ tiếp cận các dịch vụ công; thông tin, thông báo của chính quyền xã, huyện đến những giao dịch buôn bán đều trên nền tảng số chỉ qua chiếc điện thoại thông minh nhỏ gọn, thuận lợi, an toàn”.
Trước đây, ở các thôn trong xã Phù Linh, để chuẩn bị triển khai hay thông báo công việc của thôn, của xã như: Tổ chức tổng dọn vệ sinh; họp thôn; thu các loại quỹ... ngoài phát trên loa truyền thanh thôn, cán bộ phải đến nhiều hộ dân để đôn đốc, nhắc nhở. Nay có trang fanpage của thôn, xã; nhóm zalo thôn kết nối 100% hộ gia đình... mọi việc nhân dân đều tiếp cận, nắm bắt kịp thời. Đồng chí Nguyễn Phú Tòng, Bí thư chi bộ thôn Vệ Linh, xã Phù Linh cho biết: “Nhờ công nghệ mà các công việc được giảm tải hơn rất nhiều cho đội ngũ cán bộ thôn. Người dân cũng nhiệt tình tham gia vì đem lại những tiện ích trong đời sống”.
Ở xã Tản Hồng, huyện Ba Vì, để xây dựng các thôn thông minh, xã đã thành lập tổ công nghệ số cộng đồng, nòng cốt là lực lượng đoàn viên, thanh niên đã hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến; hướng dẫn các hộ kinh doanh, người dân đăng ký tham gia các sàn thương mại điện tử; cài đặt, sử dụng các dịch vụ số phục vụ cho nhu cầu thiết yếu, như: Y tế, giáo dục, chính sách xã hội... Đồng chí Lê Văn Ninh, Bí thư Đảng ủy xã Tản Hồng cho biết: “Từ những tổ công nghệ số cộng đồng, người dân được tiếp cận công nghệ theo cách đơn giản, xuất phát từ nhu cầu của đời sống nên hưởng ứng xây dựng thôn thông minh vì mang lại nhiều giá trị thiết thực”.
Với những lợi ích đem lại cho nhân dân từ xây dựng thôn thông minh, theo kế hoạch, TP Hà Nội phấn đấu đến năm 2025, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được tổ chức đồng bộ, thống nhất trên nền tảng công nghệ số, với 90% hồ sơ công việc tại cấp thành phố, 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc cấp xã được xử lý trên môi trường mạng; 100% cấp huyện có các mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực... Từ những thôn thông minh, đây là tiền đề ứng dụng chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới trên toàn TP Hà Nội, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, đặc biệt là ở nông thôn./.
BẢO VỆ TRẺ EM TRÊN MÔI TRƯỜNG MẠNG: TRÁCH NHIỆM VÀ BẢN LĨNH NHÀ BÁO
BẢO VỆ TRẺ EM TRÊN MÔI TRƯỜNG MẠNG: TRÁCH NHIỆM VÀ BẢN LĨNH NHÀ BÁO
Trong bối cảnh công nghệ phát triển, làm gì để bảo vệ trẻ em trước những tác động tiêu cực của không gian mạng là vấn đề của toàn xã hội, trong đó có vai trò quan trọng của báo chí, truyền thông.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ mang lại cho trẻ em cơ hội tiếp cận nhiều hơn với internet. Thạc sĩ Phan Thị Kim Liên, Quản lý Chương trình Bảo vệ trẻ em của Tổ chức Word Vision-Vietnam (WVV) cho biết, theo báo cáo "Ngăn chặn hành vi gây tổn hại" của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) năm 2022, ở Việt Nam có 89% số trẻ em độ tuổi 12 đến 17 được khảo sát cho biết có sử dụng internet, số trẻ sử dụng internet hằng ngày chiếm 87%, tỷ lệ tăng dần theo lứa tuổi, đến 16-17 tuổi là 97%; có 20% số trẻ được khảo sát cho biết đã dùng internet trước 9 tuổi.
Theo WVV, chỉ 15,6% số trẻ em, 28,7% số cha mẹ có kiến thức về nguy cơ trên mạng và chỉ có 8,6% biết về xâm hại tình dục qua mạng. Câu lạc bộ Bảo vệ trẻ em Việt Nam trên không gian mạng (VCSC) đưa ra con số có 40% trẻ em cảm thấy không an toàn, hơn 70% đã từng có trải nghiệm không mong muốn khi sử dụng internet.
Theo WVV, chỉ 15,6% số trẻ em, 28,7% số cha mẹ có kiến thức về nguy cơ trên mạng và chỉ có 8,6% biết về xâm hại tình dục qua mạng. Câu lạc bộ Bảo vệ trẻ em Việt Nam trên không gian mạng (VCSC) đưa ra con số có 40% trẻ em cảm thấy không an toàn, hơn 70% đã từng có trải nghiệm không mong muốn khi sử dụng internet.
Theo VCSC, đã có 1% (xấp xỉ 94.000) số người dùng internet độ tuổi 12-17 ở Việt Nam là nạn nhân của bóc lột và xâm hại tình dục qua mạng. 5 tháng đầu năm 2024, Thành phố Hồ Chí Minh đã ghi nhận có 45 vụ xâm hại trẻ em với 46 nạn nhân. Trong đó, bốn nạn nhân là nam, 42 nạn nhân là nữ và có tới 40 vụ thuộc nhóm các hành vi liên quan đến xâm hại tình dục.
Một vấn đề nghiêm trọng nữa là ảnh hưởng của các trò chơi bạo lực trên mạng với trẻ. Việc tiếp xúc với những trò chơi đầy rẫy cảnh đâm chém, đánh nhau một cách lạnh lùng khi trẻ còn nhỏ, chưa có đủ nhận thức đúng sai làm tăng khả năng bắt chước, ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ và gây ra những hành vi sai trái.
Ngày 1/6/2021, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 830/QĐ-TTg phê duyệt chương trình "Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo trên môi trường mạng giai đoạn 2021-2025".
Quyết đinh số 830 là sự cụ thể hóa quá trình thực hiện Nghị quyết số 121 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một chương trình cấp quốc gia riêng về bảo vệ trẻ em trên mạng.
Chương trình có mục tiêu bảo vệ thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em khi trẻ em tiếp cận thông tin, tham gia các hoạt động trên môi trường mạng và ngăn chặn, xử lý các hành vi lợi dụng môi trường mạng thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm đối với trẻ em dưới mọi hình thức.
Đồng thời, trang bị kiến thức, kỹ năng số cho trẻ em theo từng độ tuổi để biết tự bảo vệ mình và biết cách tương tác an toàn, có ý thức nhận diện, thông báo, tố giác hành vi, vụ việc xâm hại trẻ em trên môi trường mạng. Chương trình truyền thông đến toàn xã hội, tập trung vào các đối tượng là cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ. Thực hiện các giải pháp chủ động phòng ngừa, phát hiện các hành vi xâm hại trẻ em; bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em được tham gia an toàn, lành mạnh trên môi trường mạng và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp để trẻ phục hồi khi chịu tác động tiêu cực từ môi trường mạng. Hình thành và phổ cập hệ sinh thái các sản phẩm, ứng dụng của Việt Nam đáp ứng nhu cầu học tập, giải trí của trẻ em trên môi trường mạng. Hiệp hội An toàn thông tin đã quyết định Thành lập Câu lạc bộ Bảo vệ trẻ em Việt Nam trên không gian mạng (VCSC) vào tháng 8/2023, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu nêu trên.
Là một trong những lực lượng trụ cột trong công tác bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng, truyền thông, báo chí đã có nhiều cố gắng thực hiện chức năng, nhiệm vụ góp phần phanh phui, đưa ra pháp luật nhiều vụ xâm hại trẻ.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bài báo, cơ quan báo chí đã vô tình hay cố ý vi phạm Luật Trẻ em, vi phạm Nghị định số 156 của Chính phủ khi đưa tin quá chi tiết, thông tin bí mật đời tư của nạn nhân nhỏ tuổi với ngôn từ, hình ảnh thiếu chọn lọc để tăng lượt độc giả.
Ông Đặng Hoa Nam, Cục trưởng Cục Trẻ em, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phải thốt lên, như vậy, không khác gì các em bị xâm hại một lần nữa đau đớn hơn, thậm chí là chặn luôn tương lai sau này của các em.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 09/2017/TT-BTTTT quy định về tỷ lệ nội dung, thời điểm, thời lượng dành cho trẻ em và cảnh báo nội dung không phù hợp trẻ em trên báo nói, báo hình, báo in, báo điện tử và xuất bản phẩm. Ðiều 15 của Thông tư này quy định: Báo in, báo hình, báo điện tử phải làm mờ hoặc che mặt trẻ em và bảo đảm bí mật cá nhân của trẻ em khi thông tin về những vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật mà trẻ em là nạn nhân hoặc là người liên quan.
Nhà báo-nhà văn Lê Tấn Hiển, tác giả của nhiều tác phẩm báo chí và văn học về đề tài trẻ em cho rằng, mặc dù tính chính xác, trung thực là yêu cầu hàng đầu của báo chí, nhưng khi khai thác đề tài về trẻ em, nhà báo phải thật sự có tâm, có bản lĩnh nghề nghiệp khi giải quyết mối quan hệ giữa tính chân thực của tác phẩm báo chí với trách nhiệm xã hội, phải đặt lợi ích của các em lên trên hết. Đã có trường hợp cả gia đình trẻ em phải chuyển chỗ ở trong nỗi uất ức, tủi hổ vì bị tiết lộ thông tin đời tư trên báo chí.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Thúy Hằng, nguyên Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí (Hội Nhà báo Việt Nam) bày tỏ, các em là đối tượng dễ bị tổn thương do còn non nớt, nhà báo cần phải tôn trọng nhân phẩm và quyền của trẻ khi tác nghiệp.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Oanh, Trưởng khoa Quan hệ quốc tế, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nhà báo cần có kiến thức và hiểu biết về quyền trẻ em theo quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, về hệ thống luật pháp Việt Nam, đặc biệt là Luật Trẻ em và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đã được Hội Nhà báo Việt Nam ban hành.
Bà Phan Thị Kim Liên của Tổ chức WVV cho rằng, báo chí cần đóng vai trò định hướng thông tin, điều chỉnh các thông tin sai, lệch chuẩn; lên án các hành vi xâm hại, tác động tiêu cực đến trẻ em; có trách nhiệm trong việc lựa chọn thông tin tích cực, lành mạnh, hỗ trợ phát triển nhân cách trẻ giúp các em biết tự bảo vệ mình và biết cách tương tác an toàn trên môi trường mạng./
LẠI THÊM NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN
LẠI THÊM NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN
Những ngày này, khi các địa phương trên cả nước đang tích cực triển khai công tác khám sức khỏe (từ ngày 1-11 đến 31-12), gọi thanh niên nhập ngũ thì trên không gian mạng lại xuất hiện các thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc việc tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự (NVQS), đả kích môi trường quân ngũ. Đây là luận điệu nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, xuyên tạc việc thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc, tạo dư luận xấu, gieo rắc tư tưởng thoái thác về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc, nhất là những người trong độ tuổi thực hiện NVQS.
Những luận điệu sai trái, xuyên tạc
Trên không gian mạng, mạng xã hội, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đang rêu rao, tuyên truyền các bài viết, đăng status, dòng trạng thái sai sự thật như: “Trong khi các nước phát triển quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi NVQS, nghĩa vụ công an”, “hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi NVQS”, “mất 2 năm đi NVQS về chẳng được gì”, “chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ”...
Trong khi sự thật là, nhiều nước trên thế giới vẫn đang áp dụng bắt buộc nghĩa vụ quân sự, không thực hiện miễn, hoãn-kể cả các ngôi sao nghệ thuật. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch, phản động còn đăng tải các cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài với lời bình xuyên tạc là ở Việt Nam; họ cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội... nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề.
Mục đích của họ là bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước. Từ đó, khiến cho công dân đến độ tuổi nhập ngũ và gia đình, người thân “tự diễn biến”, dao động tư tưởng, hoài nghi, thiếu niềm tin, trốn tránh thực hiện NVQS, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hệ quả là rơi vào âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.
Trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng, biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất.
Những anh hùng liệt sĩ như: Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc... là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, niềm tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam học tập, noi theo: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”-câu nói đanh thép của Anh hùng Lý Tự Trọng đã trở thành lời hiệu triệu, động lực thôi thúc hàng triệu thế hệ thanh niên Việt Nam mong muốn được cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc.
Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc là quyền lợi và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên cho chính quê hương, gia đình, người thân của mình. Thực hiện NVQS đã được hiến định trong Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Điều 45, Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân phải thực hiện NVQS và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Điều 64, Chương IV quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Thể chế hóa Hiến pháp, khoản 1, khoản 2, Điều 4 và khoản 1, Điều 59 Luật NVQS năm 2015 quy định: “NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân; công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện NVQS theo quy định.
Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện NVQS thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, công dân đến tuổi tham gia NVQS không thể đưa ra để bàn luận, so đo, tính toán “đi hay không đi”, “dám hay không dám”. Việc trốn tránh NVQS, trốn tránh trách nhiệm công dân không những vi phạm pháp luật mà còn là tội lớn với thế hệ cha anh đi trước, với Tổ quốc và dân tộc.
Trường học lớn để thanh niên phấn đấu
Cần khẳng định, Quân đội là trường học lớn để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường Quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Với kỷ luật tự giác và nghiêm minh, môi trường văn hóa quân sự là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, trưởng thành và cống hiến.
Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách đối với quân nhân ngày càng được quan tâm, bảo đảm tốt. Quá trình thực hiện NVQS, thanh niên được học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Trong môi trường quân ngũ, họ được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được giáo dục chính trị, truyền thống, giáo dục pháp luật...
Thông qua đó, thanh niên trưởng thành về nhận thức chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận diện rõ, đúng những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới; đồng thời, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch.
Môi trường quân ngũ còn giúp thanh niên được rèn luyện sức khỏe, thể lực dẻo dai; tác phong chững chạc, có trách nhiệm cao với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; giao tiếp, ứng xử đúng mực, có văn hóa. Quân đội cũng chính là môi trường giáo dục tốt nhất về tình đồng chí, đồng đội; tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái; cán bộ, chiến sĩ đồng sức, đồng lòng cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là nơi mà thanh niên thấm nhuần sâu sắc tình đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân, tình yêu quê hương, đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Bên cạnh đó, sau khi huấn luyện, những quân nhân có đủ điều kiện sẽ được tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng hoặc cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (nếu có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong Quân đội). Những quân nhân hoàn thành NVQS, khi xuất ngũ sẽ được hưởng chính sách ưu đãi như cộng điểm khi thi tuyển sinh vào các trường đại học, học viện, hỗ trợ đào tạo học nghề, tạo công ăn việc làm...
Khi xuất ngũ được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp việc làm, trợ cấp bảo hiểm, thanh toán nghỉ phép, quà Tết, phụ cấp, thẻ học nghề giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp và ổn định cuộc sống sau này. Điều đó minh chứng, môi trường Quân đội không những không “xấu” như sự bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch mà còn là nơi có điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.
Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà trên hết đó còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các thế hệ thanh niên được tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Thực tiễn sinh động đó là minh chứng bác bỏ, phê phán các luận điệu xuyên tạc về thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.




