Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM THĂM, CHÚC TẾT ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN VÀ NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN!

         Nhân dịp năm mới 2025, chuẩn bị đón Tết cổ truyền của dân tộc Xuân Ất Tỵ, chiều 7-1, Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác Trung ương đã về thăm và chúc Tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hưng Yên!

Tham gia Đoàn công tác có các đồng chí: Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội Chính Trung ương; Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Đại tướng Lương Tam Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Nguyễn Duy Ngọc, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; một số đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, đại diện ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương.

Thành tựu kinh tế - xã hội phát triển khá toàn diện
Theo báo cáo của tỉnh Hưng Yên, năm 2024, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hưng Yên đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội để đạt được thành tựu phát triển đáng khích lệ, khá toàn diện trên các lĩnh vực. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến tích cực; thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW, Kết luận số 01 KL/TW của Bộ Chính trị về "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". 

Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng trong toàn Đảng bộ thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng bám sát tình hình thực tiễn địa phương; tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đúng tiến độ. Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã bảo đảm phù hợp với quy định của Trung ương và tình hình thực tiễn địa phương. 

Năm 2024, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt hoặc vượt mục tiêu đề ra. Tốc độ tăng trưởng GRDP ước tăng 7,7%, GRDP bình quân đầu người 121,3 triệu đồng; thu ngân sách ước đạt 40.114 tỷ đồng; hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hệ thống giao thông được đầu tư đồng bộ; xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu đạt kết quả tích cực (100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; trên 30% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu). An sinh xã hội bảo đảm, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phúc lợi xã hội tiếp tục được cải thiện…

Sớm trở thành tỉnh phát triển nhanh, bền vững
Về thăm, chúc Tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hưng Yên, Tổng Bí thư Tô Lâm gửi lời chào thân ái, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh Hưng Yên qua các thời kỳ, các đồng chí lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tỉnh Hưng Yên.

Năm 2025 là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025, Tổng Bí thư nhấn mạnh, Đảng bộ cần nhận thức đúng và sâu hơn nữa về tình hình và bối cảnh chung; xác định rõ tiềm năng, lợi thế của địa phương để từ đó đề ra mục tiêu, yêu cầu, lựa chọn nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

Đảng bộ tỉnh cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện khẩn trương, quyết liệt, hiệu quả việc sắp xếp bộ máy của hệ thống chính trị cấp tỉnh, cấp huyện “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng hiệu lực - hiệu quả", theo đúng chủ trương, định hướng của Trung ương, phù hợp tình hình thực tiễn của địa phương. Quan tâm giải quyết chế độ, chính sách, thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Tiếp tục đổi mới phương pháp, lề lối, tác phong làm việc gắn với cải cách hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. 

Đảng bộ tỉnh tập trung lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng - quân sự địa phương; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tỉnh khẩn trương cụ thể hóa Quy hoạch tỉnh Hưng Yên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 489/QĐ-TTg ngày 6-10-2024 của Thủ tướng Chính phủ. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Triển khai đồng bộ, hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, quan tâm chăm lo đời sống của các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người lao động, các đối tượng yếu thế và phấn đấu không còn hộ nghèo.

Tổng Bí thư tin tưởng, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân tỉnh Hưng Yên sẽ thực hiện thắng lợi và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đã đề ra, để Hưng Yên sớm trở thành tỉnh phát triển nhanh, bền vững, tỉnh công nghiệp hiện đại, có quy mô kinh tế và trình độ phát triển trong nhóm dẫn đầu cả nước; có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; kinh tế và xã hội phát triển bền vững theo xu hướng chuyển đổi xanh dựa trên phát triển nền kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao.

Đến năm 2050, Hưng Yên trở thành thành phố trực thuộc Trung ương; thành phố thông minh, giàu đẹp, văn minh, văn hiến, giàu bản sắc văn hóa, phát huy đầy đủ những giá trị cốt lõi của văn hóa Phố Hiến xưa; là nơi đáng sống của vùng đồng bằng sông Hồng, trung tâm kết nối giữa các địa phương trong vùng và cả nước.

* Trước đó, Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác đã đến dâng hương tại Đền thờ Triệu Việt Vương (xã Phạm Hồng Thái, huyện Khoái Châu); Nhà tưởng niệm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Nhà tưởng niệm Trung tướng Nguyễn Bình (xã Nguyễn Văn Linh, huyện Yên Mỹ); Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh (xã Đồng Tiến, huyện Khoái Châu); Văn miếu Xích Đằng (tại phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên).

Tại Đền thờ Triệu Việt Vương (huyện Khoái Châu), Tổng Bí thư Tô Lâm và các Đoàn công tác đã dâng hương bày tỏ lòng thành kính tới Đức vua Triệu Việt Vương, vị vua hào kiệt, nhân nghĩa, chí tình. Danh thơm của Đức vua còn mãi với non sông.

Tại Văn miếu Xích Đằng (thành phố Hưng Yên), Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác đã đến dâng hương tưởng nhớ và tri ân các bậc tiên hiền, tiên thánh, các danh nhân khoa bảng đã góp phần xây dựng nền văn hiến và truyền thống hiếu học của quê hương và đất nước. Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác nguyện tiếp nối truyền thống hiếu học - tôn trọng hiền tài của quê hương và đất nước; không ngừng rèn luyện, cùng nhau đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, để xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Tại Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan (huyện Khoái Châu), Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác đã dâng hương tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn trước anh linh bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác nguyện đoàn kết một lòng, kiên định đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn, quyết tâm xây dựng đất nước, quê hương ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Tại Khu lưu niệm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (huyện Yên Mỹ), Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác đã dâng hương, dành một phút tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những cống hiến của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cộng sản kiên cường, bất khuất, nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên. Đồng chí là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức của người cộng sản, đóng góp nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển quê hương, đất nước. Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác nguyện học tập và noi gương Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh; mãi và sẽ tiếp tục rèn đức luyện tài vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, với quyết tâm đổi mới, xây dựng bộ máy của Đảng, Nhà nước tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả và thiết thực.

Tại Nhà tưởng niệm Trung tướng Nguyễn Bình, Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác dâng hương thành kính tưởng nhớ nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, vị tướng tài năng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên. Ngay từ những ngày đầu tham gia cách mạng, đồng chí đã đem hết nhiệt huyết cách mạng đấu tranh giải phóng quê hương, đất nước./.

Theo TTXVN
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỀ CHÍNH TRỊ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH!

         Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kho tàng lý luận toàn diện, sâu sắc về cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng về vai trò của văn hóa văn nghệ (VHVN) là một nội dung quan trọng.
Trong xây dựng Quân đội về chính trị, VHVN là một bộ phận của văn hóa quân sự, là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần được hình thành, phát triển gắn liền với quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển của Quân đội. Phát huy các giá trị VHVN, góp phần khơi dậy sức mạnh nội lực của cán bộ, chiến sĩ hướng vào hoàn thành các mục tiêu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài.

Là một bộ phận của văn hóa nói chung, VHVN được hình thành và bồi đắp qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Trong thời đại Hồ Chí Minh, ngay từ khi Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập, VHVN đã luôn bổ sung thêm những giá trị mới kết tinh từ thực tiễn hoạt động huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Những giá trị đó phản ánh bản chất, truyền thống vẻ vang của Quân đội ta - một quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của VHVN trong đấu tranh cách mạng. Theo Người, văn hóa có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng con người và hoạt động VHVN được xem là "binh chủng đặc biệt", có sức mạnh độc đáo, có khả năng tác động vào tâm hồn, tình cảm, cảm xúc con người, trực tiếp nuôi dưỡng, đào tạo nhân cách con người mới với những phẩm chất cao đẹp, phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Chính vì vậy, Người thường xuyên quan tâm đến VHVN để bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đưa văn hóa thấm sâu vào quần chúng, tác động như một sức mạnh vật chất, cải tạo con người. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam mới ra đời, Người chỉ rõ: "Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại Nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập" [1].

Khẳng định vị trí, vai trò của VHVN đối với kinh tế và chính trị, Người khẳng định: "Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội". Bản thân Hồ Chí Minh cũng đã góp phần to lớn trong việc sáng tác ra những tác phẩm văn hóa nghệ thuật để phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm của Người cùng với những tác phẩm VHVN mà Người để lại đã trở thành di sản quý báu, thành kim chỉ nam của nền VHVN cách mạng Việt Nam.

Trên lĩnh vực chính trị, Người nói: "Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết", "Chính trị có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển". "Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được". "Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy... dưới chế độ thực dân và phong kiến, Nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được" [2].

Người chỉ ra nguyên nhân kém hiệu quả của kinh tế là do trình độ văn hóa của cán bộ và Nhân dân còn thấp. Vì vậy, muốn phát triển kinh tế, xây dựng nước nhà thì trước hết phải nâng cao trình độ văn hóa của Nhân dân: "Trình độ văn hóa của Nhân dân cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ… cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" [3].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vai trò của nghệ sĩ, Người coi "Văn hóa, nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Quan niệm này đã đưa hoạt động VHVN lên tầm cao mới trong sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi văn hóa nghệ thuật vừa phải khẳng định bản chất nghệ thuật, chức năng thẩm mỹ vươn tới cái đẹp nhưng vừa phải mang tính chiến đấu. Người nói: "Để làm trọn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp; phải hết lòng giúp đỡ thanh niên, làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ thêm xuân" [4].

Bản thân Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại. Thơ Hồ Chí Minh có bài viết bằng tiếng Việt, có bài viết bằng chữ Hán, song không bài thơ nào vắng bóng con người. Là người mở đầu và đặt nền móng cho nền văn xuôi cách mạng Việt Nam, Người đã tìm tòi và viết nhiều thể loại: tiểu thuyết, du ký, truyện viễn tưởng, truyện ngắn, thư từ, ký, kịch, tiểu phẩm, văn chính luận. Người còn là bậc thầy của báo chí cách mạng Việt Nam; là người sáng lập và là linh hồn của nhiều tờ báo cách mạng đầu tiên ở nước ta. Những bài báo ngắn gọn của Người đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở thuộc địa. Những gì Người nói, viết đều rất chân thực, giản dị, tự nhiên phản ánh vẻ đẹp cao quý trong đạo đức, trí tuệ và tâm hồn của một nhân cách lỗi lạc. Nhân cách, tư tưởng đó của Người đã tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn đến đội ngũ văn - nghệ sĩ. Học tập tấm gương của Hồ Chí Minh, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đội ngũ văn, nghệ sĩ đồng hành cùng dân tộc, vừa là người lính cầm súng, vừa là nghệ sĩ cầm bút sáng tác hàng ngàn tác phẩm động viên, cổ vũ, khích lệ để toàn dân, toàn quân tô thắm thêm trang sử vẻ vang của thời đại.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức quan tâm tới mặt trận VHVN. Qua đó, làm cho VHVN phát huy được tối đa sức mạnh và tầm ảnh hưởng, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của Nhân dân ta qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất giang sơn, đưa cả nước đi lên xây dựng CNXH. Trong sự nghiệp đổi mới, VHVN đã và đang góp phần tích cực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước và nhân loại, cần vận dụng sáng tạo hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về VHVN để tiếp tục phát huy vai trò của lĩnh vực đặc thù này trong quá trình xây dựng đất nước và con người Việt Nam.

Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của VHVN, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước về VHVN, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác VHVN trong Quân đội; được cụ thể hóa thông qua các chỉ thị, hướng dẫn thực hiện về công tác xây dựng văn hóa nói chung, phát huy VHVN nói riêng, bảo đảm cho VHVN phát triển đồng bộ, toàn diện, có chiều sâu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội và đời sống tinh thần của bộ đội trong từng giai đoạn cách mạng. Hệ thống thiết chế văn hóa trong toàn quân đã được xây dựng, củng cố, ngày càng hoàn thiện. Nhờ đó, các giá trị VHVN đã góp phần phát huy nhân tố con người, là gốc rễ, nền tảng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, giữ vững bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam và định hướng dẫn dắt quá trình xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Đội ngũ văn nghệ sĩ Quân đội, nhất là ở các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp được đào tạo bài bản, toàn diện, chuyên sâu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, ý thức phục vụ tốt, trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp cao; phát huy tốt vai trò xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, tiếp tục kế thừa, phát huy những thành tựu VHVN có giá trị, sáng tạo nên những tác phẩm thấm đẫm tính nhân văn, có chất lượng cao. Cấp ủy, chỉ huy các cấp thường xuyên quan tâm chăm lo, tạo điều kiện để hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng ở đơn vị cơ sở ngày càng đi vào nền nếp, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của bộ đội.

Hoạt động VHVN của Quân đội đã góp phần tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực xây dựng môi trường văn hóa quân sự phong phú, lành mạnh, ngăn chặn, loại trừ các loại hình văn hóa xấu độc thẩm thấu vào đời sống của bộ đội. Đồng thời, tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình", "phi chính trị hóa" Quân đội, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của các thế lực thù địch, góp phần tô thắm, phát huy hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ", tăng cường mối đoàn kết quân - dân, tạo điều kiện cho Quân đội luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, so với yêu cầu, hoạt động VHVN trong Quân đội còn bộc lộ một số hạn chế. Nhận thức của một số cấp ủy, chỉ huy về vị trí, vai trò của hoạt động VHVN chưa ngang tầm; thậm chí có nơi còn xem nhẹ, thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư đúng mức. Việc đầu tư sáng tác ở một số loại hình VHVN còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa có nhiều những tác phẩm VHVN chất lượng cao, chưa đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa - tinh thần ngày càng cao của bộ đội. Một số văn nghệ sĩ chưa thực sự hòa nhập với thực tiễn hoạt động phong phú, sinh động của bộ đội ở cơ sở, nhiệm vụ mới, nơi khó khăn gian khổ. Tính chiến đấu, tính phê bình trong hoạt động lý luận, phê bình VHVN, đấu tranh, phòng, chống quan điểm, khuynh hướng sai lầm, lệch lạc, thù địch còn thiếu nhạy bén, hiệu quả chưa cao,v.v.

Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao và toàn diện. Quân đội không chỉ được trang bị vũ khí ngày càng hiện đại, luôn giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng của Đảng và có trình độ tác chiến cao, mà còn phải là lực lượng có sức mạnh từ trong sâu thẳm cội nguồn văn hóa dân tộc, biết sáng tạo và thưởng thức văn hóa, nghệ thuật một cách tinh tế, có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, v.v. Để phát huy vai trò của VHVN trong xây dựng Quân đội về chính trị, thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục tuyên truyền, quán triệt về vị trí, ý nghĩa của công tác VHVN trong Quân đội. Mục đích xuyên suốt của việc làm này là nhằm thống nhất nhận thức và hành động đối với công tác VHVN. Quá trình thực hiện, phải thường xuyên, liên tục với nhiều nội dung, giải pháp phù hợp, hiệu quả. Bên cạnh công tác giáo dục chính trị, các đơn vị cần tăng cường quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước về phát triển văn hóa, con người Việt Nam và chỉ đạo của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là đối với cán bộ chủ trì các cấp. Chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tuyên truyền, giáo dục; trong đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề, chủ đề, phù hợp với từng đối tượng; phát huy vai trò của các lực lượng, phương tiện thông tin truyền thông và thiết chế văn hóa. Việc tuyên truyền, giáo dục cần gắn với quán triệt Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục "đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ".

Công tác tuyên truyền phải hướng tới làm cho các cơ quan, đơn vị trong Quân đội thấu triệt quan điểm: "Phát triển sự nghiệp VHVN, chăm lo bồi dưỡng và tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội VHVN" của Đảng; thấy rõ VHVN là một mặt không thể thiếu trong đời sống tinh thần của bộ đội. Đồng thời, nhận thức rõ việc chăm lo hoạt động VHVN là trách nhiệm của mọi tổ chức, đoàn thể, trước hết là cấp ủy, chỉ huy, đội ngũ chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp, những người trực tiếp hoạt động trên lĩnh vực VHVN. Trên cơ sở đó, nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đảm bảo hoạt động VHVN trong Quân đội phát triển đúng hướng, hiệu quả và khơi dậy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có ngày càng nhiều tác phẩm hay, tính nghệ thuật cao, phản ánh, quảng bá, động viên, khích lệ kịp thời tinh thần của bộ đội trong huấn luyện, công tác, sẵn sàng chiến đấu. Đồng thời, góp phần đấu tranh với sự "xâm lăng văn hóa", khuynh hướng lai căng, thương mại hóa,… trong hoạt động VHVN của Quân đội.

Hai là, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp đối với công tác VHVN. Các cấp ủy cần xác định rõ công tác VHVN là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên trong các hoạt động lãnh đạo của cấp mình. Chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp có trách nhiệm đưa nhiệm vụ này vào kế hoạch hoạt động chung của đơn vị và chịu trách nhiệm trước cấp ủy về mọi hoạt động thuộc lĩnh vực VHVN của đơn vị. Cơ quan chính trị phát huy tốt vai trò tham mưu, giúp cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy tổ chức, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra,… đơn vị triển khai thực hiện tốt nội dung này. Trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện, cần phân công cán bộ có trình độ, kinh nghiệm tổ chức hoạt động VHVN giúp cấp ủy trực tiếp chỉ đạo sâu sát, có cách làm hay phù hợp với thực tiễn đơn vị. Các đơn vị hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp cần xây dựng và thực hiện tốt Quy chế hoạt động VHVN; có cơ chế để các hoạt động lý luận, phê bình, tổng kết diễn ra đúng hướng, có hiệu quả.

Đồng thời, thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình hoạt động chuyên môn của đơn vị để có biện pháp chỉ đạo rút kinh nghiệm kịp thời, sâu sắc, thiết thực nâng cao giá trị tư tưởng, nghệ thuật của các tác phẩm, phù hợp với trình độ thưởng thức của bộ đội. Do đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao tầm trí tuệ, tính triết lý, tính thực tiễn và tính giáo dục sâu sắc của các hoạt động VHVN của đơn vị mình. Đặc biệt, các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp cần đầu tư thời gian, trí tuệ, công sức để mỗi tác phẩm nghệ thuật khi đã ra mắt độc giả, khán giả, đều đạt được sự thành công về nội dung và giá trị nghệ thuật, đi vào sâu thẳm tâm hồn của bộ đội và Nhân dân.

Ba là, xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu hoạt động VHVN trong Quân đội. Đội ngũ văn nghệ sĩ là những người trực tiếp sáng tạo, quyết định đến chất lượng, sức sống của tác phẩm VHVN về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. Trên thực tế, cũng không ít người quan niệm rằng, hoạt động trên lĩnh vực này là "nhàn nhã". Đó là quan niệm không đúng! Trái lại, hoạt động VHVN là một loại hình lao động đặc biệt, không kém phần vất vả, cực nhọc; không thể sử dụng những người không có năng khiếu, tố chất, sở trường và thiếu sự đào tạo bài bản, kỹ lưỡng về lĩnh vực chuyên môn. Do đó, việc phát hiện, quy hoạch, tạo nguồn nhân lực VHVN, bảo đảm tuyển chọn đúng người vào các cơ quan, đơn vị, nhất là các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp có ý nghĩa đặc biệt. Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần chú trọng việc xây dựng nguồn nhân lực, phát hiện, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và các tài năng trên lĩnh vực VHVN một cách toàn diện cả về tri thức, kỹ năng chuyên môn, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, v.v. Đồng thời, quan tâm nghiên cứu, xây dựng chế độ, chính sách thu hút tài năng; khuyến kích, động viên các văn nghệ sĩ gắn bó với nghề, sâu sát đời sống và hoạt động thực tiễn của bộ đội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; nêu cao tinh thần tự rèn luyện, tu dưỡng, sáng tạo ra những tác phẩm VHVN có tính tư tưởng, nghệ thuật cao, phản ánh sâu sắc, sinh động về đề tài lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng, tô thắm hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" thông qua sự cảm nhận cuộc sống và năng lực đặc biệt của mình.

Bốn là, xây dựng Trường Đại học Văn hóa nghệ thuật Quân đội xứng đáng là trung tâm đào tạo nghệ thuật cho Quân đội và cả nước. Xuất phát từ đặc thù của một nhà trường Quân đội nhưng lĩnh vực đào tạo lại mang tính chất xã hội rộng rãi, Nhà trường nhất thiết phải quan tâm đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và tổ chức phương pháp dạy học bảo đảm sát đối tượng, hòa nhập với hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng "chuẩn hóa, hiện đại hóa". Bám sát phương châm "dạy cái Quân đội, xã hội cần chứ không dạy cái mình biết", và yêu cầu bảo đảm định hướng chính trị, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Tổng cục Chính trị, Nhà trường cần có cơ chế phù hợp huy động, thu hút các nhà khoa học, nhà giáo đầu ngành về văn hóa, nghệ thuật cả trong và ngoài Quân đội tham gia cùng đội ngũ giảng viên xây dựng chương trình khung, biên soạn giáo trình, giáo án cho từng chuyên ngành, bậc học, bảo đảm tính hợp lý, cân đối, liên thông trong đào tạo. Hơn nữa, Nhà trường cần tăng cường và tạo mọi điều kiện cho các văn nghệ sĩ trong quân đội đi đào tạo, bồi dưỡng tập huấn, biểu diễn trong và ngoài nước. Cùng với đó, Nhà trường tích cực, chủ động, sáng tạo trong hợp tác chặt chẽ với các cơ sở đào tạo văn hóa, nghệ thuật trong nước và ngoài nước, nhất là các nước có nền nghệ thuật phát triển để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Năm là, quan tâm đầu tư nguồn lực cho hoạt động VHVN trong Quân đội. Hồ Chí Minh cho rằng: "Có thực mới vực được đạo". Điều đó đúng với mọi ngành, lĩnh vực, đặc biệt đối với VHVN là lĩnh vực hoạt động có tính đặc thù cao. Nếu VHVN không được đầu tư đúng mức thì sẽ khó có thể phát triển, hoạt động không hiệu quả. Trên thực tế, hệ thống thiết chế văn hóa của Quân đội vẫn còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp với sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ; không ít đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, cơ sở đào tạo thuộc lĩnh vực VHVN có trang bị, phương tiện chưa tương xứng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của lĩnh vực này. Vì vậy, đầu tư, quản lý, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, phương tiện cho hoạt động VHVN một cách phù hợp, có chiều sâu và vững chắc là việc làm rất cần thiết hiện nay.

VHVN là một mặt trận, nếu được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả sẽ thiết thực nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần của bộ đội, xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC LUÔN BẢO VỆ CHO CÁC GIÁO DÂN SỐNG TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO!

         Từ khi được thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo đời sống của nhân dân. Các giáo dân sinh sống trên lãnh thổ của đất nước Việt Nam là những công dân Việt Nam sống bình đẳng, phát triển dựa trên Hiến pháp và Pháp luật. Thời gian qua, đời sống của nhân dân các giáo dân luôn được bảo đảm phát triển cả về đời sống vật chất cũng như hoạt động tín ngưỡng của mình. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã lợi dụng việc xử lý những hoạt động tôn giáo trái phép, không đăng ký để đưa ra luận điều cho rằng, Việt Nam đàn áp, vi phạm tự do tôn giáo các các giáo dân làm ảnh hưởng đến đời sống tốt đời đẹp đạo của các giáo dân sinh sống và hoạt động trên đất nước Việt Nam. Những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch chỉ là những con sâu nhỏ không thể phủ nhận những chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta trải qua các thời kỳ lịch sử và những thành tựu giúp các giáo dân luôn sống tốt đời, đẹp đạo.
Để thấy rõ hơn về những chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, chúng ta có thể nhận thấy, thời gian qua, trên từng giai đoạn cách mạng. Đảng ta đã luôn lãnh đạo các tổ chức, thực hiện chính sách tôn giáo phù hợp giúp cho các giáo dân luôn có điều kiện phát triển kinh tế và hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Kết quả cho thấy, các tôn giáo cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam là một phần nhân dân Việt Nam luôn đoàn kết chung tay xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. 
Trở lại những ngày đầu được thành lập, ngày 14/6/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234/SL quy định trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo của người dân và trách nhiệm, nghĩa vụ của các chức sắc tôn giáo, tín đồ trong quá trình hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Kết quả thực hiện sắc lệnh đã thu hút sự ủng hộ của các tín đồ các tôn giáo tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong sắc lệnh đã nêu rõ: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý, v.v... Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà…”. Hiến pháp 1946 và sửa đổi năm 2013 cũng đã thể hiện quan điểm nhất quán về chính sách tôn giáo và khẳng định: “tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng với dân tộc”. Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo, đã ghi rõ “Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta cũng đã khẳng định: Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, trong lãnh đạo cách mạng, Việt Nam luôn có chủ trương, chính sách quan tâm đến tự do tín ngưỡng của các tôn giáo sinh sống và hoạt động trên đất nước Việt Nam. 
Thời gian qua, cùng với sự phát triển của đất nước, để tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động tín ngưỡng của mình theo đúng Pháp luật. Đến nay, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với khoảng 27 triệu tín đồ, trên 53 nghìn chức sắc, khoảng 135 nghìn chức việc; trên 29 nghìn cơ sở thờ tự, chiếm gần 30% dân số cả nước. Chính quyền các cấp đã cấp phép xây dựng, sửa chữa, cải tạo cho 152 cơ sở thờ tự tôn giáo. Có 183 điểm nhóm được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung; 646 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 3.238 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; 424 chức việc các tôn giáo được thuyên chuyển… Như vậy, việc đăng ký, cấp phép hoạt động cho các tổ chức tôn giáo về thực chất là để đảm bảo cho các giáo dân sống và sinh hoạt theo đúng Pháp luật và đảm bảo cho mọi người luôn bình đẳng góp sức vào xây dựng và phát triển đất nước. Các giáo dân là những công dân Việt Nam và đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ tham gia vào công cuộc phát triển đất nước. Do đó, mọi người, mọi tổ chức khi hoạt động đều phải đảm bảo những điều kiện đúng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước./.
Yêu nước ST.

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

Phát triển văn hóa Việt Nam trong toàn cầu hóa

 Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, toàn cầu hóa diễn ra từng ngày, từng giờ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Sự giao lưu quốc tế rộng rãi trên cơ sở của phát triển kinh tế toàn cầu cũng có những tác động không nhỏ tới lĩnh vực văn hóa. Cùng với việc phục hồi, phát huy các giá trị văn hoá; nền văn hoá Việt Nam có điều kiện tiếp thu các giá trị mới của nền văn hoá thế giới và ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, cùng với những tác động tích cực, toàn cầu hoá cũng gây ra những hệ quả tiêu cực đối với nền văn hoá Việt Nam như: một số giá trị văn hoá truyền thống không được bảo tồn, gìn giữ; một số người thay đổi nhanh chóng lối sống, tha hoá đạo đức,…

Văn hóa và vai trò của văn hóa đối với tiến trình cách mạng Việt Nam

 Ngay từ khi ra đời lãnh đạo cách mạng, theo tiến trình của lịch sử, Đảng ta đã quan tâm đến văn hóa, phát triển văn hóa và không ngừng đổi mới tư duy lý luận về văn hóa. Trên thực tế, qua từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta đã có sự phát triển nhiều mặt; Đó là cơ sở, yếu tố quyết định làm cho nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.

Để có được kết quả đó là do Đảng ta đã từng bước nhận thức và và ngày càng hoàn thiện tư duy lý luận về văn hóa, làm cho văn hóa thực sự trở thành động lực quan trọng của cách mạng. Cuối tháng 2-1943, Đảng ta đã ban hành “Đề cương văn hóa Việt Nam” nhằm gây dựng một phong trào văn hóa tiến bộ, chống lại văn hóa phát xít phi nhân văn, phản động. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học - kỹ thuật, cách mạng về tư tưởng và văn hóa”

 

Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

 Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin là thỏa mãn nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Nhận thức và giải quyết tốt vấn đề văn hóa góp phần nâng cao trình độ văn hóa, trình độ giác ngộ cách mạng, ý thức đạo đức xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để phát triển toàn diện con người. Đó là sức mạnh cần thiết để giai cấp công nhân và đông đảo các tang lớp nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Sự phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, là nhân tố quan trọng để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Đó còn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ, đáp ứng yếu cầu đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của xã hội

 Nhằm giải phóng nhân dân thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức lạc hậu của xã hội cũ, xóa bỏ những thói hư, tật xấu, cái thấp hèn, tình trạng áp bức, bất bình đẳng để đưa quần chúng nhân dân trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tinh thần. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa, tạo điều kiện để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của nhân dân. Song không phải ngay một lúc nhân dân lao động có thể vươn lên trình độ làm chủ hoàn chỉnh mà mà đó là một quá trình nhận thức, cải biến và xây dựng nền một văn hóa mới.

Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa còn nhằm xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, một lối sống cao đẹp, tạo điều kiện cho các nhân tố xã hội mới phát triển, đây là vấn đề cơ bản, cốt yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, nếu không xây dựng được hệ tư tưởng đó trong toàn xã hội thì không thể nâng cao văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân. Nhất là đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế phát triển thấp thậm chí nghèo nàn, lạc hậu như nước ta không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì những ảnh hưởng tàn dư của xã hội cũ càng phức tạp, nặng nề hơn. Trong điều kiện cách mạng nước ta hiện nay, nhận thức, phát triển tư duy lý luận về văn hóa của Đảng là nội dung quan trọng góp phần giữ vững ổn định chính trị, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tính toàn diện và triệt để của cách mạng xã hội chủ nghĩa định hướng tư tưởng văn hóa

 Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa nghĩa Mác – Lênin, đây là cuộc cách mạng xã hội diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống  xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi tận gốc rễ từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất: từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng xã hội; từ đời sống chung của toàn xã hội đến cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân... nhằm thay đổi cả phương thức sản xuất và hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng phương thức sản xuất và hình thái kinh tế xã hội mới - ưu việt hơn, tiến bộ hơn. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và đội tiền phong là đảng cộng sản phải không ngường nhận thức, cải biến về tư tưởng văn hóa nhằm tạo ra sự ngày càng phù hợp với phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm “Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác, Ph.Ăngghen đã viết: “Lịch sử tư tưởng chứng minh gì, nếu không phải là chứng minh rằng sự sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sự sản xuất vật chất”. Xuất phát từ vai trò của vấn đề tư tưởng, văn hóa đối với sự hình thành, phát triển, giữ vững hệ tư tưởng nền tảng chi phối sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội, đó là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. C.Mác, Ph.Ăngghen từng khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”. Đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa còn là một mặt trận trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lĩnh vực văn hóa thực sự là một lĩnh vực diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và là một nội dung quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Định hướng giá trị của nền văn hóa Việt Nam

Nghị quyết số 33 NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9, khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác định định hướng giá trị của nền văn hóa Việt Nam là: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Bốn giá trị mà Đảng ta đã nhấn mạnh trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa là “dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Đây là bốn giá trị có ý nghĩa khái quát, vừa phản ánh được mối quan hệ biện chứng giữa cái dân tộc và cái quốc tế, cái riêng và cái chung, cái phổ biến và cái đặc thù, vừa kế thừa và phát huy được giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu được tinh hoa văn hóa của thời đại trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Khẳng định sự nhất quán trong quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Namvề tín ngưỡng, tôn giáo

1) Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta không bao giờ xa rời quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân;

2) Luôn khẳng định đồng bào tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và thường xuyên quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo;

3) Xây dựng, củng cố, tăng cường đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo, giữa đồng bào có đạo với nhau, đồng thời luôn cảnh giác và nghiêm trị những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của cách mạng.