Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2021

Trong bệnh viện 'tầng ba'

Bảy giờ sáng, giao ban, không khí căng thẳng. Trưởng khoa nhăn nhó: “Sao ca này để mất, hôm qua đã diễn biến tốt lên rồi mà?”. Kíp trực mệt mỏi: "Bệnh nhân suy hô hấp nặng lên từ chiều, bọn em cố gắng kéo không được, đến đêm thì ngừng tim". Không ai nói gì thêm nữa. Căn bệnh quái ác. Chợt có tiếng bộ đàm léo nhéo từ buồng bệnh: "Cấp cứu, bệnh nhân giường số bảy ngừng tim". Tất cả cùng quay phắt nhìn lên màn hình. Qua camera, nhân viên y tế đang hì hục ép tim. Mấy nhân viên đang giao ban đứng vụt dậy, đi mặc đồ bảo hộ để vào hỗ trợ. Buổi giao ban lại tiếp tục, liệt kê các bệnh nhân nặng, nguy kịch, rồi nhanh chóng kết thúc. Mọi người đứng dậy, hối hả ai vào việc nấy. Trái với không khí im phắc giao ban, lúc này căn phòng hành chính - tổng hành dinh của khoa - như cái chợ. Tiếng người gọi nhau, cãi nhau, hỏi nhau hối hả, ồn ào. Đủ cả tiếng ba miền. Giọng Bắc rõ ràng, giọng Trung nặng, giọng Nam thanh thanh. Nhân viên y tế cả nước đã về đây. Rồi mọi người tản ra, mỗi người mỗi góc, đứng tỉ mỉ mặc bộ đồ bảo hộ PPE. Mặc bảo hộ thì không được vội và phải thật cẩn thận vì tiếp xúc với môi trường cực kỳ nguy hiểm, độc hại. Bộ bảo hộ này có nhiều món, phải mặc rồi sát khuẩn từng bước, từng bước, để cuối cùng thành một cây trắng toát, kín mít. Cuối cùng cũng mặc xong, chúng tôi chậm chạp tiến vào vùng nguy hiểm, nơi bệnh nhân đang chờ từng phút. Phòng bệnh nhân nặng nhất nằm là vùng đỏ, vùng cách ly tuyệt đối, nguy hiểm nhất. Kế đó là vùng chuyển tiếp gọi là vùng vàng. Cuối cùng, cứ điểm an toàn của nhân viên y tế là phòng giao ban - vùng xanh. "Giao thông" giữa vùng xanh và vùng đỏ riêng biệt, không trộn lẫn. Từ vùng xanh đi vào vùng đỏ phải mặc đồ bảo hộ an toàn, còn từ vùng đỏ đi ra phải cởi bỏ đồ bảo hộ ở vùng vàng và khử trùng toàn thân kỹ lưỡng trước khi vào vùng xanh. Về lý thuyết là thế, nhưng nguy cơ bị lây nhiễm luôn trực chờ. Chúng tôi tiến vào buồng bệnh. Mặc đồ bảo hộ xong, mọi cử động đều rất khó khăn, kính bảo hộ mờ hơi nước, hơi thở cũng khó. Chúng tôi tỏa ra thăm khám người bệnh, động viên họ cố gắng chịu đựng. Bệnh nhân, ai cũng bị cơn khó thở dày vò, lại thêm nỗi lo lắng hoảng loạn khi chứng kiến người cùng phòng trở nặng rồi không qua khỏi. Chính sự hoang mang đó làm người bệnh thở gấp, càng thiếu oxy hơn. Nhiều bệnh nhân biết nghe lời bác sĩ, nằm sấp tập thở đều, phần nhiều dần tốt lên. Còn những ai hay phàn nàn thì phần nhiều trở nặng. Nói nhiều ở đây là cấm kỵ, vì tăng nguy cơ bị lây bệnh. Chúng tôi phải tập nói và thở nhẹ nhàng, không hít sâu, không gắng sức đột ngột để tránh luồng không khí quá mạnh đi qua khẩu trang, dễ lây nhiễm. Nói vậy, nhưng khi có bệnh nhân đột ngột diễn biến xấu là chúng tôi quên hết. Bản năng nghề nghiệp nổi lên, lao vào cấp cứu đến tụt cả đồ bảo hộ. Những ai bị hở bảo hộ lập tức bị đuổi ra khử trùng lại và thay bộ bảo hộ khác ngay. Môi trường nguy hiểm cùng đồ bảo hộ kín bưng khiến chúng tôi làm việc rất khó khăn. Điều dưỡng lấy ven khó. Các em mọi ngày lấy ven "siêu" thế mà nay có khi hai đến ba lần mới được, vì mang mấy đôi găng nên cảm giác ngón tay giảm. Bác sĩ khám bệnh cũng khó, không thể dùng ống nghe được, hỏi bệnh cũng thật ngắn gọn. Lúc này, năng lực quan sát là quan trọng số một. Nhìn kiểu thở nhẹ nhàng hay khó nhọc, hay nặng hơn nữa là nghịch thường, nhìn nét mặt, mồ hôi, màu da, đỏ gay hay tím tái... chúng tôi đánh giá được mức độ tiến triển của bệnh. Rồi đo nồng độ oxy trong máu, quan sát lượng oxy tiêu thụ, chúng tôi phác dần ra kế hoạch cho thuốc ngày hôm nay. Bệnh nhân nặng đa phần là béo phì. Không kể tuổi tác, cứ béo phì là dễ trở nặng. Nhìn những người bệnh thở khó nhọc, lớp mỡ bụng nặng nề phập phồng mà tôi đâm ám ảnh, đến bữa tự giác ăn giảm cơm hẳn để chống béo phì. Rồi chúng tôi, cả điều dưỡng và bác sĩ đi đổ bô chất thải cho bệnh nhân. Họ không thể rời khỏi giường vì đi xa khỏi nguồn oxy là ngã ngay. Chúng tôi đi lấy nước cho bệnh nhân uống. Bệnh nhân khó thở, thở gấp nên mất nước rất dữ, ngày uống vài lít nước. Những người bệnh nặng tự uống được nước còn đỡ, tuy rất khó khăn. Còn những người nặng, phải thở oxy mask che kín mặt có khi bị thiếu nước trầm trọng, khô hết cả người. Nhân viên y tế rất thiếu, không thể đủ để mà đứng cạnh phục vụ từng người bệnh. Nhiều lần tôi nghĩ, giá mà lúc này có lực lượng tình nguyện là các F0 đã khỏi bệnh được huấn luyện rồi cùng phục vụ đơn giản trong bệnh viện tầng ba thì tốt quá. Thời gian qua mau, người bệnh nặng được xử trí, người nhẹ hơn đang phục hồi, chúng tôi thấy yên tâm, mặc cho mồ hôi lúc này ướt đầm toàn thân. Đã đến lúc chuẩn bị quay ra vùng xanh để ghi chép bệnh án thì lại có tiếng xôn xao ở phòng bên. Có bệnh nhân diễn biến nặng. Tất cả áo trắng lại nhẹ nhàng kéo máy móc lướt về hướng đó, xúm vào cấp cứu... Sau mấy phút, bệnh nhân có nhịp tim trở lại, lại gắn ống vào máy thở tiếp. Các đồng nghiệp ai nấy mồ hôi vã ra như tắm. Trong đời hành nghề gần 40 năm của mình, tôi chưa bao giờ thấy căn bệnh phổi nguy hiểm đến thế. Mới mắc, chỉ ho khan vài tiếng, vẫn khỏe mạnh. Nhưng chỉ một vài ngày sau là khó thở, phải nhập viện. Rồi khó thở đột ngột tăng nhanh. Lúc mới vào, bệnh nhân chỉ thở oxy "gọng kính" 5 lít mỗi phút, rồi mau chóng chuyển sang thở mặt nạ oxy 15 lít mỗi phút, vẫn không đỡ. Nồng độ oxy trong máu SpO2 thấp dưới 90, phải chyển sang thở oxy dòng cao 60 lít mỗi phút. Oxy phun qua ống kêu phè phè thành tiếng, vẫn không đỡ. Với những trường hợp này, bác sĩ buộc phải chuyển sang vũ khí cuối cùng là đặt ống nội khí quản và thở máy. Nhưng hình như chiếc máy thở là con tàu không có vé khứ hồi. Ít ai đặt chân lên con tàu này mà còn quay trở lại được. Đây là tình trạng điều trị Covid ở Mỹ, Italy và các nước chứ không riêng Việt Nam. Các bác sĩ ở phương Tây trước khi đặt ống cho bệnh nhân đều để người bệnh gọi điện về cho gia đình, có thể coi như nói lời từ biệt. Đến giờ này, dù tham gia điều trị cho nhiều bệnh nhân, với tôi Covid vẫn là một căn bệnh bí ẩn. Người ta có thể giải mã trình tự bộ gene của virus, biết cách nó bám vào thụ thể nào để đi vào cơ thể, biết làm sao nó lại nhân lên bên trong tế bào... tức chúng ta có vẻ như biết tất tật về con virus này. Thế nhưng sao bệnh nhân vẫn tử vong? Trong Y học, nếu đủ hiểu biết về một căn bệnh thì người ta sẽ chữa được, nếu vẫn để chết người là chúng ta vẫn chưa biết hết về nó. Đến trưa, chúng tôi mới ra đến vùng vàng chuyển tiếp, thận trọng cởi bỏ bộ đồ bảo hộ bám đầy virus rồi nhanh chóng đi tắm rửa, khử trùng toàn thân, thay quần áo mới để quay về vùng xanh ghi chép bệnh án, cho thuốc, trực trên màn hình camera. Tốp kế tiếp lại lệt sệt bước vào vùng đỏ. Cuộc chiến đấu của chúng tôi cứ thế, đang tiếp diễn...

 Cảm xúc vỡ oà của người vô gia cư khi được tiêm vaccine


Hiện, Sài Gòn đang nỗ lực đẩy nhanh tiến độ để phủ rộng vaccine khắp địa phương. Bất kì ai cũng được tiêm chủng và người vô gia cư cũng không ngoại lệ. Báo Vietnamnet cho biết, trong chiều 25/8, chính quyền thành phố đã tổ chức buổi tiêm vaccine ngừa Covid-19 cho 100 người không nhà cửa, lang thang tại khu vực Q.4.
Trước đó, số người dân này được lực lượng chức năng Q.4 đón về tạm sinh sống tại trường THCS Nguyễn Huệ trên địa bàn P.2, Q.4. Vốn phải đi lang thang khắp phố phường, bữa no bữa đủ, nay có chốn dừng chân an toàn, ông V.T.P không giấu nổi sự hạnh phúc và những giọt nước mắt.
Trong khi đó, anh N.N.B (40 tuổi) cho hay, thường ngày anh ăn ngủ ở lề đường, xin được cơm từ thiện thì hôm đó no bụng, còn không thì chỉ còn cách uống nước lọc cầm cự. Hiện được tạo điều kiện để có chỗ ăn ngủ, lại được tiêm chủng nên anh vô cùng vui mừng, đồng thời gửi lời cảm ơn đến chính quyền đã hỗ trợ những hoàn cảnh khó khăn như anh.
Chia sẻ với Báo Tổ quốc, ông T.V.P cho biết mình bán vé số dạo đã ngót nghét 30 năm, do không có nhà để về nên đành ngủ ở lề đường. Cách đây 4 ngày, ông được lực lượng chức năng hỏi thăm và đưa về điểm cư trú tại trường học. Tại nơi này, ông T.V.P được lo ăn uống, có gối và chăn, chiếu để nằm, cảm giác “sướng hơn nằm ngoài đường rất nhiều”. Vốn mắc một số bệnh nền như tiểu đường, huyết áp cao… nên người đàn ông lớn tuổi khá lo lắng và hồi hộp, luôn cầm trên tay ống lọc khí để hít thở khi cần. Đáng tiếc, qua thăm khám, do không đủ điều kiện sức khoẻ để tiêm chủng nên ông khó tránh khỏi cảm giác buồn rầu.
Được biết, lực lượng công an và quân đội Q.4 vốn đưa về tổng cộng 114 người vô gia cư, tuy nhiên qua xét nghiệm, có 14 trường hợp là F0 nên đã được đi cách ly tập trung. Những người còn lại được các bác sĩ có chuyên môn đến từ Bệnh viện Đại học Y và Bệnh viện Y học Cổ truyền thăm khám sàng lọc.
Hiện, chính quyền TP.HCM vẫn tiếp tục công tác đưa người vô gia cứ về những điểm cư trú, tạo điều kiện cho họ được tiêm chủng. Hi vọng nước ta có thể hoàn thành mục tiêu phủ rộng vaccine trong thời sớm nhất, nhanh chóng chiến thắng dịch bệnh!

Công an Hà Nội lập thêm 6 tổ 'cơ động mạnh'

6 tổ kiểm tra "cơ động mạnh" được lập thêm để tuần tra, xử lý các vi phạm về giãn cách xã hội, giao thông, hình sự. Ngày 29/8, các tổ bắt đầu triển khai công việc; cùng với 6 tổ đã lập từ hai tuần trước. 12 tổ có nhiệm vụ đảm bảo tốt việc người dân thực hiện giãn cách xã hội, giữ vững an ninh trật tự dịp Quốc khánh 2/9. Mỗi tổ gồm 15 cảnh sát thuộc các lực lượng cảnh sát giao thông, cảnh sát cơ động và cảnh sát hình sự sẽ tuần tra lưu động, liên tục thay đổi địa điểm. Lực lượng "cơ động mạnh" này sẽ xử lý các vi phạm như: không đeo khẩu trang nơi công cộng, ra đường khi không có lý chính đáng; kết hợp xử phạt các vi phạm khác về giao thông, hình sự, an ninh trật tự. Tổ này sẽ hoạt động linh hoạt trên mô hình tổ 141 cũ. Ngoài 12 tổ tuần tra, Công an Hà Nội yêu cầu công an các quận, huyện tiếp tục siết chặt những chốt kiểm soát tại tổ dân phố, khu dân cư, chốt cửa ngõ ra vào thành phố. Đặc biệt, xe luồng xanh cũng phải được kiểm tra chặt chẽ. Từ 28 đến 29/8, tổ công tác liên ngành tại 23 chốt cửa ngõ Hà Nội đã kiểm soát 10.965 lượt phương tiện với 14.594 lượt người qua chốt. 2.116 lượt phương tiện bị buộc quay đầu. 13 trường hợp bị xử phạt hành chính do ra ngoài không có lý do chính đáng. Riêng các tổ tuần tra cơ động mạnh đã kiểm soát 2.092 trường hợp, xử phạt hành chính 17 trường hợp không có giấy đi dường. Hôm nay, UBND Hà Nội giao Công an thành phố chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tăng cường kiểm soát việc đi lại của người dân theo đúng quy định về giãn cách xã hội. Công an kiểm soát chặt việc cấp và sử dụng giấy đi đường để từ đó tham mưu cho thành phố quy định rõ về việc cấp giấy đi đường. Hà Nội đang giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16, dự kiến đến 6h ngày 6/9. Chính quyền yêu cầu mọi người dân ở nhà, chỉ ra ngoài trong trường hợp thật sự cần thiết.

'Địa phương không đẩy lùi dịch bệnh phải kiểm điểm'

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định đã hy sinh kinh tế - xã hội để giãn cách thì phải kiểm soát được dịch bệnh, địa phương nào không đạt mục tiêu phải kiểm điểm. Sáng 29/8, lần đầu tiên Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống Covid-19 với đại diện 1.060 xã, phường, thị trấn tại 20 tỉnh, thành đang giãn cách xã hội. Cuộc họp trực tuyến diễn ra ngay sau khi Thủ tướng kết thúc chuyến kiểm tra công tác chống dịch tại TP HCM, Bình Dương, Đồng Nai, vì vậy ba địa phương không tham dự họp. Lý giải sự tham dự của lãnh đạo cấp xã, Thủ tướng nói đã ban hành các chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh phương châm lấy xã, phường, thị trấn, nhà máy, xí nghiệp làm "pháo đài", mỗi người dân là "chiến sĩ" phòng chống dịch. Trong 23 tỉnh, thành đang giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16, có 6 tỉnh đang kiểm soát được dịch bệnh gồm: Sóc Trăng, Bình Phước, Bến Tre, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. 13 tỉnh khác đang tiếp tục lộ trình. Riêng TP HCM, Bình Dương, Long An, Tiền Giang "đã rất cố gắng nhưng dịch bệnh vẫn phức tạp, nhất là TP HCM do nhiều đặc thù về dân cư, xã hội", Thủ tướng nhận xét. Địa phương không đạt mục tiêu đẩy lùi dịch bệnh phải kiểm điểm Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống Covid-19 với 1.060 lãnh đạo cấp xã tại 20 tỉnh, thành đang giãn cách xã hội, sáng 29/8. Ảnh: Nhật Bắc Dẫn chứng nhiều nước có tiềm lực kinh tế vẫn bị động và quá tải hệ thống y tế, Thủ tướng nhấn mạnh phải xác định rõ tính chất khốc liệt, khó lường của dịch bệnh. "Chúng ta đặt mục tiêu kiềm chế, kiểm soát dịch bệnh, song cũng xác định cuộc chiến này còn lâu dài, phải sống chung với dịch bệnh, không thể khống chế tuyệt đối, phải thích ứng và có cách làm phù hợp", Thủ tướng nói và lưu ý, phòng bệnh là cơ bản, chiến lược lâu dài, chống là quan trọng, thường xuyên. Thủ tướng khẳng định địa phương đã hy sinh về kinh tế, xã hội để giãn cách "thì đổi lại phải kiểm soát được dịch bệnh trong thời gian này". Địa phương nào không đạt mục tiêu thì kiểm điểm, làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân để rút kinh nghiệm. Người không làm hết trách nhiệm bị xử lý.   Theo Nghị quyết được Chính phủ ban hành ngày 10/8, TP HCM phấn đấu kiểm soát dịch bệnh trước 15/9; các tỉnh Bình Dương, Long An, Đồng Nai trước 1/9. Các nơi khác phấn đấu kiểm soát dịch bệnh trước 25/8. "Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, cơ sở vẫn là khâu yếu nhất. Nơi nào lãnh đạo xã, phường còn nắm nội dung chỉ đạo lơ mơ thì chắc chắn người dân chưa tiếp cận tốt về an sinh xã hội, y tế", Thủ tướng nói. Ông đề nghị các địa phương khi cung cấp lương thực, thực phẩm, dịch vụ thiết yếu đến người dân cần lưu ý ba nhóm: Người có điều kiện kinh tế nhưng cần giúp đỡ; hộ gia đình gặp khó khăn, bị đứt bữa; người lang thang, cơ nhỡ. Người giao hàng sẽ được tiêm vaccine để bổ sung lực lượng vận chuyển hàng hóa. Từng xã, phường, thị trấn cung cấp ngay số điện thoại khẩn cấp tới người dân để họ có thể gọi ngay khi đói ăn, ốm đau. Nghiên cứu di dời một số người dân từ nơi có mật độ dân số cao ở vùng đỏ (nguy cơ rất cao) đến nơi an toàn để giãn cách, cũng là một trong những gợi ý được Thủ tướng đặt ra. Ông yêu cầu địa phương không ban hành quy định riêng, bãi bỏ quy định không phù hợp để lưu thông hàng hóa trên toàn quốc. Về công tác an sinh xã hội, Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, đến nay hơn 15 triệu người được hỗ trợ; số tiền giải ngân hơn 8.400 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhiều nơi còn lúng túng, sợ trách nhiệm, cần rút kinh nghiệm. Ông dẫn chứng, hai tỉnh Bến Tre và Trà Vinh chưa rút kinh phí nhà nước để chi. 9 tỉnh khác chưa hỗ trợ người lao động bị ngừng việc, mất việc gồm: Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Phú Yên.

Chưa đề xuất cấp phép vaccine Nanocovax

Hội đồng tư vấn cấp phép thuốc và nguyên liệu làm thuốc, Bộ Y tế họp ngày 29/8, đề nghị doanh nghiệp tiếp tục bổ sung hồ sơ vaccine Covid-19 Nanocovax. Thông cáo báo chí từ Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc, Bộ Y tế (gọi tắt là Hội đồng tư vấn) tối 29/8 cho biết như trên. Theo đó, Hội đồng tư vấn đã thẩm định hồ sơ vaccine Nanocovax kỹ lưỡng, nhiều lần, dựa trên hồ sơ pháp lý, chất lượng, dược lý, lâm sàng và kết luận của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Quốc gia (Hội đồng đạo đức). Sau buổi họp, Hội đồng tư vấn ghi nhận các kết quả đạt được đối với hồ sơ đề nghị cấp giấy đăng ký lưu hành vaccine Nanocovax. Hội đồng tư vấn đề nghị doanh nghiệp tiếp tục bổ sung: Hồ sơ chất lượng; Hồ sơ dược lý, lâm sàng bổ sung tính an toàn của toàn bộ người đã được tiêm ít nhất một liều vaccine tới hiện tại và giải thích rõ về các trường hợp gặp phản ứng nghiêm trọng (SAE). Hồ sơ vaccine Nanocovax cũng cần bổ sung về tính sinh miễn dịch, cập nhật dữ liệu đánh giá tính sinh miễn dịch trên các biến chủng mới, ví dụ chủng Delta, Alpha; cỡ mẫu đánh giá tính sinh miễn dịch cần thực hiện theo đúng đề cương nghiên cứu đã được thông qua. Về tính sinh miễn dịch của vaccine, công ty cần phối hợp với nhóm nghiên cứu để phân tích, bàn luận về mối liên quan giữa tính sinh miễn dịch của vaccine, hiệu quả bảo vệ tối thiểu 50% theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các dữ liệu y văn. Hội đồng tư vấn đề nghị Công ty Nanogen khẩn trương bổ sung, cập nhật các nội dung trên. Sau đó, công ty phải báo cáo Hội đồng Đạo đức và Hội đồng tư vấn tiếp tục xem xét, thẩm định cuốn chiếu các kết quả nghiên cứu để cấp phép khẩn cấp. Theo quy trình, sau khi thông qua hồ sơ, Hội đồng tư vấn sẽ đề xuất Bộ Y tế cấp phép khẩn cấp cho vaccine. Như vậy, sau cuộc họp hôm nay, Hội đồng tư vấn đề nghị doanh nghiệp bổ sung hồ sơ, có nghĩa chưa tiến tới bước đề xuất cấp phép cho Nanocovax. Nanocovax là vaccine Covid-19 do Công ty Nanogen nghiên cứu, phát triển, một liệu trình hai liều tiêm cách nhau 28 ngày. Để thúc đẩy tiến độ thử nghiệm lâm sàng vaccine trong bối cảnh đại dịch, Bộ Y tế đã cho phép sử dụng các kết quả giữa kỳ của nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng để đánh giá, sau đó gối vụ thử nghiệm. Thử nghiệm lâm sàng vaccine Nanocovax bao gồm ba giai đoạn. Giai đoạn 1 nghiên cứu trên 60 người tình nguyện từ 18 đến 50 tuổi, gồm 3 mức liều 25 mcg; 50 mcg và 75 mcg, mỗi mức liều có 20 người tham gia, kéo dài từ tháng 12/2020 đến tháng 7/2021, với mục tiêu đánh giá tính an toàn và thăm dò tính sinh miễn dịch của vaccine trên người tình nguyện. Giai đoạn 2 nghiên cứu trên 560 người tình nguyện từ 18 tuổi trở lên, gồm 4 nhóm: tiêm giả dược (placebo) 80 người; 3 nhóm tiêm vắc xin với 3 mức liều 25 mcg; 50 mcg và 75 mcg, mỗi mức liều 160 người). Ngay khi có kết quả đánh giá giữa kỳ giai đoạn 1, Bộ Y tế đã phê duyệt đề cương nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2, thời gian nghiên cứu từ tháng 2/2021 đến tháng 2/2022, với mục tiêu đánh giá tính an toàn và tính sinh miễn dịch của vaccine để chọn được liều tối ưu sử dụng trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3. Ngay khi có kết quả đánh giá giữa kỳ giai đoạn 2, Bộ Y tế đã phê duyệt đề cương nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3, thời gian nghiên cứu từ tháng 6/2021 đến tháng 2/2023, với mục tiêu chính nhằm đánh giá tính an toàn và tính sinh miễn dịch của vaccine. Ở giai đoạn này, nhóm nghiên cứu thử nghiệm mức liều 25 mcg, trên 13.000 người tình nguyện từ 18 tuổi trở lên, chia thành pha 3a và pha 3b, mục tiêu nghiên cứu là đánh giá tính an toàn, đáp ứng sinh miễn dịch và hiệu lực bảo vệ của ứng viên Nanocovax. Pha 3a có 1.000 người, tỷ lệ nhóm vaccine/placebo là 6:1. Pha 3b với 12.000 người, tỷ lệ nhóm vaccine/placebo là 2:1 thời gian nghiên cứu từ tháng 7/2021 đến tháng 2/2023, với mục tiêu chính nhằm đánh giá tính an toàn và hiệu lực bảo vệ của vắc xin. Nanocovax đang thử nghiệm giai đoạn 3b. Giai đoạn 3a đang được đánh giá tính sinh miễn dịch vào ngày thứ 42 sau tiêm liều một, dự kiến đến ngày 10/9 hoàn thành. Ngày 7/8, Hội đồng đạo đức đã họp khẩn cấp để nghiệm thu kết quả thử nghiệm giai đoạn 1, đánh giá kết quả giữa kỳ thử nghiệm giai đoạn 2. Hôm 25/8, Hội đồng đạo đức tiếp tục thông qua báo cáo giữa kỳ giai đoạn 3a, sử dụng các kết quả nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng tính đến thời điểm đánh giá kết quả giữa kỳ giai đoạn 3a, gửi cho Thường trực Hội đồng tư vấn để xem xét cấp phép khẩn cấp.

Tổ chức hoạt động kỷ niệm 60 năm thành lập đường Hồ Chí mInh trên biển

Hướng tới kỷ niệm 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961 / 23-10-2021), Bộ Quốc phòng đã ban hành kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm, nhằm tuyên truyền sâu rộng trong toàn quân và các tầng lớp nhân dân về đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trước quyết định mở tuyến đường chiến lược quan trọng trên biển; góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. - Tổ chức các hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển Tàu không số vận chuyển hàng hóa, vũ khí trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Ảnh tư liệu. Thông qua các hoạt động kỷ niệm giáo dục cán bộ, chiến sĩ, đồng thời cổ vũ, động viên nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, ra sức thi đua, giành những thành tựu mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Căn cứ kế hoạch của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị vừa ban hành kế hoạch phân công nhiệm vụ tổ chức các hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển, bảo đảm các cơ quan, đơn vị có liên quan nắm chắc nhiệm vụ được giao, phát huy vai trò trách nhiệm, xây dựng kế hoạch thực hiện khoa học, tích cực, chủ động trong công tác; tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chặt chẽ, đạt kết quả cao nhất.

Bệnh viện điều trị COVID-19 hiện đại nhất Hà Nội sắp đi vào hoạt động

 Ngày 1/9 (thứ 4 tuần sau) Bệnh viện điều trị người bệnh COVID-19 Y Hà Nội quy mô 500 giường chính thức đi vào hoạt động.

Hà Nội phát hiện 133 ca COVID-19 trong ngày, nhiều ca ở Thanh Xuân Trung xét nghiệm lần 3 mới "ra"

 Sở Y tế Hà Nội tối 29/8 cho biết, trong 6 giờ qua TP ghi nhận thêm 49 ca COVID-19, nâng tổng số ca mắc trong 24 giờ qua ở Thủ đô lên 133 ca.

Công binh xuất sắc giành Huy chương đồng

 

Ngày 29-8, trận chung kết nảy lửa môn thi “Lộ trình an toàn” trong khuôn khổ Army Games 2021 đã diễn ra tại thao trường Tyumen, LB Nga.

Đội tuyển Xe tăng QĐND Việt Nam trụ hạng ở bảng 1

 

Sáng 29-8 (giờ địa phương) tại thao trường Alabino, ngoại ô thủ đô Moscow, Kíp xe tăng số 3 của Đội tuyển Xe tăng QĐND Việt Nam đã tham gia cuộc thi Xe tăng hành tiến trong khuôn khổ Army Games 2021.

Âm mưu phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa từ việc cổ súy “chủ nghĩa hội tụ”

 

Thời gian qua, mượn mạng xã hội (MXH), một số ý kiến khơi lại vấn đề “chủ nghĩa hội tụ”, coi “chủ nghĩa hội tụ” là con đường khả dĩ, phù hợp với thời nay và đưa ra “khuyến nghị, khuyến cáo” Việt Nam là: “Phải thay Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng chủ nghĩa hội tụ”, “là hội tụ chủ nghĩa tư bản hòa vào chủ nghĩa xã hội”. Vậy, sự thật đằng sau khuyến cáo đó là gì?

Lật tẩy “màn ảo thuật” cổ xúy thay đổi chế độ chính trị của những giọng điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ở Việt Nam

Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch diễn ra trên tất cả các mặt của ý thức xã hội. Trong đó, chung quanh vấn đề nhận thức và giải quyết của Đảng ta về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là một trong những tiêu điểm công kích, chống phá và xuyên tạc của kẻ thù. Vì vậy, nhận diện đúng để xác định trúng những luận cứ khoa học nhằm đấu tranh phê phán, bác bỏ những luận thuyết, âm mưu và hành động nói trên của các thế lực thù địch trở thành một trong những vấn đề trọng tâm của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận hiện nay. Những giọng điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam Trong âm mưu và luận điệu xuyên tạc, chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đã và đang có những “lý sự” xuyên tạc rằng: Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam chỉ mang tính chất nửa vời, chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam “không dám” thực hiện đổi mới chính trị, vì sợ bị mất “cây gậy quyền lực”, bị “thay máu” bản chất chế độ... Chúng còn rêu rao rằng, đổi mới chính trị ở Việt Nam “lệch pha”, không đồng bộ, không tương xứng so với đổi mới kinh tế; đổi mới ở Việt Nam chẳng qua là sự “học đòi”, “bắt chước” một cách khiên cưỡng công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Trung Quốc, nên tất yếu sẽ đi đến “kết cục” đổ vỡ cả kinh tế lẫn chế độ chính trị mà thôi. Tinh vi và xảo quyệt hơn, có quan điểm còn vin vào nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “kinh tế quyết định chính trị” để trắng trợn tuyên bố rằng, về mặt kinh tế đã là kinh tế thị trường, kinh tế đa thành phần và nhiều hình thức sở hữu thì nhất thiết tương ứng với nó về mặt chính trị phải là chế độ đa nguyên, đa đảng. Chúng xuyên tạc rằng, ở Việt Nam thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần nhưng chính trị lại duy trì chế độ độc đảng, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo “chuyên quyền” của Đảng Cộng sản, đó là sự pha trộn giữa “dầu với nước”, chắc chắn sẽ kém hiệu quả. Chúng còn lợi dụng một số yếu kém, bất cập trong lãnh đạo, quản lý và điều hành đất nước, nhất là tình trạng tham nhũng, lãng phí, sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,... để xuyên tạc rằng, không có đa nguyên sẽ không có đấu tranh và điều đó sẽ làm cho hệ thống chính trị không thể đổi mới, mưu toan đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi Chính phủ Việt Nam vận dụng các lý thuyết, trường phái kinh tế học tư sản mới giúp tránh được sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường, tức là tránh được sự can thiệp của chính trị vào kinh tế. Những luận điệu kể trên là một “tư duy thiển cận”, sự nhận thức mơ hồ, phiến diện, bộc lộ rõ những ý đồ chính trị hết sức thâm độc với mục đích cổ xúy, kích động cho sự hình thành các tổ chức chính trị phản động đối lập với Đảng, Nhà nước ta, tiến hành tạo phản, lật đổ, gây bất ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam... Những luận cứ phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam Cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến chiều hướng, nội dung, nhịp độ, hiệu quả và mức độ bền vững của sự phát triển đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia đang tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới; đồng thời, quyết định vận mệnh chính trị của các đảng phái và các thể chế chính trị đương thời. Đối với Việt Nam, từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới cho đến nay, chúng ta luôn coi trọng hàng đầu việc giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trên thực tế, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại,... trong một tổng thể thống nhất. Tuy nhiên, bước đi của đổi mới là vấn đề vô cùng nhạy cảm và hệ trọng. Theo đó, quan điểm của Đảng ta là đổi mới toàn diện, nhưng đặt trọng tâm vào đâu, lĩnh vực nào đi trước, lĩnh vực nào đi sau,... để bảo đảm cho đổi mới vận hành đúng hướng, giành thắng lợi, đòi hỏi một tư duy lý luận sâu sắc và nghệ thuật lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta đã cân nhắc cẩn trọng, lựa chọn và ưu tiên tập trung giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đặc biệt, xuyên suốt quá trình đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một “nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay”(1). Xét trên tổng thể, “Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác”(2). Mặt khác, Đảng cũng nhấn mạnh: “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,... là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho công cuộc đổi mới nói chung đi tới thắng lợi”(3). Đó còn là ban hành Hiến pháp mới (năm 1992 và năm 2013), hàng trăm đạo luật, pháp lệnh bảo đảm cho đổi mới kinh tế; đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, cả về lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy tốt hơn vai trò của nhân dân, thực hành dân chủ về chính trị, huy động nhân dân vào công tác quản lý nhà nước, giám sát và phản biện xã hội. Những đổi mới đó phải chăng không phải là đổi mới chính trị? Không có những đổi mới chính trị đồng bộ đó thì không thể có thành tựu đổi mới kinh tế như đã thấy. Song, đổi mới chính trị không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, đúng như Đảng ta đã xác định rõ: “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân”(4). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (tháng 1-2015): Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng gây phiền hà cho dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Suy đến cùng, thực chất của đổi mới chính trị là đổi mới tư duy nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đổi mới cơ chế, chính sách mà hạt nhân cơ bản là giải quyết hợp lý, hài hòa quan hệ lợi ích; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó một lần nữa khẳng định, công cuộc đổi mới ở Việt Nam vừa có đổi mới kinh tế, vừa có đổi mới chính trị. Mặt khác, dựa trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị, chúng ta sẽ có đủ luận cứ, luận chứng để phản bác các mưu đồ thâm độc, tinh vi nói trên của các thế lực thù địch. Trong đó, lý luận mác-xít đã chỉ ra rằng, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kinh tế quyết định chính trị. Nhưng một điều hết sức quan trọng nữa cần nhắc lại là các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin không bao giờ xem kinh tế là yếu tố duy nhất. Như Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh: “Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”(5). Và sau này V. I. Lê-nin một lần nữa khẳng định “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Điều đó có nghĩa, chính trị hoàn toàn không chỉ là gương phản chiếu đời sống kinh tế, mà là sự “biểu hiện tập trung” của kinh tế. Chính trị phản ánh mang tầm khái quát, làm bộc lộ cái bản chất nhất của đời sống kinh tế, cái cơ bản nhất, cái mang tính chi phối trong đời sống kinh tế. Chính loại yếu tố đó quy định nội dung căn bản nhất của chính trị thuộc chủ thể cầm quyền. Cho nên, không phải kinh tế có kết cấu đa dạng như thế nào thì chính trị cũng có sự đa dạng tương ứng như thế. Hơn nữa, “trong những nước thực hiện đa nguyên chính trị, hay đa đảng chính trị, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại họ cũng không thể hiểu kinh tế có bao nhiêu thành phần thì chính trị có bấy nhiêu tổ chức chính trị khác nhau”(6). Hơn thế nữa, có những nước chỉ có một thành phần kinh tế hay một phương thức sản xuất nhưng lại có tới hai, thậm chí nhiều tổ chức chính trị khác nhau. Các tổ chức chính trị này đều thuộc cùng một giai cấp, nhưng họ lại luôn tranh giành quyền bính và chẳng khác nào như những lực lượng đối lập trong xã hội. Trong khi đó, thực tiễn lịch sử Việt Nam đã minh chứng, xét về mặt kinh tế, không hề có cơ sở để nảy sinh chế độ chính trị đa nguyên. Vì, trong các thành phần kinh tế ở nước ta, kinh tế tư bản (nhất là kinh tế tư bản tư nhân) chưa bao giờ giữ được vị trí thống trị. Chế độ phong kiến ở Việt Nam tồn tại hàng nghìn năm cũng không tạo ra được thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong lòng nó. Kinh tế tư bản chủ nghĩa kiểu thực dân ở nước ta được du nhập cùng với chế độ thuộc địa trước đây. Do đó, những nhà tư sản đầu tiên là tư sản Pháp, sau đó dần dần mới xuất hiện các nhà tư sản người Việt. Tuy nhiên, giai cấp tư sản này ngay khi mới hình thành đã bị tư sản Pháp chèn ép, cùng với đó là hoàn cảnh của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nên giai cấp tư sản Việt Nam bị phân hóa thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Trong đó, “tư sản mại bản gắn bó với đế quốc nước ngoài. Tư sản dân tộc chỉ phát triển rất hạn chế. Ngay cả những nhà tư sản yêu nước cũng không đủ sức lãnh đạo đất nước giành độc lập. Sứ mệnh này phải do giai cấp công nhân mà lực lượng tiên phong của nó là Đảng Cộng sản đảm nhận”(7). Qua 35 năm đổi mới, gắn với nền kinh tế nhiều thành phần, ở Việt Nam đã và đang định hình khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn mạnh, được Đảng và Nhà nước tôn trọng, khuyến khích phát triển, đem lại nhiều kết quả ích nước, lợi nhà, nhưng phần lớn vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ. Đội ngũ doanh nhân ngày càng đông đảo, có vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước. Nhưng cần thấy rằng, trong điều kiện có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì mối quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp (kể cả quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động trong doanh nghiệp tư nhân) không giống như trong chế độ do giai cấp bóc lột nắm chính quyền. Bằng hàng loạt các công cụ trong tay của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ hệ thống pháp luật, chính sách (quy hoạch, thuế, tín dụng, thương mại, đầu tư...), kinh tế nhà nước gắn với nguồn lực nhà nước (đất đai, đầu tư công, vốn trong doanh nghiệp nhà nước) đến các biện pháp hành chính, tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân,... bảo đảm phát huy mặt tích cực, giảm thiểu mặt tiêu cực của kinh tế tư nhân, giữ vững định hướng đóng vai trò quyết định bảo đảm cho sự thắng thế của yếu tố xã hội chủ nghĩa đối với yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, trong đó có yếu tố tư bản chủ nghĩa, vốn vẫn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh rất khó khăn, phức tạp. Mặt khác, cần khẳng định rằng, chúng ta thực hiện đổi mới nhưng kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đích thực. Đổi mới để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn chứ không phải quay lại chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường tự do, nhà nước pháp quyền (tư sản) và đa nguyên chính trị là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chúng ta không đi theo hướng đó vì nó không phù hợp và không đáp ứng nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”... Với những cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động, đầy thuyết phục nói trên, có thể nhất quán khẳng định, chúng ta thực hiện kinh tế đa thành phần nhưng vẫn bảo đảm nhất nguyên về chính trị, giữ vững vai trò và sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn hợp lý, đúng đắn. Đặc biệt, qua 35 năm đổi mới, “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8). Thành tựu đó là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, nhiều nhân tố, nhưng giữ vai trò quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, nổi bật là sự sáng tạo và độc đáo của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhất định trong quá trình nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, song nếu chỉ dựa vào những khiếm khuyết (mặt thứ yếu, không cơ bản) của vấn đề này mà lại vội vàng quy chụp cho rằng, ở Việt Nam chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; hoặc đổi mới chính trị “lệch pha” so với đổi mới kinh tế,... thì quả là một sự “ngụy biện” lố bịch; một sự xuyên tạc, bóp méo trắng trợn, thô thiển của các thế lực thù địch. Bởi vì, sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, sự thống nhất biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nét độc đáo riêng có của Việt Nam, hoàn toàn khác với Liên Xô, với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, và Trung Quốc hiện nay. Nếu như ở Liên Xô, ngay trong bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi vào cải tổ chính trị vô nguyên tắc, nêu ra “dân chủ hóa”, “công khai hóa”, thúc đẩy vô chính phủ, làm xuất hiện các lực lượng đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng khỏi Nhà nước, tách Nhà nước ra khỏi Đảng. Xét đến cùng, đây là sự vô hiệu hóa Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên bang Xô-viết. Ở Việt Nam, ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định: “Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị”(9); “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”(10); “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp”(11)... Điều đó có nghĩa, ở Việt Nam, đổi mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện, vô nguyên tắc mà theo một định hướng chính trị nhất định, một cơ sở khoa học đầy đủ. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vừa là cơ sở của nhau, vừa là điều kiện để triển khai sâu rộng và vững chắc công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đối ngoại, quốc phòng - an ninh,... Đổi mới, phát triển kinh tế tạo ra môi trường và điều kiện để củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, là nhân tố suy đến cùng quyết định sự ổn định chính trị - xã hội. Ngược lại, đổi mới chính trị tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế; đồng thời, tạo động lực và gia tăng sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế. Với những luận cứ, cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên chứng minh một cách rõ ràng rằng, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn song hành, hỗ trợ, bổ sung cho nhau; làm cơ sở, tiền đề, điều kiện của nhau; giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất hữu cơ với nhau. Một số yêu cầu đặt ra về đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta trong thời gian tới Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận xung quanh mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta đã, đang diễn ra khó khăn, phức tạp. Trong những năm tới, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu, với những diễn biến khó khăn hơn, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài,... đan xen một cách phức tạp. Đặc biệt là sự gia tăng những âm mưu, thủ đoạn chống phá tinh vi, xảo quyệt hơn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Tình hình đó đặt ra những yêu cầu cơ bản, cấp thiết đối với cuộc đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta như sau: Một là, tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức của hệ thống chính trị đối với sự nguy hại của những luận điệu sai trái, xuyên tạc bản chất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam. Vì sự nghiệp đổi mới càng được đẩy mạnh, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trở thành mối quan hệ lớn phải được nhận thức và xử lý đúng đắn hơn để tạo động lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Như Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới càng đi vào chiều sâu, trên quy mô rộng lớn, việc nhận thức đúng và xử lý tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị càng trở nên quan trọng và bức thiết. Giai đoạn tới, cần đặt đúng vị trí vấn đề đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế phải đồng bộ, phù hợp, có bước đi thích hợp,... để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững”(12). Trong khi đó, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận nói chung, đấu tranh phản bác những quan điểm xuyên tạc mối quan hệ này nói riêng là một hoạt động khó khăn, nhạy cảm, do đó, cần được lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chặt chẽ trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc của mọi tổ chức, lực lượng. Chỉ có trên cơ sở tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức mới làm cho các tổ chức, các lực lượng xã hội có thái độ đúng, ủng hộ, đồng thuận với Đảng, không bị kẻ xấu lôi kéo, thao túng và phát huy đầy đủ trách nhiệm trong tham gia vào cuộc đấu tranh phản bác, từ đó mới bảo đảm cho nhiệm vụ này được tiến hành một cách chủ động, tích cực, có chất lượng và mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn. Tránh không mơ hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác; nhưng không tuyệt đối hóa, chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Hai là, tiếp tục có những đột phá mới trong tư duy lý luận của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, vấn đề đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam phải tích cực nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thường xuyên tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước; bám sát sự vận động, biến đổi của tình hình trong nước, quốc tế để từng bước nhận thức đầy đủ, sáng rõ. Tức là, những vấn đề trên đây đã, đang đòi hỏi ở Đảng ta một tư duy lý luận không chỉ mang tính sáng tạo, độc đáo mà còn có khả năng đột phá và mang lại hiệu quả cao hơn nữa trong việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây không chỉ là phương thức hữu hiệu nhất để đấu tranh phê phán, bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chung quanh mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, mà còn trở thành tiền đề trực tiếp, cơ sở khoa học, kim chỉ nam dẫn dắt cho thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng trong thời gian tới. Ba là, tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực của lực lượng chuyên trách đấu tranh tư tưởng, lý luận nói chung, phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam nói riêng. Tham gia vào cuộc đấu tranh này là trách nhiệm chính trị của các cấp, các ngành, chứ không chỉ là công việc, nhiệm vụ của riêng ai. Tuy nhiên, để giữ thế chủ động, đấu tranh kịp thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả đấu tranh đòi hỏi phải xây dựng một lực lượng chuyên trách giữ vai trò nòng cốt, xung kích. Trong điều kiện hiện nay, cần tích cực bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ mọi mặt của lực lượng này. Bởi thực tiễn đã chứng minh, lực lượng chuyên trách cũng như bất kỳ cá nhân, tổ chức, lực lượng nào đều không thể đấu tranh có hiệu quả với những quan điểm, tư tưởng, lý luận sai trái, các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam với một bản lĩnh chính trị non yếu và trên một nền tảng lý luận nghèo nàn; một hệ thống tri thức không đầy đủ, xa rời những vấn đề thực tiễn đang diễn ra... Do vậy, yêu cầu vừa có tính cấp thiết, vừa cơ bản lâu dài là cần tiếp tục bồi dưỡng lực lượng chuyên trách đấu tranh tư tưởng, lý luận một cách toàn diện, trước tiên phải đào luyện họ trở thành những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ tư duy lý luận cao, có phương pháp luận chiến nhạy bén, sắc sảo; thậm chí là những chuyên gia giỏi cả về lý luận lẫn chuyên môn, nghiệp vụ, những cây bút chiến sắc bén, am hiểu thời cuộc./.

Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đó là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường của các nước trên thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều quan điểm khác biệt, thậm chí là trái ngược, xuyên tạc, gây cản trở đến quá trình thực hiện mô hình kinh tế này ở Việt Nam. Do vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) xác định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước ra sức chống phá, xuyên tạc rằng, không có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; gán ghép định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn; nếu bỏ “cái đuôi” định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế đất nước còn phát triển nhanh hơn, đạt được kết quả còn lớn hơn nhiều (?!). Các thế lực thù địch còn cho rằng, phải có sự chuyển hướng, “xoay trục” phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, theo nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vì kinh tế thị trường vốn là của chủ nghĩa tư bản, vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư bản, không thể dung hòa và kết hợp với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, với định hướng xã hội chủ nghĩa (?!). Nếu “ghép” định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường thì chẳng khác nào “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, “nước với lửa”, tạo thành “đầu Ngô mình Sở”, chỉ mang đến những thất bại (?!). Chúng suy diễn rằng, dường như Việt Nam đã, đang “xoay trục” sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng tư bản chủ nghĩa bằng việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng sự điều tiết của thị trường, mặc dù vẫn tuyên truyền bằng cách sử dụng các từ ngữ, khái niệm của chủ nghĩa xã hội (?!). Những luận điệu trên thực chất là mưu đồ đen tối, cố tình xuyên tạc đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; gây tâm lý hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội. Đây là những luận điệu hết sức phản khoa học, không có cơ sở lý luận và thực tiễn.

Luận cứ phê phán, bác bỏ quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc

Thứ nhất, phê phán, bác bỏ luận điệu cho rằng, không thể có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một là, luận điệu trên đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cho rằng, chỉ có một loại kinh tế thị trường là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đây là luận điểm sai lầm. Nguồn gốc và bản chất của kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa. Các phạm trù (giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ), quy luật (giá trị, cạnh tranh, cung - cầu) của kinh tế hàng hóa cũng là các phạm trù, quy luật của kinh tế thị trường. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản, được chủ nghĩa tư bản sử dụng để phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thời kỳ đầu mới ra đời là kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, chưa có hoặc rất ít sự can thiệp của nhà nước. Sự điều tiết của thị trường - “bàn tay vô hình”, ngoài những mặt tích cực còn đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế chu kỳ, đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình” để hạn chế, khắc phục những khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường. Ngày nay, nền kinh tế thị trường hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi “bàn tay hữu hình”. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung định hướng can thiệp của nhà nước. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, không phải là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng kinh tế thị trường làm cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình. Đến nay, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế thị trường ở các nước tư bản phát triển, như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh tế thị trường phối hợp ở Nhật Bản,… Các mô hình kinh tế thị trường này, ở những mức độ khác nhau, dù được thừa nhận hay không thừa nhận, đều khách quan có các nhân tố xã hội chủ nghĩa. Đây là xu hướng tiến bộ, là những mầm mống của chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng các nước tư bản phát triển. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước kinh tế chưa phát triển, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển, từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mô hình này là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Hai là, sẽ là sai lầm khi cho rằng, các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn đối lập nhau, loại trừ nhau. Nền kinh tế thị trường phải vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường, như quy luật cạnh tranh, giá trị, cung - cầu,… trong đó quy luật giá trị là trung tâm. Đặc trưng của kinh tế thị trường là cạnh tranh, các chủ thể kinh tế luôn cạnh tranh với nhau để chiếm các nguồn lực sản xuất, dự án đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là sức ép, động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, hợp lý hóa tổ chức sản xuất; ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tăng năng suất lao động; đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; qua đó, thúc đẩy kinh tế phát triển, thanh lọc các chủ thể kinh tế yếu kém. Mặt tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh là làm hàng giả, trốn thuế, chuyển giá, gây ô nhiễm môi trường, ăn cắp công nghệ… Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhất là ở các nước phát triển hiện nay, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, thúc đẩy, tôn trọng cạnh tranh lành mạnh; ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở cạnh tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh; điều tiết và giải quyết các thất bại của thị trường. Quy luật giá trị là quy luật trung tâm, cơ bản của kinh tế thị trường. Giá trị hàng hóa là lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hóa. Chi phí để sản xuất hàng hóa, xét đến cùng là chi phí lao động, bao gồm lao động sống (lao động của người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa) và lao động quá khứ (lao động chi phí để sản xuất ra các tư liệu sản xuất được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa này). Lượng giá trị là hao phí lao động xã hội cần thiết (hao phí lao động ở mức trung bình của xã hội, năng suất lao động trung bình, cường độ lao động trung bình, được hình thành do cạnh tranh). Giá trị biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá trị là hình thái của cải trong nền kinh tế thị trường, là mục tiêu, là yếu tố chi phối mọi hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Tác động tích cực của quy luật giá trị là thúc đẩy chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, không ngừng hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ,… Tác động tiêu cực là khủng hoảng chu kỳ, phân hóa xã hội, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường,… Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhà nước vận dụng quy luật giá trị thông qua việc tạo khung khổ pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và điều kiện thuận lợi cho quy luật giá trị vận động để phát huy mặt tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực. Giới thiệu sản phẩm với khách tham quan tại “Tuần lễ triển lãm sản phẩm doanh nghiệp Việt” ở Thành phố Hồ Chí Minh _ Ảnh: TTXVN Sự điều tiết của quy luật cung - cầu được thể hiện khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống; khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả hàng hóa là tín hiệu của thị trường để các chủ thể kinh tế chuyển hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, từ nơi thừa đến nơi thiếu, để các nhà sản xuất thu hẹp hay dừng sản xuất các hàng hóa thừa khi cung lớn hơn cầu, tăng cường, mở rộng sản xuất các hàng hóa thiếu khi cung nhỏ hơn cầu. Đó chính là sự tự điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa linh hoạt, nhanh nhạy của cơ chế thị trường, là mặt tích cực của quy luật cung - cầu. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, những người sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chạy theo lợi nhuận tối đa, luôn muốn đè ép đối thủ nên dẫn đến sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ, tác động tiêu cực tới nền kinh tế, gây bất ổn xã hội. Đây là mặt trái của quy luật cung - cầu và cơ chế tự điều tiết của thị trường. Nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, sự can thiệp của nhà nước là để khắc phục những khiếm khuyết này, khắc phục những mất cân đối lớn, khủng hoảng chu kỳ do tự điều tiết của cơ chế thị trường gây ra. Các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới hiện nay đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước. Nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng, tạo môi trường hoạt động cho các quy luật kinh tế thị trường; vừa hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, tự phát do các quy luật kinh tế thị trường gây ra; giữ môi trường ổn định cho phát triển kinh tế và hướng sự phát triển kinh tế vào các mục tiêu xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm đến an sinh xã hội. Tuy nhiên, dù nhà nước tư bản có sự điều chỉnh, điều tiết đến đâu thì bản chất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn là phục vụ cho thiểu số lợi ích của giai cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động; và khi nó còn tồn tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì những mâu thuẫn đối kháng của xã hội tư bản chủ nghĩa do khuyết tật của nền kinh tế thị trường tạo ra không những không mất đi mà ngày càng gia tăng và thêm gay gắt. Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ…; vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường,… Trong điều kiện đó, các quy luật của kinh tế thị trường vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường; thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,… Các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường gắn với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước,… Nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo không mâu thuẫn, đối lập, không cản trở hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường, mà tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của các quy luật, để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, chắc chắn rằng, các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không đối lập nhau, không loại trừ nhau trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thứ hai, phê phán, bác bỏ luận điệu cho rằng, có sự chuyển hướng, “xoay trục” về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chỉ căn cứ vào việc phát triển kinh tế tư nhân và điều tiết kinh tế bằng các quy luật của thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội để quy chụp Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa là sai lầm, chưa thấy hết được những nguyên tắc, bản chất, nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong từng giai đoạn cũng như trong cả chặng đường. Luận điệu này là phi thực tiễn và chưa hiểu bản chất và nội dung của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam khi đồng nhất một nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của một giai đoạn, một bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội với toàn bộ mục tiêu chung, mô hình tổng quát và nguyên tắc, bản chất trong cả chặng đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc xác định một nền kinh tế là “chủ nghĩa xã hội” hay “tư bản chủ nghĩa” không thể dựa vào tiêu chí về kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường, mà quan trọng hơn là phải dựa vào tiêu chí về mục tiêu phát triển nền kinh tế; bản chất, nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế; quá trình hình thành, phát triển của nền kinh tế,... Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từng bước được hoàn thiện, phát triển qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường của các nước có nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển, trong đó kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, bình đẳng trước pháp luật, với các thành phần kinh tế khác. Tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân nhưng không đồng nhất với “tư nhân hóa” nền kinh tế trong nền kinh tế nước ta; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường. Do đó, tuyệt đối không có cái gọi là “xoay trục” hay “chuyển hướng” trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Mặt khác, việc xác định một nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa không chỉ dựa vào tiêu chí về sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường mà còn phải dựa vào tiêu chí về mục tiêu phát triển nền kinh tế là vì ai, giai cấp, tầng lớp nào; nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó là gì; quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế đó như thế nào; ai là người chủ thực sự của nền kinh tế đó?... Do vậy, giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có sự khác nhau căn bản và điểm khác biệt rõ nhất là, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, người làm chủ là giới chủ tư bản, là giai cấp tư sản, còn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, người làm chủ là toàn thể nhân dân có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, phát triển nền kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt; kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể; huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh, đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh và chất lượng, hiệu quả được cải thiện… Nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá, Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới; là điểm sáng trên toàn cầu trong việc thực hiện thành công “mục tiêu kép”, vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân. Những kết quả đó là minh chứng thuyết phục, tự nó đanh thép phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta./.

Hà Nội thêm 84 người nghi Covid-19, Quảng Bình định lập thêm khu cách ly

Sở Y tế Hà Nội ghi nhận 51 ca dương tính nCoV sáng 28/8, nâng tổng số ca ghi nhận trong ngày lên 84. Quảng Bình thêm 31 ca, định lập thêm 2-3 khu cách ly và tính phương án cách ly tại nhà. Bộ Y tế chưa ghi nhận, vì vậy xem như nghi nhiễm. Tại Hà Nội, trong các ca nhiễm mới, có một ca cộng đồng tại quận Hai Bà Trưng, nam, 28 tuổi. Anh là công an tham gia trực chốt phong tỏa tại phường Thổ Quan, bị sốt, ngạt mũi từ 26/8, nghỉ ở nhà ngày 27/8, đến 28/8 xét nghiệm dương tính. 50 ca nhiễm còn lại ghi nhận ở quận, huyện gồm Thanh Xuân, Đống Đa, Ba Đình, Hà Đông, Đông Anh, Hoàn Kiếm, Thanh Trì, Hoàng Mai, đã cách ly. Trong đó, phường Thanh Xuân Trung tiếp tục ghi nhận thêm 29 ca nhiễm. Sáng 28/8, 33 ca mới được ghi nhận gồm 32 người thuộc chùm ho sốt; một người phát hiện thông qua sàng lọc ho sốt là nhân viên y tế, 32 tuổi, địa chỉ ở Nguyên Khê, Đông Anh. Người này hai tuần qua không đi ra khỏi địa phương. Trong số ca mới, có 25 ca thuộc ổ dịch tại Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân; một gia đình 4 người ở Kim Mã, Ba Đình sống trong khu phong tỏa. Tính từ đầu đợt dịch thứ tư, Hà Nội ghi nhận 3.042 ca nhiễm (không tính số ca tại bệnh viện tuyến trung ương) trong đó có 1.533 ca nhiễm cộng đồng, 1.509 ca ghi nhận tại khu cách ly. Ổ dịch tại Thanh Xuân Trung ghi nhận 217 ca nhiễm từ 23/8 và có xu hướng tiếp tục tăng.Từ 18h tối 28/8 đến 6h sáng 29/8, tỉnh Quảng Bình ghi nhận thêm 31 ca dương tính nCoV, trong đó 30 ca nhiễm cộng đồng, ở các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch và TP Đồng Hới. Tổng số ca nhiễm ở tỉnh này lên đến 411 ca, với hơn 4.900 F1, gần 7.000 F2. Trước tình hình ca nhiễm và F1 liên tục được phát hiện trong cộng đồng những ngày gần đây, TP Đồng Hới đang nghiên cứu để cách ly F1 tại nhà. "Thành phố đang nghiên cứu cách ly F1 tại nhà, nhằm chuẩn bị đầy đủ cho các tình huống. Tuy nhiên, hiện vẫn chú trọng cách ly F1 tập trung", ông Hoàng Ngọc Đan, Chủ tịch UBND TP Đồng Hới cho hay. Ông Đan cho hay, cái khó trong cách ly F1 tại nhà là việc rà soát các đối tượng F1 theo quy định của Bộ Y tế rất phức tạp, không phải ai cũng đủ tiêu chuẩn cách ly tại nhà. Hiện, TP Đồng Hới ghi nhận 158 ca dương tính nCoV, với gần 1.400 F1, hơn 1.100 F2. Thành phố có 4 khu cách ly tập trung, đang cách ly hơn 2.100 người, cách ly người nhiều địa phương khác trong tỉnh. Ông Đan cho hay đang gấp rút tìm địa điểm, mở rộng thêm 2-3 khu cách ly nữa.

Bộ trưởng Y tế: 'Số ca nhiễm tăng, tử vong đã giảm'

Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long nhận định số ca nhiễm mới cộng đồng theo ngày tăng do các địa phương tăng cường xét nghiệm diện rộng, song số tử vong đang giảm nhờ biện pháp "gói điều trị tại nhà", trạm y tế lưu động... Sáng 29/8, báo cáo Thủ tướng Phạm Minh Chính trong cuộc họp trực tuyến Ban chỉ đạo chống dịch với 1.060 xã, phường, thị trấn tại 20 tỉnh, thành phố, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết từ ngày 19/7 đến nay, tại 23 địa phương thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16 đã ghi nhận 343.686 ca nhiễm. Trong giai đoạn tăng cường giãn cách xã hội từ ngày 22/8 đến 28/8, tại 23 địa phương ghi nhận 78.147 ca mắc. "Số mắc mới trong cộng đồng theo ngày có xu hướng gia tăng do các địa phương đang tăng cường xét nghiệm diện rộng", Bộ trưởng lý giải. So với tuần trước đó, 13 địa phương có số ca mới tăng, trong đó Bình Dương tăng 1,5 lần với 14.689 ca và gấp 2 lần số ca nhiễm tăng của 12 tỉnh còn lại cộng lại. 10 địa phương ghi nhận số ca giảm so với tuần trước đó là Long An, Đồng Tháp, Khánh Hòa, Tây Ninh, Cần Thơ, Phú Yên, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng. Nhận định chung, ông Long cho rằng "dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp". TP HCM, Bình Dương số ca mắc mới vẫn ở mức cao (với khoảng 50% ghi nhận tại cộng đồng) và vẫn có xu hướng gia tăng do đang tăng cường thực hiện xét nghiệm trên diện rộng. Tại Long An, Tiền Giang, số ca mắc tại cộng đồng đã có xu hướng giảm nhưng vẫn đang ở mức cao (chiếm khoảng 30-50%). Các tỉnh còn lại tại khu vực miền Nam, tình hình dịch đang từng bước được kiểm soát, theo Bộ trưởng Long. Số ca mắc được phát hiện qua sàng lọc tại cộng đồng (khoảng 7-15%) có xu hướng giảm dần. Các tỉnh như Hậu Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Bình Phước, Sóc Trăng, Bến Tre có số ca mắc tại cộng đồng thấp, trung bình dưới 20 ca/ngày, đa số rõ nguồn lây. Hà Nội và các tỉnh miền Trung như Đà Nẵng, Khánh Hòa, Phú Yên, dịch bệnh "cơ bản vẫn đang trong tầm kiểm soát" do thực hiện quyết liệt các biện pháp kiểm soát và thực hiện giãn cách xã hội sớm, kịp thời. "Tuy nhiên, nguy cơ bùng phát dịch bệnh vẫn luôn tiềm ẩn nên vẫn có thể ghi nhận thêm các ổ dịch mới", Bộ trưởng đánh giá. Tại TP HCM, Bộ trưởng cho biết ca tử vong tăng nhanh trong tuần từ giữa tháng 7, cao nhất vào tuần thứ 2 và thứ 3 tháng 8. Xu hướng này giống nhau giữa các tầng điều trị và đang giảm do hiệu quả bước đầu triển khai tích cực các biện pháp như: Gói điều trị F0 tại nhà, 411 trạm y tế lưu động; hỗ trợ, hội chẩn, chỉ đạo chuyên môn từ Trung tâm hồi sức tầng 3 xuống các bệnh viện quận/huyện và bệnh viện dã chiến; vận hành các trung tâm hồi sức (tầng 3). "Các giải pháp đã có hiệu quả giảm số ca tử vong, mặc dù số ca phát hiện vẫn khá lớn, cao hơn trung bình những ngày trước khi triển khai xét nghiệm diện rộng", Bộ trưởng nói. Về tiêm chủng vaccine, Bộ trưởng Long cho biết, tính đến ngày 28/8, cả nước đã tiêm được 19.223.460 liều. Tính đến 26/8, 19 tỉnh phía Nam đã được cấp 12.306.010 liều vaccine, trong đó đã triển khai tiêm chủng được 10.551.088 liều (đạt 85,7%), gồm 9.900.585 mũi 1 và 650.503 mũi 2. Riêng TP HCM đã tiêm chủng được 5.786.586 liều vaccine (đạt 81,6%), trong đó 5.598.834 mũi 1 và 187.752 mũi 2. Các địa phương đang tiếp nhận 810.150 liều vừa được phân bổ. Bộ trưởng cho biết thời gian qua đã huy động tổng lực ngành y tế cho TP HCM và các tỉnh, thành phố phía Nam, với hơn 16.000 y, bác sĩ và cán bộ y tế. Bộ Y tế đã điều động số lượng lớn trang thiết bị, máy thở, vật tư thuốc men cho các địa phương này. Thiết lập và vận hành hiệu quả 11 trung tâm hồi sức bệnh nhân nặng tại khu vực phía Nam, riêng TP HCM đã có 6 Trung tâm - Trung tâm thứ 6 đặt tại Bệnh viện Dã chiến đa tầng quận Tân Bình do Bệnh viện Thống Nhất điều hành - với lượng lớn số giường cấp cứu "và đã có những kết quả tích cực trong việc giảm tử vong", theo Bộ trưởng Long.

Khai báo 'di chuyển nội địa' thực hiện trở lại ở TP HCM

Sau 15 ngày tạm ngưng, lực lượng làm nhiệm vụ tại các chốt kiểm soát khu vực nội đô đồng loạt kiểm tra việc khai báo "di chuyển nội địa", sáng 29/8. Tại chốt kiểm soát trên đường Đinh Bộ Lĩnh gần Bến xe Miền Đông (quận Bình Thạnh), khoảng 10 cảnh sát giao thông, công an địa phương, quân đội... được huy động. Ngoài giấy đi đường, người qua chốt được lực lượng chức năng yêu cầu kiểm tra khai báo di chuyển nội địa tại suckhoe.dancuquocgia.gov.vn, nhằm giám sát hành trình đi lại, khai báo y tế... Các giấy in mã QR được dán tại nhiều vị trí xung quanh chốt, để người dân dùng camera điện thoại quét, sau đó vào trang web khai báo. Cảnh sát cũng cầm giấy có mã QR và hướng dẫn, hỗ trợ người dân điền thông tin. Sau khi hoàn tất, một mã QR khác sẽ hiển thị và lực lượng chức năng dùng điện thoại quét để đối chiếu thông tin. Khi hợp lệ, người dân được đi qua. Tuy không xảy ra tình trạng dồn ứ, nhưng nhiều người chưa khai báo trước tại nhà mà đến chốt mới thực hiện nên tốn nhiều thời gian. Một số trường hợp không có điện thoại thông minh, điện thoại không sử dụng 3G, 4G kết nối Internet nên phải khai báo bằng giấy, tốn chừng 10 phút. Trong khi khá nhiều người đã khai báo trước đó rồi chụp lại màn hình điện thoại có mã QR, lực lượng chức năng tại chốt chỉ mất chừng 30 giây để quét thông tin. "Cơ bản nhiều người đã nắm thông tin, chủ động khai báo tại nhà và không còn lúng túng nhiều như trước. Lượng xe chạy trên đường cũng khá vắng nên giao thông tại chốt thông thoáng", đại uý Nguyễn Phú Trung, cán bộ ở chốt kiểm soát nói và cho rằng hiện dịch bệnh phức tạp nên việc khai báo này sẽ giúp quản lý, giám sát đi lại tốt hơn. Cách đó hơn 3 km tại chốt trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (quận 1), các xe đi qua cũng được phân làn để kiểm tra giấy đi đường cùng việc khai báo "di chuyển nội địa". Một số người vẫn còn lúng túng trước các thao tác quét mã và khai báo trên website, hành trình đi lại, phải chờ lực lượng kiểm soát hướng dẫn. Một số trường hợp do trời nắng gây chói sáng, camera điện thoại bị mờ khó quét mã QR nên việc khai báo mất nhiều thời gian. "Mấy ngày nay chỉ xuất trình giấy đi đường cùng giấy tờ tuỳ thân nên giờ phải khai báo thêm việc 'di chuyển nội địa' nên tôi khá bất ngờ", anh Thanh, một người đi qua giao hàng nói và cho biết khai báo không quá khó, chỉ mất vài phút. Yêu cầu khai báo di chuyển nội địa tại các chốt nội đô TP HCM thực hiện hôm 14/8 và tạm ngưng sau hơn một ngày do ùn ứ giao thông, không đảm bảo yêu cầu phòng dịch. Riêng 12 chốt chính ở khu vực cửa ngõ thành phố, yêu cầu khai báo này áp dụng từ hôm 12/8 và thực hiện xuyên suốt đến nay. Hôm qua, tại buổi họp báo thông tin tình hình phòng chống Covid-19 trên địa bàn, thượng tá Lê Mạnh Hà, Phó phòng Tham mưu Công an TP HCM, cho biết yêu cầu khai báo này được Công an thành phố tiếp tục triển khai nhằm phục vụ kiểm tra, giám sát chặt chẽ đi lại cũng như việc sử dụng giấy đi đường. "Hiện lưu lượng xe chỉ bằng 10% so với ngày thường, tình trạng ùn ứ sẽ không xảy ra", thượng tá Hà nói và khuyến cáo trước khi đi đường, người dân nên khai báo, chụp lại màn hình điện thoại có mã QR để lực lượng tại chốt kiểm tra, tránh tập trung đông. Phần mềm khai báo "di chuyển nội địa" được Bộ Công an triển khai để quản lý công dân vùng dịch thông qua kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Phần mềm sẽ thống kê tình hình người dân ra, vào vùng dịch hàng ngày; truy vết người nghi vấn F0, F1, F2 khi cần thiết. Sau khai báo thành công, người dùng sẽ được cấp một mã QR và có thể dùng trong 3 ngày, sau đó phải khai báo lại. TP HCM siết chặt giãn cách xã hội theo nguyên tắc "ai ở đâu ở yên đó" từ ngày 23/8 và hiện chỉ một số nhóm công việc được phép ra đường. Giấy thông hành do Công an TP HCM in, ký, đóng dấu, cấp cho cá nhân thuộc các nhóm được đi lại. Hiện, lượng xe chạy ngoài đường ở thành phố giảm gần 90% so với trung bình ngày thường và giảm 25% so với ngày 22/8. Đến tối 28/8, TP HCM ghi nhận 204.964 ca nhiễm trong đợt dịch bùng phát thứ tư.

"LẤY XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN, XÍ NGHIỆP LÀM PHÁO ĐÀI, NGƯỜI DÂN LÀ CHIẾN SĨ"

 

   Sáng 29/8, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 chủ trì cuộc họp trực tuyến của Ban Chỉ đạo với 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 1.060 xã, phường, quận, huyện, thị xã, thị trấn đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ để quán triệt thực hiện nghiêm các Công điện số 1099 và 1102/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và bàn giải pháp trọng tâm thời gian tới trong phòng, chống dịch Covid-19.

   Cùng dự tại điểm cầu Trụ sở Chính phủ có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Quốc phòng; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Công an; các đồng chí Bí thư T.Ư Đảng: Bùi Thị Minh Hoài, Trưởng Ban Dân vận T.Ư; Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư; Đỗ Văn Chiến, Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam; Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Chính phủ; các đồng chí Ủy viên T.Ư Đảng: Lê Văn Thành, Phó Thủ tướng Chính phủ; Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc hội. Tại điểm cầu TP Hồ Chí Minh có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam.

   Phát biểu ý kiến mở đầu phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, vừa qua, Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành 2 Công điện quan trọng về phòng, chống dịch là 1099 và 1102/CĐ-TTg; quá trình này luôn có kế thừa, bổ sung, đổi mới, nhưng thời điểm này, có điểm rất mới là chúng ta lấy xã, phường, thị trấn, xí nghiệp làm pháo đài, người dân là chiến sĩ.

   Thủ tướng nêu rõ, trong quá trình triển khai, các đồng chí thấy có điểm gì cần điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, có bài học kinh nghiệm gì hay, thấy gì từ thực tiễn thì phổ biến; đồng thời có gì chưa được thì cũng phản ánh, nhất là các xã, phường; có đề xuất gì với T.Ư, tỉnh, thành phố, quận, huyện.

   * Tại cuộc họp, Bộ Y tế cho biết, hoạt động giãn cách xã hội đã đạt được những kết quả nhất định, số lượng người dân di chuyển trên đường phố giảm rõ rệt, nhất là tại TP Hồ Chí Minh, lưu lượng người di chuyển trên đường đã giảm 90% so trước khi thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg và giảm 25% so với ngày 22/8.

   Đánh giá sự tuân thủ Chỉ thị số 16/CT-TTg thông qua sự di chuyển của thuê bao di động (ngày 25/8) tại Hà Nội, Đà Nẵng và 18 tỉnh khu vực phía nam cho thấy, tỷ lệ thuê bao di động ở trạng thái “đứng yên” dao động trong khoảng 42 - 72%, ghi nhận tỷ lệ cao nhất tại TP Hồ Chí Minh (72,46%). Đánh giá theo hệ số tuân thủ quãng đường di chuyển trung bình (ngày 25/8), các tỉnh, thành phố trên có hệ số tuân thủ từ 31 - 71%, ghi nhận tỷ lệ cao nhất tại Đà Nẵng (71,2%). 

   Xác định công tác bảo đảm an sinh xã hội là trọng yếu, các bộ, ngành, địa phương tích cực phối hợp triển khai, đặc biệt trong giai đoạn tăng cường giãn cách xã hội để bảo đảm cung ứng hàng hóa thiết yếu, lương thực, thực phẩm cho người dân để yên tâm thực hiện giãn cách. Triển khai các giải pháp hỗ trợ đến từng gia đình, người dân như: phát túi an sinh miễn phí, “đi chợ hộ” với sự tham gia hỗ trợ của lực lượng quân đội, công an (tại TP Hồ Chí Minh), Tổ hậu cần địa phương, Tổ Covid-19 cộng đồng, lực lượng tình nguyện viên...

   Đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Các địa phương khu vực phía nam đã triển khai Nghị quyết số 68/NQ-CP với số kinh phí chiếm 72,5% so cả nước; toàn bộ 19 tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch hỗ trợ và bổ sung các nhóm đối tượng với các chính sách riêng, phù hợp với từng địa phương như người lao động bán vé số, xe ôm truyền thống, người buôn bán hàng rong, người làm việc trong các cơ sở kinh doanh không có hợp đồng lao động; giảm giá tiền điện….

   Tính đến 26/8, cả nước có hơn 11 triệu người lao động được giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất cho 45.000 người lao động; hơn 77.200 lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được hỗ trợ tiền mặt; gần 37.000 hộ kinh doanh bị tạm dừng hoạt động được hỗ trợ; gần 1,2 triệu người lao động tự do trong cả nước đã được nhận hỗ trợ với tổng kinh phí gần 2.180 tỷ đồng...

   Công tác xét nghiệm: tính đến ngày 27/8, cả nước đã thực hiện xét nghiệm RT-PCR cho 34.974.519 lượt người, trong đó từ 29/4 đến nay, đã thực hiện xét nghiệm RT-PCR cho 31.447.580 lượt người.

   Từ ngày 22/8, các địa phương TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An thực hiện tăng cường giãn cách xã hội và tăng cường triển khai lấy mẫu xét nghiệm trên diện rộng, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương đã xét nghiệm nhanh cho hơn 1,5 triệu người; Đồng Nai, Long An đã xét nghiệm cho khoảng gần 1 triệu người, trong đó Bình Dương đã thực hiện 3 đợt xét nghiệm diện rộng; Đồng Nai, Long An đã thực hiện 2 đợt xét nghiệm diện rộng.

   Về công tác điều trị, giảm tử vong: tại TP Hồ Chí Minh, xu hướng tử vong tăng nhanh trong tuần từ giữa tháng 7 và cao nhất vào tuần thứ 2 và thứ 3 tháng 8/2021. Xu hướng này giống nhau giữa các tầng điều trị và hiện đang có xu hướng giảm do hiệu quả bước đầu triển khai tích cực các biện pháp như: triển khai gói điều trị F0 tại nhà, trạm y tế lưu động (411 trạm y tế tại TP Hồ Chí Minh); hỗ trợ, hội chẩn, chỉ đạo chuyên môn từ Trung tâm hồi sức tầng 3 xuống các bệnh viện quận/huyện và bệnh viện dã chiến; vận hành các trung tâm hồi sức (tầng 3).

   Các giải pháp đã có hiệu quả giảm số ca tử vong; mặc dù số ca phát hiện vẫn khá lớn, cao hơn trung bình những ngày trước khi triển khai xét nghiệm diện rộng.

   Ngày 26/8, Bộ Y tế đã phối hợp với TP Hồ Chí Minh triển khai chương trình thuốc điều trị có kiểm soát tại cộng đồng cho các trường hợp nhiễm bệnh; đã thực hiện cấp phát 16.000 liều thuốc điều trị, giảm virus cho 16.000 người bệnh Covid-19.

   Về tiêm chủng vaccine, tính đến ngày 28/8, cả nước đã tiêm được 19.223.460 liều. Tính đến 26/8, 19 tỉnh phía nam, đã cấp 12.306.010 liều vaccine, trong đó đã triển khai tiêm chủng được 10.551.088 liều (đạt 85.7%), gồm có 9.900.585 liều mũi 1 và 650.503 liều mũi 2.

   Riêng TP Hồ Chí Minh đã triển khai tiêm chủng được 5.786.586 liều (đạt 81.6%), trong đó có 5.598.834 liều mũi 1 và 187.752 liều mũi 2. Các địa phương đang triển khai tiếp nhận 810.150 liều vừa được phân bổ.

   Về huy động nguồn lực: Bộ Y tế đã huy động tổng lực ngành y tế cho TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố phía nam. Nhân lực y tế đã huy động hơn 16.000 y, bác sĩ và cán bộ y tế hỗ trợ cho khu vực phía nam; điều động số lượng lớn các trang thiết bị, máy thở, vật tư thuốc men cho các địa phương này; thiết lập và vận hành hiệu quả 11 trung tâm hồi sức bệnh nhân nặng tại khu vực phía nam, riêng TP Hồ Chí Minh đã có 6 Trung tâm với lượng lớn số giường cấp cứu và đã có những kết quả tích cực trong việc giảm tử vong.../.

VACCINE TỐT NHẤT LÀ VACCINE TIÊM SỚM NHẤT

 

   Việc có nhiều loại vaccine được sử dụng trong chiến dịch tiêm chủng phòng, chống dịch Covid-19 làm cho nhiều người dân băn khoăn, chờ đợi lựa chọn loại này, không sử dụng loại kia... Trong bối cảnh dịch đang bùng phát thì việc tiêm vaccine kết hợp thông điệp 5K được cho là biện pháp duy nhất nhằm khống chế sự lây lan.

   Thời gian qua, đâu đó xảy ra hiện tượng một số người chờ đợi, nhờ vả, can thiệp để được tiêm loại vaccine như mong muốn. Trên mạng xã hội đã lan truyền những thông tin không đúng, không đầy đủ về tác dụng của vaccine phòng Covid-19... dẫn đến nhiều người dân so sánh, cho rằng vaccine này tốt hơn vaccine kia; vaccine này tiêm vào sẽ không có phản ứng, vaccine kia tiêm vào có nhiều tác dụng phụ không tốt... Chính vì thông tin nêu trên, nhiều người dân do dự, trì hoãn việc tiêm vaccine khi có cơ hội. Việc trì hoãn đó, đã làm cho số ca mắc mới tăng đáng kể, đây chính là điều kiện giúp virus tiếp tục lây lan  nhanh  gây thiệt hại về người và của.

   Vậy câu hỏi được nêu ra là vaccine nào an toàn và tốt nhất? Trả lời câu hỏi này, TS Kidong Park, Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam cho biết: Không có khái niệm vaccine nào tốt nhất, bởi khi WHO phê duyệt vào danh sách vaccine phòng Covid-19 sử dụng khẩn cấp, thì vaccine đó bắt buộc phải đạt tỷ lệ: bảo vệ, an toàn, miễn dịch từ 80 đến 95% mới được cấp phép.

   Hiện, có hàng chục loại vaccine phòng Covid-19 đang được triển khai phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, mới có bảy loại được WHO phê duyệt vào danh sách sử dụng khẩn cấp. WHO đang giám sát chặt chẽ, hiệu quả của các loại vaccine này trong thực tế, bao gồm cả ảnh hưởng của các biến thể đáng lo ngại lên hiệu quả của vaccine. Tất cả các vaccine này đang có hiệu quả rất tốt trong việc phòng ngừa, giảm triệu chứng nặng và tử vong. Do đó, người dân hãy tiêm bất kỳ loại vaccine nào có sẵn khi đến lượt. Cho đến thời điểm này, vaccine tiếp tục là công cụ bảo vệ người dân khỏi mắc bệnh nặng và tử vong khi đối mặt với biến thể Delta.

   Làn sóng dịch Covid-19 đang bùng phát tại nhiều nước, tỷ lệ nhiễm và chết tăng đột biến, phần lớn những trường hợp nhiễm mới là chưa tiêm vaccine bởi nhiều lý do. Có những trường hợp khi hấp hối trên giường bệnh đã làm video khuyến cáo người thân, người dân đất nước mình và thế giới với lời nhắn nhủ:

   Hãy tiêm bất kỳ loại vaccine nào có sẵn khi đến lượt; đừng như tôi, đừng để thốt lên “giá như”... khi đã quá muộn... Theo một nghiên cứu tại Anh cũng cho thấy tất cả các vaccine khi đã được WHO phê duyệt đều hiệu quả như nhau. Những người đã được tiêm vaccine này đều làm giảm tỷ lệ nhập viện tới 92 đến 96%.

   Theo Thứ trưởng Y tế Trần Văn Thuấn, hiệu quả bảo vệ của các loại vaccine Việt Nam đã và đang nhập khẩu sử dụng dao động quanh mức 80 đến 95%, có nghĩa những người được tiêm vaccine sẽ giảm thiểu 80 đến 95% triệu chứng bệnh nặng phải nhập viện. Phần lớn các vaccine đều có hệ số bảo vệ 98 đến 100% đối với nguy cơ tử vong. Do vậy, những loại vaccine mà Việt Nam đang sử dụng tiêm chủng cho người dân đều có hiệu quả bảo vệ tốt chống lại Covid-19 như nhau.

   Ðồng chí Trần Văn Thuấn cũng nhận định, trước làn sóng Covid-19 do biến thể Delta vẫn đang tăng, các quốc gia trên thế giới tiếp tục vận động, yêu cầu người dân nhanh chóng tiêm vaccine để tạo miễn dịch cộng đồng, thậm chí cho triển khai mũi tiêm vaccine bổ sung (mũi thứ ba) sẽ góp phần làm gia tăng tình trạng khan hiếm nguồn vaccine. Cũng sẽ là khó khăn trong tiếp cận nguồn cung vaccine về Việt Nam,  cho nên, thời điểm này, người dân hãy tiêm bất kỳ loại vaccine nào có sẵn khi đến lượt. Vaccine+5K vẫn đang là giải pháp thiết thực hiệu quả, lâu dài mang tính quyết định để các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam bảo vệ người dân thoát khỏi Covid-19.

   Theo thống kê của Bộ Y tế, đến ngày 27/8, đã có hơn 27 triệu liều vaccine phòng Covid-19 được nhập về Việt Nam, trong đó đã tiêm được hơn 19,2 triệu liều. Theo chiến lược vaccine thì mục tiêu tiêm vaccine cho nhiều người dân trong thời gian sớm nhất nhằm tạo miễn dịch cộng đồng cần được các địa phương, nhất là các tỉnh bị dịch đang tăng mạnh, cần đẩy nhanh hơn nữa việc tiêm vaccine phòng Covid-19 cho người dân.

   Thời gian qua, tiến độ tiêm chủng vaccine ở Việt Nam đã được đẩy mạnh hơn, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, mới chỉ đạt 300 nghìn đến 400 nghìn mũi/ngày, trong khi đó cần tiêm 500 nghìn mũi/ngày trở lên mới bảo đảm tiến độ. Do vậy, Bộ Y tế yêu cầu các địa phương cần phải đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vaccine phòng Covid-19 theo nguyên tắc nhanh nhất, sớm nhất, an toàn nhất.

   Mặt khác, người dân không nên có tâm lý chờ đợi, lựa chọn, mà hãy tiêm vaccine sớm nhất khi có thể. Tất cả các vaccine được WHO cấp phép đều đạt hiệu quả trong việc ngăn ngừa lây nhiễm virus và giảm tỷ lệ bệnh nặng,  giảm các trường hợp phải nhập viện; các vaccine vẫn có hiệu quả cao trong việc chống lại các biến thể Beta và Delta.../.

Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2021

TẾT ĐỘC LẬP - VỌNG MÃI NGÀN NĂM

"Hỡi đồng bào cả nước!

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Đã 76 năm đã trôi qua, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày  2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn thách thức, thực hiện lời thề với Người trong ngày lễ độc lập “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập.”. Với tinh thần đó, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong suốt hơn 76 năm qua. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng với một quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao đời sống của nhân dân.Kiên quyết,kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa….

Tuyên ngôn Độc lập đã và đang khơi nguồn sáng tạo, soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển mới. Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh./.



CHỈ ANH EM MỚI CHO MÀ KHÔNG CÓ ĐIỀU KIỆN

 

42 năm trước người Nga giúp Việt Nam chinh phục dòng sông đà hung dữ, xây dựng nhà máy thủy điện ngăn lũ cho đồng bằng bắc bộ. 40 năm trôi qua, bây giờ Liên Xô cũng không còn, những kỹ sư Liên Xô trên đại công trường thủy điện hòa bình ngày đó nếu còn cũng đã tới tuổi 'Thập cổ lai hi'. Không biết ai còn nhớ tới họ, nhớ tới những công trình cao cả của những người anh em cộng sản không nhỉ? 10 kỹ sư Liên Xô đã mãi mãi nằm lại trên công trường thủy điện Hòa Bình cho dòng điện được về xuôi.

Và bây giờ lớp trẻ sau này họ ca thán " giá như đừng đuối đi một nền văn minh của Pháp, hay như đừng đánh Mỹ thì Việt Nam giàu ngang hàn nhật". Nhưng xin thưa rằng không thể dùng từ khai sáng hay từ gì mĩ miều hơn ngoài 2 từ: "xâm lăng" và "đô hộ" để nhắc đến thực dân Pháp. 


Quê mình năm 96 có điện, đúng sau 2 năm khi tổ máy cuối cùng của thủy điện Hòa Bình đi vào hoạt động, chấm dứt một thời kỳ đèn dầu mà mỗi lúc ngồi vào bàn học cay xè nước mắt.

Năm 1971, miền Bắc trải qua trận đại hồng thủy "250 năm mới gặp một lần". hàng trăm km đê vỡ, 500 nghìn ha lúa mất trắng. Nước sông Hồng dâng xấp xỉ mặt cầu Long Biên. Ngành giao thông phải điều một đoàn tàu chở đá hộc lên trấn giữ mặt cầu để không bị lũ cuốn trôi.


Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng khi đó đưa đoàn đại biểu cấp cao Liên Xô đi thị sát lụt ở Hà Bắc. Đứng trên triền đê nhìn ra mênh mông nước, ông mong muốn Liên Xô giúp Việt Nam xây dựng một công trình để cắt lũ cho đồng bằng sông Hồng.


Cũng chính từ đây công trình thủy điện Hòa Bình manh nha hình thành và dần đi vào hiện thực. Có thể nói rằng lịch sử thường rất công tâm nếu không có người Nga chúng ta có lẽ chưa biết bao giờ có dòng điện quốc gia đầu tiên của cả nước. Mà trước đó người Pháp từng tuyên bố ' Sông Đà bất trị". Và ngược lại nếu không có người Mỹ thì chúng ta sẽ không bị chia cắt 20 năm, không có hàng triệu tấn bom đạn trút trên làng mạc ruộng đồng người Việt, không có những e bé da cam mà dù gần 50  năm trôi qua hậu quả còn dai dắng nặng nề. Nhìn lại lịch sử để xem ai là bạn là thù để có cái nhìn công tâm đối với lịch sử.


Nếu nhiều người hỏi Liên Xô được gì ở đất nước này? Không gì cả, nuôi cho Việt Nam một đống du học sinh, tạo cho hàng ngàn lao động ở đông âu mà nhiều người nhờ đó giàu sụ lên trong khi đất nước còn khốn khó, ngay như tỷ phú của Việt Nam bây giờ Phạm Nhật Vượng cũng được nuôi dưỡng bằng bánh mỳ của nước Nga. Ngay cả sau này nước Nga đã xóa nợ hầu hết cho chúng ta vay từ thời Liên Xô gần 10 tỷ. Nhưng giờ thì sao? Đám đi Liên Xô tầm 8x chúng chửi Liên Xô ko ra gì... đó là sự vong ơn bội nghĩa.


Còn người Mỹ để lại gì cho đất nước này qua 20 năm cai trị Miền Nam?


Không gì cả, lòng người ly tán phân tranh, ngoài bom đạn và những nghĩa trang đầy ắp ngôi mộ. Và ngay bây giờ chúng vẫn đang thò cây gậy " nhân quyền" vào đất nước chúng ta, điều mà gần 50 năm trước chúng chưa bao giờ làm được, chỉ thay đổi phương thức từ súng đạn sang đồng đô la mà thôi.


Từng ấy năm sau, Việt Nam tuy đã mở cửa để hội nhập với thế giới nhưng vẫn phải nhớ rằng ai đã từng đô hộ, ai đã từng xâm lược. Trò chơi chính trị luôn là trò chơi 2 mặt, những nước hiện tại viện trợ hoặc kết giao hữu nghị với VN cũng chỉ là những mối quan hệ cầm chừng,

Bên nào có lợi thì họ sẽ ngả về bên đó. Chỉ có những người anh em như Liên Xô, Cuba, Iraq... là những đất nước từng viện trợ cho VNDCCH mà không đòi hỏi nhận lại bất cứ một điều gì.

Còn với người Mỹ, chúng tôi có thể tha thứ nhưng chúng tôi không bao giờ quên.