Thứ Tư, 30 tháng 6, 2021

Hoàn cảnh lịch sử ra đời Ki - tô giáo

 


Vào khoảng thế kỷ V-TCN, nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã được thành lập ở phía Bắc bán đảo I-ta-li-a. Sau khi thành lập, chỉ trong vài thế kỷ, La Mã từ một quốc gia chiếm hữu nô lệ nhỏ hẹp trở thành một đế quốc rộng lớn trải dài từ Tây sang Đông bao gồm bán đảo I-ta-li-a và các nước vùng Địa Trung Hải.

Đế chế La Mã được thiết lập bằng chiến tranh và dựa chủ yếu vào sức lao động của nô lệ. Với phương châm “cạo lông chứ không lột da”, giai cấp quí tộc, chủ nô La Mã đã tăng cường ách áp bức và sự bóc lột tàn nhẫn đối với nô lệ bán đảo I-ta-li-a và các dân tộc bị chinh phục. Do vậy, trong xã hội đã chứa chất mâu thuẫn gay gắt và rạn nứt. Mâu thuẫn cơ bản nhất, sâu sắc và quyết liệt nhất là giữa nô lệ và chủ nô, giữa các dân tộc bị chinh phục với kẻ xâm lược. Các mâu thuẫn này ngày càng sâu sắc đã phát triển thành các cuộc khởi nghĩa vũ trang mang tính quần chúng rộng rãi chống lại giai cấp chủ nô và quân xâm lược.

Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa rộng lớn của nô lệ do Spác-ta-quýt lãnh đạo nổ ra vào năm 74 -TCN làm rung chuyển đến tận nền móng, đánh dấu sự suy tàn của đế quốc La Mã. Tuy nhiên, đế quốc La Mã lúc đó còn khá mạnh nên đã nhanh chóng dìm các cuộc khởi nghĩa trong biển máu.

Hàng ngàn, hàng vạn nghĩa quân bị tù đày hoặc hành hình trên các giá câu rút. Quần chúng lao khổ càng bị bóc lột, càng bị đàn áp dã man lại càng cảm thấy bất lực và tuyệt vọng trước cuộc sống thực tại. Họ luôn trông chờ vào sự giúp đỡ của lực lượng siêu nhiên, một vị thần hay một Đấng Cứu thế để có thể đánh đổ đế quốc La Mã, giải phóng dân tộc, xây dựng một vương quốc của sự công bằng. Ki-tô giáo đã ra đời trong hoàn cảnh chính trị xã hội như vậy. Nhà sử học người Pháp Sác-lơ Eng-sen thật có lý khi nói rằng: “Chúa Ki-tô đã thắng vì Spác-ta-quýt đã thất bại. Đấng phán xử của thiên quốc vào ngày tận thế đã thay thế cho Đấng phán xử là người trần thế”.

Như vậy có thể nói, Ki-tô giáo vừa là sản phẩm tinh thần của quần chúng trước tình trạng bi đát và thất vọng trong cuộc sống, vừa là phản ứng của họ trước chính sách áp bức bóc lột của đế quốc La Mã.

Phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam là điểm sáng trong quá trình đổi mới

 


        - Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong  từng chính sách và từng bước phát triển.

 - Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời sống văn hóa, con người Việt Nam.

       - Phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với  khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu.

      - Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFT) vào tăng trưởng.

       - Quan tâm thực hiện các chính sác xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường; nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến 1,6 triệu việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước gỉảm 1,5-3%/ năm. Giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao.

       Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp..

Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam hiện nay

 


Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam mặc dù có lúc thăng, lúc trầm nhưng có sức sống bền bỉ và từ lâu đã trở thành một nét đẹp truyền thống trong đời sống cộng đồng của các dân tộc Việt Nam.

- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đang có dấu hiệu phục hồi và phát triển mạnh mẽ.

Bởi lẽ, tkhi đổi mới đến nay, cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện nâng cao, nhu cầu tìm về nguồn cội và nhu cầu tâm linh cũng đồng thời được quan tâm chú ý hơn.

 + Thờ cúng tổ tiên ở cấp độ gia đình - dòng họ được chú trọng, hầu hết các gia đình người Việt Nam đều thờ cúng tổ tiên không kể trưởng thứ, con trai con gái, tôn giáo, thành phần dân tộc. Các dòng họ đua nhau tu bổ, sửa chữa hoặc xây mới nhà thờ, từ đường, các nghi lễ tế tổ được phục hồi, việc họ cũng được khôi phục.

+ Ở cấp độ làng xã, hoạt động thờ cúng tổ tiên cũng diễn ra hết sức sôi động mỗi khi Tết đến xuân về. Nhiều ngôi đình thờ Thành hoàng cũng đã được phục dựng lại hoặc được trùng tu, sửa chữa khang trang hơn. Hàng nghìn lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng được tổ chức ở khắp nơi.

+ Ở cấp độ quốc gia, lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương hiện nay cũng thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong cả nước. Ước tính, mỗi năm vào dịp Giỗ Tổ (10-3 Âm lịch) có tới trên 3 triệu người hành hương trẩy hội Đền Hùng (Phú Thọ). Đó là chưa kể hàng triệu người dân đến thờ cúng Quốc tổ ở các đền thờ Vua Hùng trên cả nước.

- Mặc dù, có những biến đổi do sự tác động bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, song về cơ bản vẫn giữ được bản chất và giá trị của nó trong đời sống xã hội.

Tiếp tục triển khai hiệu quả và bền vững các chương trình, mục tiêu quốc gia về kinh tế và an sinh xã hội trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.

 


Sự tác động cùa kinh tế trong thời kỳ hội nhập tới gia đình là rất lớn. Trong điều kiện Việt Nam còn nhiều khó khăn, khi các thành viên trong gỉa đình còn dành nhiều thời gian cho hoạt động kinh tế thì sự chăm lo dành cho các thành viên trong gia đình và ngay chính bản thân chưa kịp thởí và đầy đủ, cơ hội tham gia các hoạt động xã hội không nhiều. Do vậy, công tác xóa đói, giảm nghèo là một tiền đề cơ bản giúp gia đình ổn định và phát triền. Việc nâng cao năng lực củã gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khùng hoảng kính tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với các hộ gia đinh chính sách, hộ nghèo và cận nghèo là công tác thường xuyên và cần được đầy mạnh, cần đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện xóa đói, giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ nội lực và kểt hợp sử đụng có hiệu quả sự trợ giúp cùa quốc tế. Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức đề người nghèo, hộ nghèo, vùng đặc biệt khỏ khăn tự vươn lên thoát nghèo bển vững; kết hợp các chính sách của Nhà nước với sự trợ giúp có hiệu quả của toàn xã hội. Tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thề trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mởi, tạo điều kiện hồ trợ các gia đình, đặc biệt là các gia đinh đồng bào dân tộc thiều số vùng sâu, vùng xa phát triền kinh tế, cài thiện đời sống nhân dân.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng và chính quyền; phát huy vai trò của các tổ chức hội đối với công tác gia đình.

 

       -Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với công tác gia đình. Nhà nước có vai trò rất lớn đối với gia đình.

        Thể chế chính trị và thiết chế xã hội là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho gia đình ổn định và phát triển. Vì vậy, Nhà nước cần xây dựng và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, của các tổ chức chính trị- xã hội (Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên…), đoàn thể, huy động toàn dân vào việc chăm lo xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Các cấp uỷ đảng và chính quyền và các tổ chức hội cần xác định công tác gia đình là một nội dung quan trọng trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế- xã hội hàng năm 5 năm và dài hạn của từng địa phương.

     -Thường xuyên chủ động rà soát, đánh giá tình hình gia đình tại địa phương, từ đó xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn, thách thức về gia đình và công tác gia đình.

      -Xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình, nhất là trong vùng đồng bào  các DTTS, vùng sâu, vùng xa và vùng đặc biệt khó khăn.

       -Đồng thời, tăng cường phòng, chống các tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình; đấu tranh chống lối sống suy đồi, thực dụng, vị kỳ; tăng cuờng  công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

       - Kiện toàn, bồi dưỡng đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình các cấp vững mạnh. Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác dân số, gia đình và trẻ em các cẩp. Chính quyền các cấp cần quy hoạch đủ cán bộ, đào tạo, hỗ trợ cán bộ có năng lực phụ trách công tác gìa đình. Mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong việc tổ chức xây dựng gia đình mình trở  thành gia đình văn hóa.

- Nâng cao hiệu quả quàn lý nhà nưởc về công tác gia đình, Xây dựng chính sách, phảp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác gia đình. Đầu tư các nguồn lực cho cơ sờ, tạo điều kiện cho gia đình có đủ năng lực thực hiện các chức năng cơ bàn của mình.

        - Gia đình có nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc thực hiện nghiêm lúc các chủ trương, chính sách, luật pháp, quy định của Đảng và Nhà1 nước, phát huy nghĩa vụ vả trách nhiệm đối vởi cộng đồng, xây dựng  tình làng,  nghĩa xóm, đoàn kết gắn bó cộng đồng.

      - Cán bộ, đảng viên đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ hai con; chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đỉnh hạnh phúc, tạo sức lan    tỏa sâu rộng trong toàn xã hội   

      

 

 

Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở Việt Nam hiện nay

 


Theo quy định tại Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc, bộ máy quản lý nhà nước về công tác dân tộc được tổ chức như sau:

- Chính phủ: thống nhất quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong việc ban hành và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về lĩnh vực dân tộc.

- Bộ và cơ quan ngang bộ:

- Ủy ban Dân tộc: có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong phạm vi cả nước.

- Ủy ban nhân dân các cấp: thực hiện quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở địa phương theo quy định của pháp luật.

- Cơ quan công tác dân tộc được tổ chức từ Trung ương, tỉnh và cấp huyện thuộc vùng đồng bào dân tộc thiếu số hoạt động thống nhất theo sự chỉ đạo của Ủy ban Dân tộc. Hiện nay, cấp tỉnh có Ban dân tộc ở 52 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cấp huyện có Phòng dân tộc (đối với huyện có đông DTTS - trên 5000 người) trực thuộc UBND.

Tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay

 


- Từ năm 1990 đến nay Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện bắt nguồn từ sự đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo và công tác tôn giáo, sự phát triển kinh tế - xã hội từ kết quả của công cuộc công nghiệp hóa và hiên đại hóa đất nước, sự nỗ lực phấn đấu tự thân,

 - Từ năm 2003 đến năm 2013 (trong vòng 10 năm): Chức sắc Phật giáo tăng khoảng 10000 người, chức việc tăng khoảng 26000 người, tín đồ tăng gần 5 triệu người, cơ sở thờ tự tăng gần 4500 cơ sở.

- Giáo hội Phật giáo Việt Nam rất quan tâm đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành: 4 Học viện Phật giáo đặt tại Hà Nội, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố cần Thơ. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam các cấp đang được mở rộng theo hướng rút ngắn thời gian chiêu sinh, tăng số lượng và mở rộng loại hình đào tạo; chú trọng cử người đi đào tạo ở nước ngoài như Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Myanmar, Thái Lan, v.v…

- Phật giáo đang rất chú trọng truyền giáo vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Tây Bắc. Công việc này đã đạt được những thành quá rất đáng kể. Chẳng hạn, chỉ trong hai lần Quy y tập thể vào năm 2007 và năm 2009, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kon Tum đã thu nhận khoảng 4000 tín đồ người dân tộc thiểu số.

- Công tác từ thiện xã hội được giới Phật giáo Việt Nam tích cực, chủ động thực hiện và có những kêt quả rất đáng khích lệ.

- Mối quan hệ quốc tế của Phật giáo Việt Nam trong những năm gần đây được tăng cường và mở rộng chủ yếu với tổ chức Phật giáo các nước châu Á; các tổ chức Phật giáo quốc tế như: Hội Liên hữu Phật giáo Thế giới, Hội Phật giáo châu Á vì hòa bình, v.v... góp phần quan trọng nâng cao vị thế của Phật giáo Việt Nam trên trường Phật giáo thế giới, giúp cộng đồng thế giới hiểu biết rõ ràng hơn và đầy đủ hơn về thực trạng đời sống tôn giáo và chính sách tôn giáo của nước ta.

Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng sâu sắc hơn

 


  Bám sát tình hình thực tiễn thế giới và trong nước, từng bước tổng kết thực tiễn khái quát lý luận, khắc phục những quan điểm ấu trĩ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí và bảo thủ, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Nhân dân ta đã nâng cao nhận thức lý luận về CNXH, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó tiêu biểu là 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương phướng, 8 mối quan hệ phải giải quyết trong công cuộc xây dựng CNXH. Có thể coi đó là đường lối chung để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

+ 8 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; cón nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới”.

+ 8 phương hướng cơ bản xây dựng CNXH

+ 8 mối quan hệ lớn cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt.

       Xây dựng và  phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

          Đảng ta đã quyết định từ bỏ mô hình tập trung bao cấp, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.

Từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông  nghiệp, dịch vụ, coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới.

 Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời, tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.


Đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam

 


Thờ cúng tổ tiên vói ý nghĩa là thờ cúng những người đồng tộc đã chết rất phổ biến trên thế giới, song việc xem những người có công lớn lao với làng xã, quốc gia là tổ tiên chung của cộng đồng và thờ cúng họ như những người có công sinh dưỡng mình thì chỉ có ở Việt Nam. Đặc trưng này được quy định bởi những điều kiện hoàn cảnh tự nhiên và lịch sử cụ thể của đất nưóc. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt được biểu hiện qua hệ thống 3 cấp độ:

- Ở cấp độ gia đình - dòng họ, người Việt thường thờ cúng những vị tổ tiên từ 5 đời trở xuống tại bàn thờ gia tiên. Những vị tổ tiên từ 5 đòi trở lên hòa vào các bậc tổ tiên nói chung, được thờ tự chung trong nhà thờ chi họ hoặc nhà thờ dòng họ. Việc thờ cúng tổ tiên ở cấp độ gia đình - dòng họ được tiến hành thường xuyên vào ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng, vào ngày mất của một vị tổ tiên nào đó, vào các ngày lễ, Tết trong năm, cũng có khi tiến hành vào ngày diễn ra một sự kiện bất thường trong gia đình như cưới hỏi, mừng thọ, chuyển đến nơi ở mới, tang ma, V.V..

- Ở cấp độ làng xã, người Việt thờ những ông tổ nghề, người có công khai phá vùng đất mới, dựng làng, lập ấp, đánh giặc cứu dân, v.v.. được dân làng tôn vinh, thờ phụng là Thành hoàng. Thành hoàng thường không có quan hệ huyết thống với đa số chủ thể thờ cúng, song được xem là người khai sinh ra làng, được thờ cúng như vị thủy tổ của dân làng vào các ngày mùng một, ngày rằm hàng tháng, các ngày lễ, Tết trong năm, đặc biệt là vào ngày mất của vịThành hoàng đó.

- Ở cấp độ quốc gia, Vua Hùng được thờ cúng như là tổ tiên chung của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trên thế giới không hiếm trường hợp thờ cúng vua, hoàng đế sau khi họ băng hà. Xuất phát từ “sự củng cố liên minh bộ lạc và vói sự hình thành các nhà nước nguyên thủy, người ta cũng đã hình thành và phát triển hình thức tín ngưỡng của bộ lạc và tín ngưỡng nhà nước thờ tổ tiên - thánh thần hóa tổ tiên của thủ lĩnh các quốc vương[1]. Tuy nhiên, việc thờ cúng thủ lĩnh, hoàng đế thường do những người đứng đầu bộ lạc nguyên thủy hay người đứng đầu triều đình phong kiến và hoàng tộc thực hiện. Còn với các Vua Hùng, nghi lễ thờ cúng do toàn thể quốc dân đồng bào thực hiện với niềm tin Vua Hùng là Quốc tổ, là tổ tiên chung của tất cả các dân tộc Việt Nam. Hiện nay, Quốc tổ Hùng Vương được thờ cúng chính ở Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và 1.417 đền thờ Hùng Vương ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước.



[1] Ngọc Ánh: Các hình thức thờ phụng của bộ lạc, Nxb.Văn hóa dân tộc, H.2002, tr.128.

Đẩy mạnh công tác truyền thông luật pháp, chính sách nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về xây dựng gia đình Việt Nam

 


       - Để gia đình thực sự là một tế bào lành mạnh của xã hội, tổ ấm của các cá nhân, nhất thiết phải coi trọng công tác xây dựng gia đình. Công tác này bắt đầu từ việc truyền thông nâng cao nhận thức của từng người dân và các gia đình về vị trí, vai trò của gia đình và tầm quan trọng của xây dựng gia đình văn hoá.

       - Cần đổi mới nội dung đa dạng hoá các hình thức truyền thông và xây dựng gia đình, phòng chống bạo lực gia đình. Chú trọng hình thức truyền thông bằng các thông điệp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trú trọng đối tượng tuyên truyền là nam giới.

       - Bên cạnh đó, tích cực đẩy mạnh tuyên truyền nêu gương người tốt, việc tốt; phê phán những biểu hiện không đúng trong việc xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; phê phán những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, cảnh báo các nguy cơ và hậu quả về mất cân bằng giới tính khi sinh. Đồng thời cung cấp cho người dân và các gia đình về chủ trương, chính sách, pháp luật, kỹ năng sống liên quan đến gia đình; trách nhiệm của nam giới đối với công việc trong gia đình, đối với việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong gia đình; thực hiện tốt chính sách pháp luật về dân số gắn với xây dựnggia đình hạnh phúc; đè cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chính sách dân số, xây dựng gia đình văn hoá, hạnh phúc.

      - Lồng gép kiến thức xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; phòng chống bạo lực gia đình vào các chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với yêu cầu của từng ngành học, cấp học.

Phương pháp quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở Việt Nam

 


Chỉ huy, điều hành, điều chỉnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội có liên quan đến phát triển vùng đồng bào DTTS, thường áp dụng tổng hợp ba nhóm phương pháp quản lý sau:

- Nhóm phương pháp quản lý hành chính là các phương pháp tác động dựa vào các mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý.

- Nhóm phương pháp quản lý kinh tế là các phương pháp cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế.

 - Nhóm phương pháp quản lý tâm lý - xã hội là cách thức mà cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc tác động vào nhận thức và tình cảm của đối tượng quản lý nhằm nâng cao tính tự giác và nhiệt tình của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ.

Quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam

 


Phật giáo truyền vào nước ta từ rất sớm, vào khoảng đầu Công nguyên, trực tiếp từ Án Độ qua đường biển, trong khi ở miền Nam Trung Quốc chưa biết đến Phật giáo thì ở Luy Lâu - trị sở của Giao Chỉ (thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã có một trung tâm Phật giáo và Phật học khá phồn thịnh, tương đương với trung tâm Lạc Dương - kinh đô của Đông Hán và Bình Thành - Kinh đô của nước Sở. Lịch sử Phật giáo Việt Nam được chia thành các giai đoạn sau đây:

- Từ đầu Công nguyên đến thế kỷ V: Phật giáo nước ta ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp từ Phật giáo Ấn Độ sang bằng đường biển cùng với các thương nhân. Ở phía Bắc xuất hiện những nhân vật tăng sỹ Phật giáo Ấn Độ xuất chúng, tiêu biểu như Khâu Đà La, Khương Tăng Hội, Ma Ha Kỳ Vực, v.v… Ở phía Nam, Phật giáo từng bước du nhập vào các quốc gia cổ như Phù Nam và Lâm Ấp (sau là Chiêm Thành). Đến thế kỷ V, Phật giáo đã được truyền đến nhiều nơi trên đất nước và đã xuất hiện những nhà sư Việt Nam có danh tiếng như: Huệ Thắng, học trò của Đạt Ma Để Bà, tu tại chùa Tiên Châu, Đạo Thiền, Đạo Cao và Pháp Minh,... Huệ Thắng và Đạo Thiền đã từng được mời sang Trung Quốc thuyết pháp, đóng góp vào quá trình lịch sử phát triển Phật giáo ờ Trung Quốc.

- Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X: giai đoạn này vẫn được xem là giai đoạn truyền giáo. Tuy nhiên, giai đoạn này, ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi các nhà truyền giáo Trung Quốc tăng lên, nhất là các phái thiền Trung Quốc du nhập vào Việt Nam như: Phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi (năm 580);  Năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc đến chùa Kiến Sơ (Chùa Trấn Quốc, Hà Nội ngày nay), lập ra Thiền phái Vô Ngôn Thông.

- Từ thế kỳ XI đến thế kỳ XIV:

+ Từ thế kỷ X, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau một ngàn năm Bắc thuộc, đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển một bước mới. Dưới hai triều đại Đinh - Lê tuy không tuyên bố Phật giáo là quốc đạo nhưng đã công nhận Phật giáo là tôn giáo chính thức của cả nước. Hai triều Đinh - Lê không chỉ trọng dụng các tăng sĩ mà còn hỗ trợ cho Phật giáo phát triển.

+ Triều nhà Lý được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Lý Công uẩn (Lý Thái Tổ) - người sáng lập triều Lý xuất thân từ chốn thiền môn, học trò của Lý Khánh Vân và cùng thụ giới Sa-di với sư Vạn Hạnh, nên ông đã hết lòng ủng hộ Phật giáo.

+ Dưới triều đại nhà Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển đạt tới mức cực thịnh và trở thành tôn giáo chính thống của đất nước.

Trần Nhân Tông (1285-1308) là vua đời thứ tư của nhà Trần, lên ngôi năm 20 tuổi. Ở ngôi được 15 năm, năm 1293, Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Anh Tông, ông lên núi Yên Tử xuất gia tu hành, hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà và trở thành sơ tổ của phái thiền Trủc Lâm Yên Tử

 - Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX: Ở Đàng Ngoài, từ thời Lê Sơn lấy Nho giáo làm chỗ dựa tư tưởng  chính trị và đạo đức nên Phật giáo không còn hưng thịnh. Tuy nhiên, với truyền thống yêu nước gắn bó với dân tộc, Phật giáo trở lại với thôn dã, trở thành hạt nhân của sự đoàn kết dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, do đó vẫn giữ được gốc rễ sâu bển trong nhân dân. Còn ở Đàng Trong, Phật giáo giữ vị trí quan trọng với các Chúa Nguyễn trong việc thu phục nhân tâm và mở mang về phía Nam. Từ thế kỷ XVII (năm 1615) đến thế kỷ XIX (năm 1858), sự truyền nhập của Công giáo và sự xâm lược của thực dân Pháp, cũng như sự mất vai trò điều hành đất nước của các vua cuối thời Nguyễn..., khiến Phật giáo Việt Nam bị suy thoái khá trầm trọng trên phạm vi toàn quốc.

- Từ đầu thế kỷ XX đến nay: Phật giáo chuyển biến căn bản từ truyền thống sang hiện đại. Với phong trào chấn hưng Phật giáo, Phật giáo Việt Nam hiện đại hóa và thế tục hóa một cách sâu rộng.

+ Giai đoạn 1930-1954: Phong trào chấn hưng Phật giáo diễn ra mạnh mẽ trong cả nước với việc thành lập tổ chức giáo hội mới, sự truyền giáo bằng phương tiện hiện đại (báo chí, phát thanh,...).

+ Giai đoạn 1954-1975: Phật giáo miền Bắc tích cực tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng đất nước. Phật giáo miền Nam tiếp tục chấn hưng bất chấp chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Nguỵ  Sài Gòn, với nhiều thành tựu đáng kể đạt được.

Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, tháng 11/1981 diễn ra Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo để thống nhất 9 hệ phái trong cả nước thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một tổ chức hợp pháp duy nhất của giới Phật giáo Việt Nam trong nước và ngoài nước.

Sáng ngời tấm lòng Việt trong hoạn nạn

 Trong “tâm bão” của dịch bệnh Covid-19, các y bác sĩ, chiến sĩ quân đội, công an và tình nguyện viên…không quản ngày đêm túc trực để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của cộng đồng và sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân bằng những hành động, việc làm ý nghĩa, tốt đẹp. Đó là hình ảnh cảm động trước nghĩa cử cao đẹp của cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trong toàn quân sẵn sàng nhường nhà, nhường giường để nhân dân có chỗ ở trong thời gian cách ly theo quy định. Nhiều cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và thanh niên tình nguyện không quản ngày đêm xuất hiện kịp thời túc trực trên các địa bàn thực hiện cách ly, đồng hành sát cánh cùng người dân trong cuộc chiến phòng, chống dịch bệnh Covid-19.

Cùng góp sức, đồng lòng với cả hệ thống chính trị trong đẩy lùi phòng, chống dịch bệnh, mỗi người dân tùy thuộc vào điều kiện của mình đã có những hành động thiết thực chia sẻ giúp đỡ những người còn khó khăn, yếu thế, từ việc mua và phát khẩu trang, dung dịch rửa tay sát khuẩn miễn phí; phát cơm, bánh mì và nước uống miễn phí; tham gia dọn vệ sinh đường phố, khu vực thôn, xóm… cho đến việc giúp đỡ bà con giải cứu nông sản do dịch bệnh mà ách tắc không tiêu thụ được. Những người trở về từ vùng dịch đã tự nguyện cách ly tại nhà, cách ly tập trung để cùng cộng đồng phòng tránh dịch bệnh Covid-19. Bên cạnh đó, rất nhiều nhà hảo tâm, doanh nghiệp, nghệ sĩ… trong cả nước đã chủ động đóng góp, thể hiện tấm lòng sẻ chia, chung sức cùng cộng đồng chống lại đại dịch. Tất cả mọi sự ủng hộ không chỉ bằng vật chất, mà còn mang giá trị tinh thần tăng lên mỗi ngày, mỗi giờ thể hiện sự đồng cam cộng khổ, tương thân tương ái của người dân cả nước trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19.

Những nghĩa cử đẹp trong cộng đồng cả mùa dịch Covid-19 đã cho thấy niềm tin về lòng tốt, sự sẻ chia, là trách nhiệm và ý thức công dân của con người trong xã hội vẫn luôn tỏa sáng đúng lúc và hơn thế chính sự ấm áp những nghĩa cử cao đẹp của tình người đã đưa con người lại gần nhau hơn cho thấy một Việt Nam đoàn kết, sáng ngời tấm lòng sẻ chia. Thật cảm động với dòng chữ “Ai cần cứ đến lấy. Nếu khó khăn, hãy lấy một gói mỗi ngày. Nếu bạn ổn xin nhường cho người khác” đã xuất hiện khắp mọi nơi trong thời gian cả nước phòng, chống dịch Covid-19 làm lay động hàng triệu trái tim Việt hướng về vì sự tử tế, về lòng sẻ chia và trên hết là nghĩa tình đồng bào ruột thịt sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo giúp nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn.

Có thể nói, những hành động nghĩa cử cao đẹp trong khó khăn, hoạn nạn đã sưởi ấm tình người càng thêm ấm áp và lan tỏa luồng năng lượng tích cực. Hành động kịp thời của những người đứng đầu đất nước; sự tham gia chủ động, tích cực, quyết liệt, hiệu quả của ban ngành, chính quyền các cấp cùng sự ủng hộ đồng lòng của nhân dân đã cho thấy sự gắn kết bền chặt nghĩa tình đồng bào ruột thịt trong khó khăn càng đoàn kết, chia sẻ, tương thân tương ái làm sáng ngời tấm lòng Việt trong hoạn nạn./

Chính sách nổi bật có hiệu lực từ ngày 1/7

Cơ quan chức năng không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, sổ tạm trú; mức chuẩn trợ giúp xã hội tăng từ 270.000 lên 360.000 đồng, từ ngày 1/7. Không cấp mới sổ hộ khẩu Luật Cư trú sửa đổi bắt đầu có hiệu lực từ hôm nay. Theo Thông tư 55 của Bộ Công an, khi công dân đăng ký thường trú, điều chỉnh thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú, tách hộ, xóa đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú, gia hạn tạm trú, xóa đăng ký tạm trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi sổ đã cấp. Cơ quan này sẽ điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật Cư trú và không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Như vậy, những người không làm các thủ tục nêu trên thì không bị thu hồi sổ hộ khẩu. Sổ này vẫn được sử dụng bình thường đến hết năm 2022. Để phục vụ quản lý dân cư theo hình thức mới, từ hôm nay hai dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Sản xuất, cấp, quản lý căn cước công dân sẽ bắt đầu vận hành. Đây là 2 dự án công nghệ thông tin lớn nhất từ trước tới nay ở Việt Nam, triển khai từ cơ quan Trung ương đến 63 tỉnh, thành phố; hơn 700 quận, huyện, thị xã, thành phố và gần 11.000 xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Một thay đổi quan trọng trong Luật Cư trú sửa đổi là điều kiện đăng ký thường trú từ nay sẽ giống nhau tại tất cả tỉnh, thành. Trước đó, Luật Cư trú 2006 quy định riêng về điều kiện đăng ký thường trú tại các tỉnh, tại các thành phố trực thuộc trung ương và tại nội thành thủ đô Hà Nội. Trợ cấp mẹ Việt Nam anh hùng bằng 3 lần mức chuẩn Pháp lệnh ưu đãi về người có công có hiệu lực từ ngày 1/7, thay thế cho Pháp lệnh năm 2005, quy định mức trợ cấp hàng tháng với bà mẹ Việt Nam anh hùng bằng ba lần mức chuẩn. Mức chuẩn để xác định trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho người có công với cách mạng là 1.624.000 đồng. Theo quy định trước đó, bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng tiền tuất theo số con liệt sĩ cộng phụ cấp. Nếu mẹ có một con là liệt sĩ được hưởng 1.624.000 đồng cộng với phụ cấp 1.361.000 đồng; mẹ có hai con là liệt sĩ được hưởng tiền tuất 3.248.000 (1.624.000x2) cộng với phụ cấp. Tuy nhiên, Pháp lệnh mới không quy định trợ cấp tuất theo số con liệt sĩ mà các mẹ Việt Nam anh hùng sẽ hưởng mức trợ cấp hàng tháng bằng ba lần mức chuẩn (1.624.000x3 = 4.872.000 đồng) cộng phụ cấp. Như vậy, hàng tháng mỗi mẹ Việt Nam anh hùng sẽ nhận được 6.233.000 đồng. Lãnh đạo Bộ Lao động Thương binh Xã hội cho biết, với việc nâng mức trợ cấp, cùng với phụng dưỡng của xã hội, bà mẹ Việt Nam anh hùng sẽ có cuộc sống tốt hơn mà không phụ thuộc vào số con liệt sĩ. Pháp lệnh giữ nguyên quy định ưu đãi khác dành cho bà mẹ Việt Nam anh hùng như trợ cấp người phục vụ (với mẹ sống ở gia đình); điều dưỡng phục hồi sức khỏe hàng năm... Tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội Theo Nghị định 20, mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 1/7 là 360.000 đồng/tháng, tăng 90.000 đồng so với Nghị định 136/2013. Mức chuẩn trợ giúp xã hội là căn cứ xác định mức trợ cấp xã hội, mức hỗ trợ kinh phí nhận chăm sóc, nuôi dưỡng; mức trợ cấp nuôi dưỡng trong cơ sở trợ giúp xã hội và các mức trợ giúp xã hội khác. Theo đó, trẻ mồ côi dưới 4 tuổi; trẻ nhiễm HIV thuộc hộ nghèo được hưởng trợ cấp 900.000 đồng mỗi tháng (thay cho mức 675.000 đồng). Người từ đủ 60 đến đủ 80 tuổi thuộc hộ nghèo, không có người phụng dưỡng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng một tháng (thay cho mức 405.000 đồng). Người khuyết tật đặc biệt nặng được hưởng trợ cấp 720.000 đồng một tháng (thay cho mức 540.000 đồng). Người khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng mỗi tháng (thay cho mức 405.000 đồng)... Nghị định 20 cũng quy định chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng; trợ giúp xã hội khẩn cấp; chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà ở xã hội. Có 6 hình thức hỗ trợ khẩn cấp, gồm: cấp lương thực và nhu yếu phẩm thiết yếu từ nguồn ngân sách nhà nước; trả chi phí điều trị người bị thương nặng; hỗ trợ chi phí mai táng; hỗ trợ làm nhà ở, sửa chữa nhà ở; hỗ trợ khẩn cấp đối với trẻ em khi cha, mẹ bị chết, mất tích do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh hoặc các lý do bất khả kháng khác; tạo việc làm, phát triển sản xuất. Thêm đối tượng được cấp bảo hiểm y tế miễn phí Nghị định 20 bổ sung nhiều đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, cấp thẻ Bảo hiểm y tế miễn phí. Đối tượng thứ nhất là người thuộc diện hộ cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ; đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết hoặc mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất. Thứ hai, người từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn được cấp Bảo hiểm y tế miễn phí. Thứ ba là trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn; người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng. Phải thông báo kết quả HIV dương tính cho người chung sống như vợ, chồng Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) sửa đổi có hiệu lực từ 1/7. Luật quy định, người nhiễm HIV có nghĩa vụ thông báo kịp thời kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho vợ, chồng, người dự định kết hôn; người chung sống như vợ chồng với mình. Luật bổ sung nhóm được ưu tiên tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, trong đó có người chuyển đổi giới tính; phạm nhân, người bị tạm giam, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường giáo dưỡng, học viên cơ sở cai nghiện ma túy; người dân tộc thiểu số; người sống ở miền núi, vùng sâu, hải đảo, khu vực biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó thăn; người từ đủ 13 tuổi đến dưới 30 tuổi.

Nhận diện âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng nhân quyền để chống phá Việt Nam


        Dân chủ, nhân quyền luôn là một trong những vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hòng đưa nước ta đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng coi đó là một yếu tố quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong. Trong đó, chúng đã tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau:

        Một là, vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, ra sức tuyên truyền, cổ súy cho dân chủ tư sản phương Tây

        Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta; cho rằng chế độ xã hội ở Việt Nam là độc tài, chuyên chính. Chúng lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót của ta trong thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc những vấn đề bức xúc trong nhân dân để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ANCT-TTXH. Chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người theo mô hình của phương Tây; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người; đàn áp “những người bất đồng chính kiến”.v.v..Từ chỗ cho rằng, quyền con người là tuyệt đối, bất biến, các thế lực thù địch đã giải thích nhân quyền là tự do thực hiện quyền mà không bị cấm đoán, không bị giới hạn nhằm cổ xuý hoạt động lợi dụng nhân quyền vi phạm pháp luật nước ta. Các thế lực thù địch còn lợi dụng những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo nhằm thổi phồng, bóp méo tình hình thực tế để xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng kích động quần chúng, tín đồ gây rối ANCT-TTXH, tạo cớ để bên ngoài can thiệp.

        Hai là, dùng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta

        Hoa Kỳ và các nước đồng minh luôn gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các buổi điều trần, họp báo, hội thảo của Quốc hội Mỹ, các nước Châu Âu để gây sức ép buộc Việt Nam phải có những “tiến bộ cụ thể về nhân quyền, tôn giáo”. Thông qua các diễn đàn công khai như hội thảo, hội nghị khoa học, các buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ quan chức năng của Việt Nam yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền, thành lập Tòa án Hiến pháp ở nước ta. Họ còn gửi thư, bản kiến nghị tới Liên hiệp quốc, Quốc hội, Chính phủ các nước, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta để phản đối việc chính quyền bắt giữ, xét xử một số đối tượng chống đối trong nước, đòi trả tự do cho các “tù nhân lương tâm”. Lợi dụng việc chính quyền đấu tranh, xử lý số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị vi phạm pháp luật, chúng đã tạo cớ, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp người “bất đồng chính kiến” và những người “yêu nước”, kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế. Các thế lực bên ngoài còn thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài triển khai các dự án hỗ trợ cải cách tư pháp để tìm cách hướng lái, can thiệp vào quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật của Việt Nam và gây sức ép, đặt điều kiện đòi ta mở rộng các quyền và tự do cơ bản của công dân theo tiêu chí của họ, tạo hành lang hoạt động cho số chống đối chính trị, các tổ chức “xã hội dân sự” trong nước.

        Ba là, dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Nhà nước

        Đây là một trong những hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch nhằm “diễn biến hòa bình” với nước ta. Chúng cho rằng việc tồn tại nhiều đảng phái chính trị lãnh đạo xã hội là tiêu chí duy nhất của dân chủ; đồng thời xuyên tạc rằng, chế độ độc đảng ở Việt Nam là trở ngại lớn nhất trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, muốn có dân chủ thực sự thì Việt Nam nên xóa bỏ chế độ độc đảng. Chúng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận lịch sử dân tộc ta, cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; từng bước làm mất lòng tin cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua đó, chúng tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước” như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”.v..v..Chúng ra sức tuyên truyền về vai trò của các tổ chức dân sự trong xã hội, qua đó hòng thúc đẩy sự ra đời của các khuynh hướng dân chủ cực đoan, phát triển “xã hội dân sự”, hình thành các tổ chức chính trị, hội nhóm bất hợp pháp. Chúng tìm cách móc nối, lôi kéo một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất, số cấp tiến là lãnh đạo các cơ quan, ban ngành để mua chuộc, lôi kéo tạo dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng chống phá từ bên trong. Chúng còn tuyên truyền, vận động số người có trình độ thấp, số biểu hiện cơ hội, bất mãn ký tên vào kiến nghị, tuyên bố…nhằm đưa ra yêu sách “dân chủ, nhân quyền”,“bảo vệ chủ quyền”…mục đích là thêu dệt, bóp méo tình hình thực tế ở trong nước, qua đó tập hợp lực lượng hình thành các hội nhóm chống chính quyền, như: Tuyên bố 72 ra “bản kiến nghị sửa đổi” Hiến pháp theo mô hình dân chủ đa nguyên, v..v..Ở bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong ráo riết hỗ trợ kinh phí, chỉ đạo đường lối đối với số trong nước phục hồi tổ chức, kích động tư tưởng ly khai, tự trị để lừa mị, lôi kéo, tập hợp quần chúng tổ chức biểu tình, bạo loạn; hình thành các hội nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước.

        Bốn là, tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế ban hành văn bản xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

        Các thế lực thù địch tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên.v..v..với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng tình hình trong nước; điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ, Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hàng năm của Anh, Úc, Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu..v..v..Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hàng năm đã liên tục thông qua nhiều Dự luật, Nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam như: Dự luật HR 1587 (năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị quyết H.Res.484.v..v…Các báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế như: Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Nhà Tự do (FH), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ), Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI)... mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “chuyển biến tích cực” về dân chủ, nhân quyền nhưng vẫn xuyên tạc tình hình thực tế trong nước, vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền. Ngoài ra, các thế lực bên ngoài còn tác động các chính khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ, Anh, Đức…tổ chức các buổi điều trần, hội thảo nhằm xuyên tạc, vu cáo hoặc thổi phồng các sự kiện thực tế trong nước để rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, dân tộc hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt, chúng còn tìm cách thông qua các chính khách cực đoan như: Z.Lofgren, C.Smith…tác động Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” (CPC) để áp dụng các biện pháp “trừng phạt” đối với nước ta.

        

 

ê Dũng Vova đã bị Công an Hà Nội bắt giữ vì tội "làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

 

Lê Dũng Vova đã bị Công an Hà Nội bắt giữ vì tội "làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

Công an TP Hà Nội vừa cho biết, đơn vị đã bắt được Lê Văn Dũng (tức Lê Dũng Vova) sau một tháng truy nã.

Đại diện Công an TP Hà Nội thông tin, Cơ quan An ninh điều tra - Công an TP Hà Nội đã bắt được đối tượng truy nã Lê Văn Dũng (tức Lê Dũng Vova), 51 tuổi, trú tại phường Hà Cầu, quận Hà Đông, Hà Nội).

Theo đó, Lê Dũng Vova bị bắt sáng ngày 30/6.

Hiện Cơ quan An ninh điều tra - Công an TP Hà Nội đang thực hiện các biện pháp tố tụng đối với Lê Dũng Vova theo quy định của pháp luật.

Trước đó, Lê Dũng Vova bị khởi tố về tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định tại điều 117 bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, ngày 22/5, Dũng đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú.

Trong những năm gần đây, Lê Dũng Vova tự làm thẻ nhà báo cho mình, tự lập kênh Youtube CHTV (Chấn hưng Tivi), rồi đưa ra khẩu hiệu “CHTV là kênh truyền hình của dân oan” nhằm tuyên truyền sai lệch, lôi kéo người dân.

Ngoài ra, Lê Dũng Vova còn tổ chức các buổi livestream trên nền tảng Facebook và Youtube để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.