Thứ Năm, 31 tháng 3, 2022

THỰC HIỆN “CẦN KIÊM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ” GẮN VỚI HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

 


Hồ Chí Minh là người cộng sản mẫu mực, luôn thống nhất giữa nói và làm. Người không chỉ nêu ra và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và rèn luyện những phẩm chất “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, hướng lòng mình đến “chí công vô tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân dân mà Người còn chính là hiện thân của những phẩm chất cao quý đó.

CẦN “là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”; “cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được”, bởi “Cần chẳng những có nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai” mà còn “có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần”. Hiểu đúng về Cần nghĩa là luôn chăm chỉ, cố gắng không phải một sớm một chiều mà thường xuyên và liên tục. Hiểu sâu sa hơn thì Cần cũng có nghĩa là làm để nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc lâu dài, để đạt được mục đích đề ra, bởi: “Nếu mỗi người, mỗi ngày làm thêm một tiếng đồng hồ thì: Mỗi tháng sẽ thêm 300 triệu giờ. Mỗi năm thêm lên 3.600 triệu giờ… Cứ tính một giờ làm đáng giá một đồng bạc, thì mỗi năm nước ta đã có thêm được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền đó thêm vào kháng chiến, thì kháng chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào kiến quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công”[4].

KIỆM “là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” và không phải là bủn xỉn. Trong đó, Cần phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì “KIỆM mà không CẦN thì không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ, bởi “của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”[5]. Vì thế, thời giờ cần tiết kiệm và đó cũng là Cần; “tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người”, cũng giống như “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm”[6]. Đặc biệt, muốn tiết kiệm tốt thì phải khéo tổ chức, vì “không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm” và phải “kiên quyết không xa xỉ”. Từ đó, “một mặt, chúng ta thi đua KIỆM. Một mặt, chúng ta thi đua CẦN” thì cộng lại là “nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công”…

LIÊM “là trong sạch, không tham lam” và “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”[7]. Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM, cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN, vì “có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. Tham lam sẽ dẫn đến BẤT LIÊM, cho nên, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Cũng theo Hồ Chí Minh, “trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”1) và “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”[8]. Vì, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”, cho nên “cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”[9]

CHÍNH “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”[10]. Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết tiếp “trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC. Trong xã hội, có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc CHÍNH và việc TÀ. Làm việc Chính là người Thiện. Làm việc Tà là người Ác. Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác”[11]

Để là CHÍNH, mỗi người, ĐỐI VỚI MÌNH, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điêmmr, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[12], vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. ĐỐI VỚI NGƯỜI, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”[13]. ĐỐI VỚI VIỆC, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to. Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định nhiều hạnh phúc. Ai chẳng muốn cho tự mình thành một

Những điều Người nói, những việc Người làm và tấm gương đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Người không chỉ được khẳng định trong thực tiễn mà còn mang ý nghĩa, giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại, dù thế giới đã đi qua bao thăng trầm, thay đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những gì Người nói, những việc Người đã làm với tâm hồn thanh cao là biểu hiện sự dung hợp hài hòa những phẩm chất tuyệt vời của một vị lãnh tụ của nhân dân, thuộc về nhân dân trong thời đại mới.

 

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Quân đội Nhân dân Việt Nam có chức năng: đội quân chiến đấu; đội quân công tác; đội quân lao động sản xuất là thực tế khách quan; vậy mà thời gian gần đây, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch tiếp tục diễn biến phức tạp; chúng triệt để lợi dụng các Bộ đội giúp đỡ Nhân dân chống dịch Covid – 19 để xuyên tạc, công kích với đủ các luận điệu ấu trĩ, kém văn hóa.

Về “đội quân chiến đấu” đã được bàn nhiều, có lẽ không cần nói thêm. Trong việc thực hiện chức năng đội quân công tác, quân đội ta luôn gắn bó mật thiết, đồng cam cộng khổ với nhân dân, thực sự là cầu nối vững chắc và tin cậy của Đảng và Nhà nước với nhân dân. Sống trong lòng dân, bộ đội ta luôn tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đoàn kết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, khám chữa bệnh, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa, ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Những ngày qua, hình ảnh các anh Bộ đội Cụ Hồ không quản ngại khó khăn, nguy hiểm kề vai sát cánh với Nhân dân chống Dịch Covid - 19 củng cố mối quan hệ máu-thịt với nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, thêm một lần nữa in đậm trong trái tim đồng bào cả nước. Các anh luôn là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của người dân trong những lúc nguy nan nhất, quân đội luôn làm điểm tựa vững chắc trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Tiếp  tục phát huy vai trò Quân đội trong phòng chống dịch bệnh, ứng phó sự cố thiên tai, thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

 

 

CHIẾC ÁO ẤM - BÀI HỌC VỀ SỰ CHĂM LO CỦA BÁC HỒ

 


Một đêm mùa đông năm 1951, gió bấc tràn về mang theo những hạt mưa lâm thâm làm cho khí trời càng thêm lạnh giá. Thung lũng bản Ty co mình lại trong yên giấc, trừ một ngôi nhà sàn nhỏ còn phát ra ánh sáng. Ở đây, Bác vẫn thức, vẫn làm việc khuya như bao đêm bình thường khác. Bỗng cánh cửa nhà sàn hé mở, bóng Bác hiện ra. Bác bước xuống cầu thang, đi thẳng về phía gốc cây, chỗ tôi đang đứng gác.

 Chú làm nhiệm vụ ở đây có phải không?

- Thưa Bác, vâng ạ!

- Chú không có áo mưa?

Tôi ngập ngừng nhưng mạnh dạn đáp:

- Dạ thưa Bác, cháu không có ạ!

Bác nhìn tôi từ đầu đến chân ái ngại:

- Gác đêm, có áo mưa, không ướt, đỡ lạnh hơn...

Sau đó, Bác từ từ đi vào nhà, dáng suy nghĩ...

Một tuần sau, anh Bảy cùng mấy người nữa đem đến cho chúng tôi 12 chiếc áo dạ dài chiến lợi phẩm. Anh nói:

- Bác bảo phải cố gắng tìm áo mưa cho anh em. Hôm nay có mấy chiếc áo này, chúng tôi mang lại cho các đồng chí. Được một chiếc áo như thế này là một điều quý, nhưng đối với chúng tôi còn quý giá và hạnh phúc hơn khi Bác trực tiếp chăm lo, săn sóc với cả tấm lòng yêu thương của một người cha.

Sáng hôm sau, tôi mặc chiếc áo mới nhận được đến gác nơi Bác làm việc. Thấy tôi, Bác cười và khen:

- Hôm nay chú có áo mới rồi.

- Dạ thưa Bác, đây là áo anh Bảy đem đến cho tiểu đội chúng cháu mỗi người một chiếc ạ.

Nghe tôi thưa lại, Bác rất vui. Bác ân cần dặn dò thêm:

- Trời lạnh, chú cần giữ gìn sức khỏe và cố gắng làm tốt công tác.

Dặn dò xong, Bác trở lại ngôi nhà sàn để làm việc. Lòng tôi xiết bao xúc động. Bác đã dành áo ấm cho chúng tôi trong lúc Bác chỉ mặc một chiếc áo bông mỏng đã cũ. Đáng lẽ chúng tôi phải chăm lo cho Bác nhiều hơn, còn Bác, Bác lại lo nghĩ đến chúng tôi nhiều quá.

Từ đấy, chúng tôi cũng trân trọng giữ gìn chiếc áo Bác cho như giữ lấy hơi ấm của Bác. Hơi ấm ấy đã truyền thêm cho chúng tôi sức mạnh trong mỗi chặng đường công tác.

Bài học kinh nghiệm:

- Câu chuyện này tả lại tình yêu thương ân cần của Bác dành cho những cán bộ phục vụ quanh mình. Dù bận trăm công nghìn việc, nhưng khi thấy người chiến sĩ cảnh vệ canh gác dưới chân lán bị ướt và lạnh, Bác đã đôn đốc quân nhu chóng tìm áo ấm cho các anh. Chỉ một chiếc áo nhưng đã làm ấm cơ thể, ấm lòng anh chiến sĩ và hàng triệu triệu con tim người Việt.

 

BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

 

Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực, quốc tế và xu thế của thời đại, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Trong đó, Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề tranh chấp trên biển, đảo hiện nay

Đại hội XIII đã khẳng định, chúng ta đã: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia – dân tộc trên biển, trên không và trên bộ; hợp tác quốc tế về biển, đảo được tăng cường, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy quan hệ với các nước”. Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế và lực của ta trên các vùng biển, đảo đã tăng lên nhiều. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” trên biển, đảo không ngừng được củng cố, tăng cường. Các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo từng bước được xây dựng, phát triển ngày càng vững mạnh hơn. Trong đó, Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển. Hiện nay, Hải quân nhân dân Việt Nam đã có đủ các lực lượng cơ bản, được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Trên mặt trận chính trị - đối ngoại, chính sách của Việt Nam ở Biển Đông đã vận dụng thành công chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế. Chúng ta đã giữ vững các đảo, điểm đóng quân, các bãi cạn không người... Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện cơ bản chiến lược bảo đảm chủ quyền, an ninh; xử lý kịp thời các tình huống trên biển, bảo đảm giữ vững được chủ quyền, mối quan hệ và môi trường hòa bình trên biển.

Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề

trên biển:

Thứ nhất là “thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển

đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Việt Nam là một quốc gia ven biển, vùng biển của nước ta có diện tích gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích biển Đông. Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Vùng biển của chúng ta còn là vùng biển “giàu có” với các tài nguyên, khoáng sản quan trọng như dầu khí, than, sắt, titan, muối..  và hàng triệu tấn thủy sản. Chúng ta có đường bờ biển dài và đẹp, sinh vật biển phong phú, đa dạng thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Đối với hoạt động an ninh, quốc phòng, biển nước ta như mặt tiền, cửa ngõ quốc gia; biển làm tăng chiều sâu phòng thủ hướng ra biển, củng cố tuyến phòng thủ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai là "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước". Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc. Kiên quyết thể hiện quyết tâm dứt khoát, sự đồng thuận cao hơn trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về yêu cầu bảo vệ chủ quyền, lợi ích của đất nước; kiên quyết giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, bảo vệ đến cùng lợi ích quốc gia - dân tộc, với quyết tâm cao nhất. Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của ta, tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước, tuân thủ luật pháp quốc tế.
Thứ ba, Việt Nam “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”. Với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, chúng ta thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn. Bên cạnh đó, chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.
Thứ tư, “Duy trì hòa bình, an ninh, an toàn tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982”. Lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông là rõ ràng và nhất quán. Mọi hoạt động trên biển cần được tiến hành trên cơ sở Công ước của LHQ về Luật Biển 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia ven biển tại các vùng biển được xác lập phù hợp với Công ước. Khẳng định Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các quyền hợp pháp khác trên các vùng biển của Việt Nam được xác lập.
Thứ năm, “Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biện khó khăn, biên giới, hải đảo”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.  Chúng ta tập trung phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tư tưởng này được hình thành dựa trên kinh nghiệm quốc tế, dự báo tình hình trong nước và trên thế giới, thực tiễn Việt Nam và phù hợp với xu thế thời đại. Các thành tựu ta đạt được trong thời gian qua đã cho thấy sự vận dụng đúng đắn quan điểm, đường lối của Đảng trong phát triển bền vững kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

 

Kịp thời nhận biết luận điệu xuyên tạc quan điểm của Việt Nam về xung đột Nga – Ukraine trong giai đoạn hiện nay

 


Mặc dù Việt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm chính thức về xung đột Nga - Ukraine, đó là Việt Nam kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài trên cơ sở luật pháp quốc tế, ấy thế nhưng, trên Internet, mạng xã hội, một số người lại đang cố tình đưa ra những luận điệu sai trái, suy diễn xuyên tạc nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín, danh dự của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

          Cơ sở chủ yếu để khẳng định quan điểm của Việt Nam đối với các vấn đề chính trị trên thế giới là:

Hiến pháp năm 2013 và Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) của Việt Nam đã nêu rõ chính sách đối ngoại của Việt Nam là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

             Chính sách quốc phòng, Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ, Việt Nam giữ vững nguyên tắc 4 không: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Đối với Việt Nam, cả Nga và Ukraine đều là đối tác quan trọng. Do đó, Việt Nam kêu gọi Nga và Ukraine giảm căng thẳng, ngừng bắn, bảo đảm an ninh an toàn, nhu cầu thiết yếu của người dân, bảo đảm an ninh an toàn cho cộng đồng người nước ngoài đang sống tại Ukraine, trong đó có người Việt Nam. Việt Nam luôn khẳng định lập trường không thay đổi, đó là Việt Nam không đứng về bên này chống bên kia hay ngược lại mà luôn đứng về lẽ phải, về công lý, luật pháp quốc tế.

             Kết luận rằng, những luận điệu sai trái, xuyên tạc quan điểm của Việt Nam đối với vấn đề xung đột Nga - Ukraine trên Internet, mạng xã hội của một số cá nhân, tổ chức thực chất là nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi căn bệnh “chạy thành tích” và “thổi phồng thành tích” trong tình hình hiện nay

Thành tích là kết quả được đánh giá tốt do nỗ lực mà đạt được. Là biểu hiện sinh động nhất của kết quả lao động, tinh thần dũng cảm chiến đấu, học tập chăm chỉ, công tác chuyên cần của một người hay một tập thể. Nên ai cũng quý thành tích là vậy! Phấn đấu để có thành tích không phải đơn giản, dễ dàng, mà phải bỏ ra nhiều tâm sức, trí tuệ, vượt nhiều gian khổ, khó khăn. Phấn đấu để ngày càng có thêm thành tích, cống hiến nhiều hơn cho cách mạng là yêu cầu của Đảng, của toàn dân, toàn quân đối với mỗi chúng ta, là thước đo đạo đức tài năng của mỗi cán bộ, đảng viên. Do vậy, quyết liệt chống “chạy thành tích” và “thổi phồng thành tích” là vấn đề bức thiết trong tình hình hiện nay. Đây là mặt trái, cũng là biểu hiện của căn bệnh thành tích, nếu không sớm được phát hiện, ngăn chặn, triệt tiêu sớm sẽ làm ảnh hưởng xấu đến truyền thống, uy tín của quân đội, phẩm chất và hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Trong 10 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân mà Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới chỉ ra, có hai lần từ “thành tích” được nhắc đến. Gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn phấn đấu không ngừng để đạt nhiều thành tích trên cả 3 chức năng của quân đội (đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất), góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc, chung tay vì sự bình yên của nhân dân, tạo ra nhiều của cải, vật chất làm giàu cho đất nước. Đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Để đạt được mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần phát huy hơn nữa tinh thần cách mạng, khắc phục thái độ làm việc cầm chừng, dũng cảm vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, lập nhiều thành tích xuất sắc. Tất cả mọi người, mọi cơ quan, đơn vị, địa phương đâu đâu cũng đều cố gắng thi đua lập thành tích thì sự nghiệp cách mạng, dù khó khăn, gian khổ đến mấy, cũng sẽ thắng lợi vẻ vang. Cho nên, chúng ta hết sức quý mến, cảm phục trước những con người, tập thể đã lập nên nhiều thành tích cho cách mạng, cho đất nước. Đó là những tấm gương sáng để mọi người học tập và noi theo. Đảng, Nhà nước và các cấp, ngành, địa phương luôn quan tâm, khuyến khích động viên mọi người gắng sức để có nhiều thành tích. Những cá nhân và tập thể lập nhiều thành tích được biểu dương, khen thưởng bằng nhiều hình thức khác nhau; những cán bộ có nhiều thành tích được cất nhắc, đề bạt. Đó là sự ghi nhận cần thiết. Có thể khẳng định: Thời gian qua, nhiều tập thể, cá nhân nhận thức đúng vấn đề thành tích và luôn ra sức phấn đấu để ngày càng có thêm nhiều thành tích với động cơ trong sáng, vô tư, đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp chung của cách mạng. Trong đó xác định động cơ đúng đắn thi đua vì lợi ích chung giúp mỗi cán bộ, đảng viên biết tự thanh lọc tâm hồn; nâng cao ý thức trách nhiệm, phòng ngừa những biểu hiện của bệnh thành tích; đồng thời, nỗ lực phấn đấu, cống hiến bằng chính năng lực của bản thân. Tuy nhiên, cũng có một số cá nhân, đơn vị không có hoặc chưa có nhận thức và hành động đúng đắn trong vấn đề này. Biểu hiện là: Một số người, một số đơn vị khi đã có ít nhiều thành tích rồi thì sinh ra kiêu ngạo, tự mãn, ngủ quên trên “vòng nguyệt quế”, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên. Tất nhiên, ai trong mỗi chúng ta đều có quyền tự hào với thành tích mình nỗ lực đạt được nhưng phải luôn giữ cho mình đức tính khiêm tốn, luôn xác định kết quả đạt được hôm nay chỉ là thành quả bước đầu trong cả quá trình phấn đấu lâu dài. Nếu ai cũng bằng lòng với thành tích đạt được hôm nay, không tiếp tục tự học tập, rèn luyện, vươn lên gặt hái những thành công tiếp theo thì sự nghiệp cách mạng sẽ chững lại, các phong trào thi đua thiếu đi động lực mới, quyết tâm mới. Một số khác do mang nặng chủ nghĩa cá nhân mà mắc bệnh thành tích. Họ làm việc gì cũng chỉ vì thành tích, lúc nào cũng nghĩ đến thành tích. Vì mắc bệnh thành tích mà họ sẵn sàng làm gian dối; họ thích được ca ngợi, thích được khen thưởng, “thổi phồng thành tích” và thù ghét những ai “vạch mặt, chỉ tên” những hạn chế, khuyết điểm của mình. Ở mức độ nghiêm trọng hơn, những người mắc bệnh thành tích còn “chạy thành tích” và "nặn ra thành tích" bằng cách lo lót cho một số cán bộ có chức quyền, báo cáo gian dối, xuyên tạc kết quả. Khi không lo lót được thì họ dùng những mánh khóe để đánh lừa cấp trên và dư luận... Có thể nói, bệnh thành tích đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều cơ quan, đơn vị, hệ lụy dẫn đến là những báo cáo không trung thực, bao che khuyết điểm, thổi phồng thành tích. Căn bệnh này cần những “phương thuốc hữu hiệu” để chữa trị kịp thời, nếu không sẽ làm ảnh hưởng đến mặt tích cực của thành tích trong các phong trào thi đua cách mạng. Để chữa căn bệnh này, trước hết mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng động cơ thi đua đúng đắn trong mỗi cán bộ, đảng viên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Phải làm cho nhân dân, cán bộ, chiến sĩ hiểu được lợi ích của thi đua trên là vì nước, dưới là vì nhà, một là ích nước, hai là lợi dân. Mỗi cơ quan, đơn vị cần căn cứ vào điều kiện thực tế của mình, từ đó đăng ký các nội dung, phong trào, chỉ tiêu thi đua phù hợp. Tránh tình trạng phô trương, hình thức, dẫn tới chạy thành tích; đánh giá, khen thưởng không đúng người, đúng việc, đúng thành tích, gây ra những phản ứng ngược trong thi đua. Chú trọng phát huy vai trò giám sát, đánh giá của các tổ chức quần chúng, đoàn thể trong thi đua. Đây được xem là biện pháp rất quan trọng để chữa trị bệnh thành tích. Bởi quần chúng vừa là người có “trăm tay, nghìn mắt”, vừa là người thực hành, giám sát những việc làm của cán bộ. Họ hiểu rõ hơn ai hết cán bộ nào có tài đức, vì lợi ích chung; cán bộ nào chỉ “sính” thành tích mà làm ẩu nhưng báo cáo hay. Chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là người đứng đầu trong việc công tâm, khách quan trong đánh giá, nhận xét thành tích các tập thể, cá nhân trong các phong trào thi đua. Trên thực tế, ở đâu người đứng đầu giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ kỷ cương, kỷ luật; luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết thì sẽ chữa trị bệnh thành tích trong đơn vị một cách hiệu quả nhất. Ngoài những giải pháp trên, để bệnh thành tích được ngăn chặn thì rất cần tới sự trong sáng, khách quan của các cơ quan chức năng trong xem xét, đánh giá để quyết định khen thưởng đúng người, đúng việc. Trong đó, các cơ quan chức năng cần thay đổi phương pháp đánh giá mang tính định lượng nhiều hơn thay cho định tính, theo từng tháng thi đua; có điểm “cộng” và “trừ” rõ ràng để tránh tình trạng những cơ quan, đơn vị làm nhiều nhưng chỉ vì một sơ suất nhỏ (chủ yếu do nguyên nhân khách quan) thì lại bị “trừ” hết thi đua. Mặt khác, cần sự nghiêm minh và kiên quyết trong công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát; kịp thời loại khỏi đội ngũ số cán bộ, đảng viên mắc sai phạm trầm trọng bởi bệnh thành tích, góp phần ngăn ngừa và đẩy lùi tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nhận thức đúng đắn về thành tích để nỗ lực hơn nữa vì lợi ích chung, vì sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đồng thời triệt tiêu những mặt trái của bệnh thành tích, để cán bộ, chiến sĩ toàn quân tiếp tục giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp, danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Qua đó, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; quân đội vững mạnh về chính trị; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng quân đội hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII c

Cán bộ, đảng viên gương mẫu giữ gìn chuẩn mực đạo đức gia đình

Cán bộ, đảng viên gương mẫu giữ gìn chuẩn mực đạo đức gia đình Một trong những yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là không chỉ đề cao vai trò tiền phong trong sinh hoạt, học tập, công tác, mà cần phải thể hiện trách nhiệm nêu gương trong xây dựng gia đình và giữ gìn những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Những biểu hiện vi phạm chuẩn mực đạo đức gia đình Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng nhân cách của con người ngay từ thuở lọt lòng và trong suốt cuộc đời. Gia đình là tế bào của xã hội, tế bào có tốt thì xã hội mới tốt. Chân lý giản dị đó đã được bao thế hệ người Việt thể hiện trong cuộc sống để không ngừng vun đắp cho tổ ấm của mình trở thành bến đỗ bình yên của cuộc đời. Tuy nhiên, những năm gần đây, trước sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế và những mặt trái cơ chế thị trường, gia đình Việt đang đứng trước nhiều thách thức. Một trong những thách thức đó là không ít giá trị truyền thống tốt đẹp, nền nếp gia phong của nhiều gia đình bị đảo lộn; mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo hơn. Trong gia đình, khi cái tôi cá nhân lên ngôi một cách thái quá và quan niệm sống gấp, sống tự do, sống thiên về hưởng thụ nhiều hơn cống hiến, hy sinh, đã khiến hạnh phúc của không ít gia đình bị lung lay, tan vỡ, trong đó có cả gia đình cán bộ, đảng viên. Một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra là: “Vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội”. Sự vi phạm chuẩn mực đạo đức gia đình của một bộ phận cán bộ, đảng viên biểu hiện khá đa dạng, như: Vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; vi phạm chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, có hành vi bạo lực trong gia đình; tạo điều kiện, cơ hội cho người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi; thiếu quản lý, giáo dục, rèn luyện con dẫn đến con hư hỏng, thậm chí vi phạm pháp luật. Người dân trên địa bàn dân cư nhiều nơi từng phàn nàn về một số trường hợp gia đình quan chức sống xa dân, sống khác dân. Vợ con của nhiều quan chức dù không tài giỏi hay chăm chỉ lao động gì nhưng vẫn có một cuộc sống xa hoa, tậu biệt thự, sắm xe hơi sang trọng, thậm chí có những con quan chức được bao bọc như những “cậu ấm, cô chiêu”, đã lười nhác lao động lại còn hay ăn chơi xa xỉ, trác táng, “ném tiền qua cửa sổ”… Vấn đề đáng báo động hơn là một số cán bộ, đảng viên đã sa vào lối sống tự do, buông thả, vi phạm luật pháp về hôn nhân và gia đình. Chỉ từ đầu năm 2017 đến nay, đã có hàng chục vụ việc quan hệ bất chính liên quan đến cán bộ, đảng viên bị đưa ra ánh sáng. Đó là Phó bí thư Đảng ủy xã Tượng Lĩnh, huyện Nông Cống (Thanh Hóa) bị bắt quả tang khi đang cùng một nữ nhân viên vào nhà nghỉ; Chủ tịch UBND xã Thanh Xuân, huyện Như Xuân (Thanh Hóa) có quan hệ ngoài luồng với một nữ nhân viên của xã… Hay như nhiều cán bộ bị tố cáo vì có hành vi quan hệ bất chính với vợ người khác, như: Cán bộ Phòng Đào tạo ngắn hạn của Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Hải Dương; cán bộ Phòng Kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Tây Sơn (huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Trung tuần tháng 5 vừa qua, một vụ việc đánh ghen gây bức xúc dư luận tại huyện U Minh (Cà Mau) cũng liên quan đến một cán bộ quản lý trại giam chỉ vì cái tội “vào nhà nghỉ” với vợ người khác… ược biết, trong nhiệm kỳ Đại hội XI (2011-2015), cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp đã kỷ luật 8.683 đảng viên vi phạm đạo đức, lối sống, trong đó có nhiều đảng viên bị kỷ luật do vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng, quan hệ trai gái bất chính, có hành vi bạo lực gia đình, xâm hại quyền phụ nữ và trẻ em. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm chuẩn mực đạo đức gia đình, ngoài ý thức thiếu tu dưỡng, rèn luyện, bất chấp luân thường đạo lý của một bộ phận cán bộ, đảng viên; còn xuất phát từ việc cấp ủy các cơ quan, đơn vị, tổ chức chưa làm tốt công tác quản lý, giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên tại nơi cư trú, thiếu sự phối hợp quản lý hai chiều giữa cấp ủy nơi cán bộ, đảng viên công tác với cấp ủy địa phương. Gương mẫu gìn giữ gia phong, giáo dục người thân cùng chăm lo xây dựng gia đình Chuẩn mực đạo đức gia đình là một bộ phận cấu thành chuẩn mực đạo đức xã hội và góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa xã hội ổn định, lành mạnh. Tiền nhân có câu: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Một trong những hàm ý của lời nói này là con người muốn làm được những việc lớn lao thì đừng quên bắt đầu từ những công việc có tính chất nền tảng. “Soi chiếu” câu này vào đội ngũ cán bộ, đảng viên thời nay vẫn còn nguyên giá trị. Cán bộ, đảng viên muốn thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình và góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức, cơ quan, đơn vị và đóng góp cho xã hội, đất nước, thì không thể không bắt đầu từ việc tu dưỡng, trau dồi rèn luyện, hoàn thiện nhân cách bản thân và chăm lo vun đắp, xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc bền vững. Gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng con người về đạo đức, lối sống, nhân cách và góp phần xây dựng nguồn nhân lực cho xã hội. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc vị trí, vai trò của gia đình, cũng như nêu cao ý thức, trách nhiệm trong việc “phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra. Một trong những nhiệm vụ của đảng viên được quy định tại Điều 4 Điều lệ Đảng hiện hành là: Đảng viên cần gương mẫu thực hiện và tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Muốn làm tốt công việc này thì trước hết mỗi cán bộ, đảng viên cần chủ động tìm hiểu, học tập, nắm vững những nội dung cơ bản của các Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Trẻ em; Luật Người cao tuổi,… Những luật này quy định rõ ràng, cụ thể quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân trong việc xây dựng gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Thực tế cho thấy, do không nắm vững luật pháp mà một bộ phận cán bộ, đảng viên ở cơ sở (nhất là khu vực nông thôn, miền núi) vẫn có biểu hiện trọng nam khinh nữ, vi phạm Khoản 2, Điều 2, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về “chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”; thậm chí có cả trường hợp cán bộ, đảng viên có hành vi bạo lực gia đình. Cuối tháng 5-2018 vừa qua, vụ việc một cán bộ cấp phòng ở tỉnh An Giang có hành vi đánh đập vợ tàn nhẫn bị dư luận lên án và đã bị xử lý kỷ luật nghiêm khắc, đã nói lên điều đó. Một cán bộ, đảng viên tốt trước hết phải là người công dân gương mẫu trong xã hội; là người ông, người bà mẫu mực; người bố, người mẹ có trách nhiệm; người con hiếu thảo trong gia đình. Trong có ấm, ngoài mới êm. Gia đình có thuận hòa, hạnh phúc mới tạo động lực tinh thần cho cán bộ, đảng viên yên tâm công tác, phấn đấu hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, công việc ở cơ quan, đơn vị và qua đó góp phần xây dựng nền tảng xã hội phát triển lành mạnh.

TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?


Nhìn hình ảnh anh Quyết đẫm nước mắt trước khi bị bắt, tôi lại nhớ đến câu nói của một anh cũng là đại gia, giàu ngang anh Quyết FLC, đó là Đặng Lê Nguyên Vũ. “Tiền nhiều để làm gì”. Anh Vũ nói câu đấy khi anh và vợ dắt díu nhau ra toà ly hôn, chia tài sản; còn trường hợp của anh Quyết thì ai cũng biết. Hoá ra, nhiều tiền cũng không làm người ta hạnh phúc hơn, nó chỉ tạo được khoái cảm trong thời gian ngắn mà thôi. Không phải là mãi mãi.

PHÒNG CHỐNG SỰ CHIA RẼ, BẢO VỆ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”. Lịch sử cho thấy, các thế lực thù địch, phản động từ trước đến nay chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác, có những hạn chế, khuyết điểm bên trong nếu không sớm được khắc phục có thể ảnh hưởng trực tiếp đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nguy hiểm hơn là khi bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá... Âm mưu chia rẽ và thách thức bên trong Ngay khi Chính phủ quyết định tăng cường các lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn TP Hồ Chí Minh và một số địa phương phía Nam, trên mạng xã hội lập tức xuất hiện những bài viết xuyên tạc, trắng trợn vu cáo Đảng, Nhà nước sử dụng quân đội để trấn áp nhân dân miền Nam. Thâm độc hơn, một số tổ chức phản động đã cắt ghép nhiều hình ảnh hoạt động của bộ đội và lu loa rằng “Hà Nội huy động lực lượng quân đội vào Sài Gòn để dẹp loạn nếu dân đói khổ làm loạn...”. Thực tế cho thấy, hiện nay các thế lực thù địch, phản động ngày càng quyết liệt hơn với các âm mưu thâm độc và tinh vi hơn trong phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi chúng nhận thấy rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, muốn phá hoại cách mạng Việt Nam thì phải làm tan rã sức mạnh to lớn đó. Theo đó, âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ hiện nay của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên tạc, bôi đen thành tựu thực hiện đường lối, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta. Chúng “té nước theo mưa”, thổi phồng hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý của các cấp chính quyền để gây hoài nghi, phân tán nhân tâm, mất lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng đất nước. Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề xã hội bức xúc, những khó khăn trong đời sống nhân dân để kích động chống đối, hình thành những điểm nóng gây chia rẽ từ bên trong. Chúng lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm lăng và làm “biến dạng” các giá trị văn hóa truyền thống; tạo dựng “ngọn cờ”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, các vấn đề lịch sử... để kích động, chia rẽ đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân; giữa các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; thúc đẩy hình thành các “khu tự trị”, “nhà nước tự trị”... Đáng chú ý, chúng tập trung vào phá hoại mối đoàn kết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; nhân dân với các cấp chính quyền và lực lượng vũ trang; mối quan hệ giữa quân đội và công an... Cùng với chống phá trên các địa bàn chiến lược như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ hiện nay, chúng đẩy mạnh chống phá gây chia rẽ, mất đoàn kết ở các khu công nghiệp, trung tâm kinh tế, chính trị các địa phương. Internet, mạng xã hội đã và đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng với những thủ đoạn mới rất tinh vi, xảo quyệt để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhìn lại 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đất nước đã đạt được là nền tảng vững chắc củng cố niềm tin, đồng thuận xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, những thách thức đặt ra hiện nay cũng rất lớn, Đảng ta chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ”. Bên cạnh đó, là những vấn đề nảy sinh tất yếu trong quá trình phát triển cần phải tiếp tục nhận thức và giải quyết, như: Phân hóa giàu-nghèo; chênh lệch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế giữa các vùng miền; sự xuống cấp về một số mặt của văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa và những vấn đề lịch sử để lại... Đại hội XIII đánh giá, trong Đảng và hệ thống chính trị, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”; bệnh lãng phí, vô cảm, quan liêu, mất dân chủ... gây bức xúc xã hội và làm suy giảm vai trò hạt nhân đoàn kết của Đảng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Âm mưu chia rẽ từ bên ngoài và những thách thức bên trong có quan hệ chặt chẽ, làm suy giảm sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc của cách mạng nước ta. Sức mạnh nội sinh và bài học thịnh suy, thành bại từ lịch sử Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu và giá trị văn hóa cốt lõi; là sức mạnh vô địch trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng thiên tai, địch họa, định bờ cõi, xưng nền văn hiến, nêu cao độc lập, tự chủ. Đây là sức mạnh nội sinh có tính chủ đạo xuyên suốt, bền vững của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”. Đó là chân lý về sức mạnh vô địch của đoàn kết và phát triển truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Theo Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, đoàn kết là cội nguồn sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm lược và gốc của đoàn kết là chăm lo, gìn giữ sức dân: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, giặc tự bị bắt... Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy". Sức mạnh của nhân dân khi kết thành một khối là sức mạnh vô địch. Đó là chân lý được Nguyễn Trãi khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, sức dân như nước”. Tư tưởng này là nền tảng quan trọng hội tụ đại đoàn kết toàn dân của Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đập tan ách đô hộ tàn bạo 20 năm của giặc Minh. Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi viết: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Trước đó, đối mặt với giặc Minh xâm lược, nhà Hồ xây thành cao, hào sâu nhưng không xây được khối đoàn kết, thống nhất lực lượng toàn dân nên thất bại là tất yếu. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng từng nói: “Thần không sợ đánh giặc, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”. Thời kỳ Pháp thuộc, triều đình nhà Nguyễn chia rẽ, không quy tụ được sức mạnh đoàn kết dân tộc; nhiều cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước nổ ra song thường mang tính đơn lẻ, thiếu ngọn cờ tập hợp lực lượng toàn dân nên đều thất bại. Đất nước ta lại chìm trong đêm trường nô lệ trăm năm thuộc Pháp. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp và phát huy sức mạnh đoàn kết vô địch của toàn dân. Những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài học lớn chính là mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lợi ích của dân tộc, nhân dân và Tổ quốc Việt Nam. Sự đoàn kết trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thế giới đương đại phản ánh sâu sắc sự cạnh tranh gay gắt, kiềm chế lẫn nhau giữa các cường quốc. Xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bất ổn chính trị ở nhiều nơi và hiện tại, tình hình chiến sự tại Ukraine đang diễn biến phức tạp... phản ánh rõ nét sự can dự, cạnh tranh của các nước lớn và sự chia rẽ, mâu thuẫn, phân hóa từ bên trong. Do vậy, phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng chính là bảo vệ hòa bình và phát triển bền vững đất nước ta trong “những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo” của thế giới hiện nay. Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát: “... phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chỉ có thể được hiện thực hóa bằng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, Đảng ta xác định: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”. Đây là cơ sở để nhận thức và giải quyết tốt vấn đề có tính nguyên tắc của phát triển và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng, để phòng chống chia rẽ, bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau: Một là, tiếp tục thấu triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tuyên truyền, tăng cường đồng thuận của các tầng lớp nhân dân với đường lối lãnh đạo của Đảng. Thường xuyên nắm chắc, dự báo đúng, xử lý chính xác các vấn đề về tư tưởng, mâu thuẫn, bức xúc xã hội hiện nay. Tích cực, chủ động thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm sáng tỏ chủ trương, chính sách, thành tựu đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta. Coi trọng tuyên truyền, giáo dục, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc làm nền tảng tinh thần vững chắc của khối đại đoàn kết trong giai đoạn mới. Hai là, đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; đặc biệt coi trọng chăm lo, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị. Thường xuyên củng cố, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Quán triệt, thực hiện đúng phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Bốn là, nâng cao ý thức cảnh giác, thường xuyên nhận diện, đấu tranh hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch, phản động. Có các giải pháp, biện pháp mạnh, nâng cao hiệu quả đấu tranh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trên không gian mạng-mặt trận nóng bỏng hiện nay. Chủ động, nhạy bén, sắc sảo phát hiện, vạch trần bản chất phản động, mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động; giành giữ, bồi đắp tình cảm cách mạng, niềm tin của toàn thể nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng đất nước. Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không ngừng hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bám sát thực tiễn phát triển của đất nước, kịp thời giải đáp một cách thuyết phục những vấn đề mới về lý luận, thực tiễn đã và đang đặt ra; cung cấp luận cứ, luận chứng khoa học bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Đảng ta là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ và phát huy sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết, phải phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

PHẢI CHĂNG ĐÁM "RÂN CHỦ" CŨNG ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN KÉP!

         Rất lạ, cho đến tận ngày hôm nay vẫn CHƯA THẤY các "nhân sĩ trí thức yêu nước" như TS Châu Minh Hùng (Chu Mộng Long), GS Nguyễn Đình Cống, PGS Mạc Văn Trang, TS Nguyễn Xuân Diện, Võ sư Đoàn Bảo Châu, Vện sĩ Hoàng Xuân Phú... lên tiếng tưởng nhớ các nạn nhân vụ Thảm sát Sơn Mỹ (Mỹ Lai) nhỉ? 
Hay vụ này do Mỹ gây ra nên họ không dám nói, không dám lên án. Nếu thế thì HÈN NHÁT quá! Xin nhắc, đó là 567 người, cùng trong một ngôi làng. Họ là ĐỒNG BÀO mình đấy. 

Trong khi đó, vào đúng ngày này, bà Vụ trưởng Thông tin Báo chí Bộ Ngoại giao Liên bang Nga Maria Zakharova (ảnh dưới) đăng trên trang cá nhân Telegram và Facebook bài viết tưởng nhớ vụ Thảm sát Sơn Mỹ (Thảm sát Mỹ Lai) do lính Mỹ gây ra cách đây đúng 54 năm, 16/3/1968 tại Sơn Mỹ, Quảng Ngãi. 567 người dân của ngôi làng đã bị giết với sự tàn ác ghê tởm, bao gồm 173 trẻ em, 182 phụ nữ, trong đó có 17 phụ nữ mang thai.

Hóa ra, đám dân chủ lòi trĩ cũng áp dụng tiêu chuẩn kép. Nếu kẻ gây ra vụ thảm sát kia là Trung Quốc thì chắc chắn chúng sẽ sủa inh ỏi đến đinh tai nhức óc. Nhưng nếu thủ phạm là Mỹ thì chúng im bặt bởi được đóng băng siêu thấm vào mồm./.

Yêu nước ST.

47 NĂM NHÌN LẠI - CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN!

         Mùa xuân năm 1975, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, quân và dân ta đã mở Chiến dịch Tây Nguyên, giành thắng lợi vẻ vang, mở ra thời cơ to lớn cho cuộc tổng tiến công chiến lược; đồng thời, tạo ra bước ngoặt quyết định cho thời kỳ toàn thắng trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

47 năm đã qua, nhân kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, chúng ta cùng nhìn lại những nét đặc sắc của Chiến dịch Tây Nguyên, từ đó đúc kết những kinh nghiệm quý báu, vận dụng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Tài thao lược của Đảng 
Sau những thất bại liên tiếp trên các chiến trường, đặc biệt là thất bại trong cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm cuối năm 1972 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở miền Bắc, không còn con đường nào khác, đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27-1-1973). Tuy nhiên, khi hiệp định còn chưa ráo mực, bất chấp khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam, Mỹ và ngụy Sài Gòn đã ra sức phá hoại Hiệp định Paris, thực hiện kế hoạch “bình định, lấn chiếm” bằng thủ đoạn “tràn ngập lãnh thổ”.

Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương, khóa III (10-1973) họp, ra nghị quyết nêu rõ: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng”. Thực hiện nghị quyết này, từ đầu năm 1974, quân ta ở các chiến trường trên toàn miền Nam chuyển sang phản công và tiến công, quyết tâm đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân, từng bước đẩy lùi địch về thế phòng ngự bị động.

Tháng 10-1974, Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ cấp bách lúc này là: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng... Ngay từ giờ, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975-1976”.

Đầu tháng 1-1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương họp, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm (1975-1976) và nếu có thời cơ thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Nhìn chung, nội dung tư tưởng chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đều khẳng định thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn đã xuất hiện, phải chuẩn bị mọi mặt, tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, chớp thời cơ giành thắng lợi bằng con đường cách mạng bạo lực. Đường lối đó nhanh chóng được phổ biến, quán triệt tới lãnh đạo, chỉ huy trên các chiến trường.

Vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi giòn giã
Mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, đánh Buôn Ma Thuột là trận mở đầu, then chốt. Đó là quyết định đúng đắn, sáng suốt. 

Để thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định tăng cường cho Tây Nguyên một số lượng lớn về lực lượng, vũ khí, trang bị. Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên đã tiến hành công tác chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu đáo; các đơn vị được lệnh tuyệt đối giữ bí mật, không để địch phát hiện ý định chiến dịch và lực lượng ta trên hướng tác chiến chủ yếu (Buôn Ma Thuột); tích cực hoạt động nghi binh làm lạc hướng chú ý của địch ở Trị-Thiên và Bắc Tây Nguyên.

Ngày 4-3-1975, ta bắt đầu hoạt động cắt Đường số 19, đánh một số mục tiêu ở Pleiku để nghi binh, tạo thế chiến dịch. Sau khi đã hoàn thành việc “bày binh bố trận”, ngày 10-3-1975, ta nổ súng tiến công, đánh đòn "điểm huyệt" Buôn Ma Thuột. Bằng cuộc tiến công hiệp đồng binh chủng của các đơn vị, ta nhanh chóng tiêu diệt sở chỉ huy sư đoàn 23 và sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc của quân ngụy Sài Gòn, chiếm tất cả các vị trí trong thị xã, tiêu diệt và bắt làm tù binh toàn bộ quân địch.

Tiếp đó, ta nhanh chóng đập tan cuộc phản đột kích của quân đoàn 2 địch hòng tái chiếm Buôn Ma Thuột, diệt trung đoàn 44 và trung đoàn 45, thuộc sư đoàn 23. Đòn "điểm huyệt" và đánh bại cuộc phản kích của sư đoàn 23 khiến địch càng hoảng loạn, đẩy chúng từ sai lầm về chiến dịch tới sai lầm lớn về chiến lược: Rút bỏ Tây Nguyên theo Đường số 7 về đồng bằng. Cuộc truy kích của quân và dân ta trên Đường số 7 đã tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn của địch, giải phóng một địa bàn chiến lược rộng lớn. Đến ngày 3-4-1975, Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi.

Với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giải phóng địa bàn có ý nghĩa chiến lược, làm rung động toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở phía Bắc, phá vỡ và cắt đôi thế bố trí chiến lược của địch, làm cho quân địch phải co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường, mở ra thời cơ của cuộc tổng tiến công chiến lược.

Chiến thắng Tây Nguyên đã đẩy đối phương vào thế bị động, lúng túng, tác động đến tinh thần binh sĩ địch trên khắp chiến trường; cổ vũ, động viên mạnh mẽ tinh thần và khí thế tiến công của quân, dân ta ở tiền tuyến và hậu phương, củng cố quyết tâm chiến đấu và lòng tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vào thắng lợi cuối cùng.

Điểm cần nhấn mạnh, Chiến dịch Tây Nguyên không chỉ là sự chỉ đạo đánh hiệp đồng quân binh chủng, phối hợp giữa 3 thứ quân, mà còn là sự chỉ đạo tài tình, sáng suốt của Đảng về phát huy vai trò của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên tham gia chiến dịch.

Trong chiến dịch này, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên không chỉ chủ động tham gia mở đường, vận tải phục vụ các đơn vị chủ lực và các hoạt động nghi binh lừa địch mà còn phối hợp với các đơn vị chủ lực hoạt động tác chiến trong truy quét tàn quân địch, nổi dậy phá “ấp chiến lược”, lật đổ chính quyền địch; tham gia giữ gìn, bảo vệ thành quả cách mạng.

Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên là dấu ấn đậm nét trong dòng chảy lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, đặc biệt là đối với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại./.
Yêu nước ST.

“Sắp xếp tổ chức bộ máy, nhân sự là vấn đề nhạy cảm, phức tạp”

Chiều 30/3, tại cuộc họp báo thường kỳ quý 1 năm 2022, trả lời báo chí về việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành có phương án sắp xếp Cục, Tổng cục gửi Bộ Nội vụ ngay trong tháng 3/2022, ông Trần Văn Khiêm – Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức biên chế (Bộ Nội vụ) cho biết, đến nay, các bộ, cơ quan ngang bộ đã hoàn thành việc rà soát, sắp xếp và đề xuất dự thảo Nghị định quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của các bộ, gửi Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ thẩm định theo quy định.

Theo tinh thần của Ban Chỉ đạo đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và Công điện của Thủ tướng Chính phủ, đối với tổ chức thuộc cơ cấu của các bộ, ngành sẽ thực hiện theo quy định của Chính phủ. Nếu các bộ, ngành, cơ quan thẩm định có vướng mắc thì báo cáo Ban Chỉ đạo cho ý kiến trước khi trình Thủ tướng xem xét quyết định. Đến nay, các bộ, ngành đã gửi thẩm định, sẽ trình Thủ tướng xem xét, quyết định trong thời gian tới.

“Hiện còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan đề xuất và cơ quan thẩm định, Bộ Nội vụ đang báo cáo xin ý kiến cấp có thẩm quyền”  – ông Trần Văn Khiêm cho biết.

Thông tin thêm tại cuộc họp báo, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng cho biết hiện có 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ, 8 cơ quan thuộc Chính phủ, tính cả hai Đại học Quốc gia (Hà Nội và TPHCM), tổng số có 32 cơ quan.

Trong quá trình rà soát chức năng, nhiệm vụ phải bảo đảm theo đúng nguyên tắc của Nghị quyết số 18 (khóa XII), các Nghị định của Chính phủ về tiêu chí thành lập tổ chức để bảo đảm tính liên thông cũng như tính hiệu lực, hiệu quả.

“Tinh giản biên chế phải gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ và gắn với đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức. Bộ Nội vụ rất tích cực cùng Bộ Tư pháp thẩm định để trình Chính phủ. Trước khi trình Chính phủ, phải báo cáo Ban Chỉ đạo và báo cáo Thủ tướng. Hai ngày nay, Bộ trưởng Nội vụ đang trực tiếp báo cáo Thủ tướng cùng với các bộ” – Thứ trưởng Nguyễn Duy Thăng cho biết.

Nhấn mạnh Bộ Nội vụ phấn đấu sớm có phương án sắp xếp Cục, Tổng cục thuộc các bộ, ngành, tuy nhiên, Thứ trưởng Nguyễn Duy Thăng cho rằng, việc sắp xếp tổ chức bộ máy, nhân sự là vấn đề cực kỳ nhạy cảm, rất phức tạp, cần được dư luận xã hội chia sẻ vì vừa làm vừa phải bảo đảm tính ổn định, tính hiệu lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy.

Sau khi có Nghị quyết số 18 (khóa XII), chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết, Bộ Nội vụ rất tích cực trong việc rà soát, sắp xếp lại bộ máy bên trong. Đặc biệt, ở Bộ Nội vụ, cấp phòng trong vụ thuộc Bộ và phòng trong vụ thuộc Tổng cục cơ bản không còn; các đầu mối thuộc Học viện, trường đã được tổng rà soát lại.

Theo đó, đầu mối bên trong các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ giảm 18 đầu mối, trong đó giảm 2 đầu mối thuộc Cục Văn thư, lưu trữ Nhà nước; 8 đầu mối thuộc Học viện Hành chính Quốc gia…

Về định hướng sắp xếp của Bộ Nội vụ, theo Thứ trưởng Nguyễn Duy Thăng, Bộ được Chính phủ giao quản lý nhà nước về lĩnh vực tổ chức bộ máy hành chính nên phải làm nghiêm túc theo quy định của Đảng và pháp luật; quán triệt nguyên tắc một đơn vị, một tổ chức có thể làm nhiều việc, một việc chỉ giao cho một đơn vị làm đầu mối chủ trì; đảm bảo sử dụng đội ngũ thực sự hiệu quả.

Hiện ở Bộ Nội vụ, một số vụ có khối lượng công việc rất nhiều, làm ngày làm đêm như Vụ Công chức, viên chức, Vụ Tổ chức biên chế, Vụ Chính quyền địa phương, Vụ Tổ chức phi chính phủ và một số đơn vị khác. Khối lượng công việc rất nhiều, trong khi đội ngũ cũng có những mặt chưa thực sự đáp ứng được.

Trong quá trình phân cấp cũng có những đơn vị khối lượng công việc được điều chỉnh,, giảm xuống. Song cũng có những đơn vị lượng công việc nhiều, làm ngày, làm đêm không xong, họp giao ban thường bị phê bình chậm tiến độ. Do đó, cần phải rà soát, đánh giá lại để bảo đảm tính liên thông trong công việc với nguyên tắc một đơn vị được giao nhiều nhiệm vụ và bảo đảm tính hiệu quả sử dụng cao nhất đội ngũ.

Nêu thực tế hiện nay nhiều đơn vị của Bộ Nội vụ chưa đủ biên chế để làm việc, song Thứ trưởng Nguyễn Duy Thăng cho rằng, Bộ Nội vụ rất nêu gương và sẽ tổng rà soát, sắp xếp, cố gắng cùng Bộ Tư pháp thẩm định, trình Chính phủ sớm ban hành phương án sắp xếp tổ chức bộ máy./.


Chiêu lừa đảo có thể khiến tài khoản ngân hàng bị "bay màu"

Công an TP HCM vừa đưa ra cảnh báo chiêu lừa đảo chuyển hướng cuộc gọi, đánh cắp SIM có thể khiến tài khoản ngân hàng bị "bay màu"

Theo Công an TP HCM, thời gian gần đây, tội phạm công nghệ cao thường thực hiện thủ đoạn giả danh nhân viên chăm sóc khách hàng của các nhà mạng, ngân hàng, ví điện tử... để hỗ trợ giải quyết sự cố.

Những tội phạm này sẽ yêu cầu khách hàng nhắn tin theo cú pháp **21*# hoặc DS gửi 901. Đây là những mưu mẹo nhằm chiếm đoạt tiền của khách hàng.

Cú pháp **21*# thực chất là cú pháp chuyển hướng cuộc gọi (Call Forward), mà dịch vụ của các nhà mạng như Mobifone, Vinaphone, Vietnamobile cho phép thuê bao di động chuyển hướng cuộc gọi đến một số điện thoại nội mạng hoặc ngoại mạng.

Từ việc nạn nhân nhắn cú pháp, các đối tượng sẽ thao tác đăng nhập ứng dụng ví MoMo của họ từ xa. Tổng đài MoMo sẽ gọi để cung cấp mã OTP, tuy nhiên cuộc gọi này sẽ chuyển hướng đến số điện thoại của đối tượng rồi tiền trong ví, tài khoản ngân hàng liên kết với ví bị chiếm đoạt.

Đối với cú pháp DS gửi 901 là cú pháp đổi SIM điện thoại qua phôi SIM trắng theo phương thức nhắn tin (SMS). Với lời dụ dỗ rằng sẽ giúp người dùng nâng cấp SIM điện thoại thành SIM 4G, 5G, kẻ xấu yêu cầu người dùng nhắn tin theo cú pháp trên.

Khi thao tác thành công, người dùng sẽ mất quyền kiểm soát SIM. SIM của đối tượng lừa đảo trở thành SIM "chính chủ", dễ dàng truy cập vào các ứng dụng ví điện tử, ứng dựng thanh toán online để chiếm đoạt tiền.

Công an TP HCM khuyến cáo, để bảo vệ tài sản của chính mình, người dân không thực hiện các yêu cầu trên, không cung cấp mật khẩu và mã xác thực (OTP) của ví điện tử cho bất kỳ ai bên ngoài ứng dụng.

Ngoài ra, không bấm vào đường link lạ để nhập mật khẩu và mã xác thực (OTP). Đồng thời, luôn tra cứu, tìm hiểu thông tin để nắm chắc mục đích, ý nghĩa của các cú pháp tin nhắn trước khi thực hiện


 

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC PHÁT HIỆN VÀ TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng cho đến khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói và viết nhiều về sử dụng người hiền tài, nhưng thông qua cách nhìn nhận, đánh giá, cách ứng xử, trọng dụng, tập hợp người hiền tài vào đội ngũ những người làm cách mạng, Người đã để lại bài học quý báu cho chúng ta trong việc đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng người hiền tài phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh và xây dựng Tổ quốc. Năm 1925, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tập hợp những người trẻ tuổi, giàu nhiệt tình yêu nước, có tri thức. Đây là sự mở đầu cho việc cầu hiền tài của Người, chứng tỏ Người sớm nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của nhân tài đối với sự nghiệp cách mạng. Chỉ sau hai tháng lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Nhân tài và kiến quốc, đăng trên báo Cứu quốc ngày 14-11-1945. Người cho rằng, khi xây dựng đất nước cần phải có người tài, mặc dù người tài trong nước là chưa có nhiều nhưng nếu biết cách lựa chọn, biết cách phê phán, biết cách dùng thì ngày càng có nhiều người tài. Người cũng đã kêu gọi và khích lệ lòng yêu nước của những người có tài năng, sáng kiến để họ hăng hái giúp nước nhà. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người hiền tài phải có đủ đức và tài, trong đó tài năng là để giúp ích cho nước nhà, là đặt lợi ích dân tộc lên trên với tinh thần tận tâm, tận lực.

Cùng với bài Nhân tài và kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dùng những biện pháp mềm dẻo, linh hoạt để thu hút người có tài năng và tinh thần yêu nước tham gia làm việc cho chính quyền mới. Tháng 1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã tiến hành thành công, lập ra Quốc hội đầu tiên do nhân dân lựa chọn. Điều đặc biệt, mặc dù các thành viên Chính phủ rất đa dạng, thuộc các tầng lớp khác nhau,... nhưng họ đều chung một ý chí, đó là đoàn kết, chung tay góp sức xây dựng chế độ mới. Có thể khẳng định, đây là cuộc chiêu hiền đãi sĩ đầu tiên trong chế độ mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành bài học quý giá còn nguyên giá trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng tuyển dụng nhân tài mà Người rất quan tâm đến bồi dưỡng nhân tài. Ngay từ tháng 7-1926, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi một số thanh niên ưu tú Việt Nam sang Liên Xô để học tập và rèn luyện. Năm 1951, trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa lớp cán bộ đầu tiên sang Liên Xô đào tạo nhằm chuẩn bị đội ngũ “hiền tài” cho công cuộc kiến thiết đất nước khi chiến tranh kết thúc. Trong kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi nhiều thế hệ thanh niên ưu tú sang đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa. Vì thế, sau năm 1975, chúng ta có trên 30.000 cán bộ có trình độ trung cấp kỹ thuật trở lên, họ trở thành những nhà khoa học đầu đàn, là đội ngũ cốt cán của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Vẫn trò “vơ đũa cả nắm”

Sau việc Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương đề nghị kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân y và 12 quân nhân có vi phạm, những kẻ đội lốt “dân chủ” lại lợi dụng quy chụp, thổi phồng, “vơ đũa cả nắm”… rêu rao rằng: “Tham nhũng xảy ra ở toàn quân…”(!)

Đây thực ra vẫn là trò cũ soạn lại của các đối tượng chống phá, chỉ khác mức độ, tần suất được các trang mạng phản động đưa tin, giật tít nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, tác động xấu tới tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, hòng làm suy giảm uy tín, vai trò của quân đội, tiến tới thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội.

Thực tế cho thấy, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đều quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thường xuyên chỉ đạo, triển khai, kiểm tra, giám sát… công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong toàn quân và quyết liệt xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệnh, quy định của quân đội. Vì thế, Đảng bộ Quân đội được lãnh đạo Đảng, Nhà nước đánh giá là trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ được nhân dân trân trọng, tin yêu.

Tuy nhiên, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, một số ít quân nhân, trong đó có cả sĩ quan cao cấp, người chỉ huy đơn vị sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống… Những quân nhân vi phạm pháp luật đều được điều tra, xử lý nghiêm minh. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị tiếp tục thực hiện ngày càng quyết liệt ở tất cả các cấp, các ngành với quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “không có hạ cánh an toàn” và đã đạt được những kết quả rõ rệt; được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Từ những vấn đề trên cho thấy, sai phạm của một số quân nhân trong thời gian qua liên quan đến tham nhũng chỉ là hiện tượng cá biệt, không phải là hiện tượng phổ biến, càng không phải là bản chất của quân đội như một số đối tượng thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị cố tình lợi dụng để xuyên tạc, thổi phồng, quy chụp kiểu “vơ đũa cả nắm”. Do đó, mỗi chúng ta trong quá trình tiếp nhận thông tin cần phải hết sức cảnh giác, biết lựa chọn, sàng lọc và xem xét khách quan, toàn diện để tránh mắc mưu của kẻ xấu.


ĐỪNG NGỤY BIỆN CÂU CHỮ...

 

Lúc đương nhiệm Cố Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã từng đáp lại lời của Clinton rằng:  - "Thưa ngài, cái mà ngài gọi là "chiến tranh Việt Nam" thì nhân dân Việt Nam chúng tôi gọi đó là "Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước..."

Bác Hồ từng kêu gọi toàn quốc kháng chiến có câu: " Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta có thể kéo dài ... Nhưng chúng ta nhất định thắng...."

Thế mà thời đại của Internet 5G và cuộc sống hiện đại hôm nay, thế hệ trẻ đang bị nhồi sọ lập lờ bản chất của khái niệm "Chiến tranh Việt Nam" hay "KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC " của nhân dân ta dưới chiêu bài nguy hiểm.

Trong chiến lược "Diễn biến hòa bình", chủ nghĩa xét lại của bọn ngụy sử, mấy tay nhà báo rởm, đầu óc có vấn đề... được sinh ra trong hòa bình, mấy tay làm phim không có lập trường chính trị lại dùng cụm từ " CHIẾN TRANH VIỆT NAM" 

"Chiến tranh Việt Nam"? Vậy Mỹ đem bom đạn dội lên đầu dải đất hình chữ S này thì sao? Mỗi tấc đất ngọn cỏ đều thấm đẫm máu xương đồng bào  trong mấy chục năm ròng, những cuộc thảm sát đẫm máu mà nhân chứng sống đang còn đó. Chẳng lẽ bây giờ Mỹ vô can? 

Chúng ta cầm súng ra trận "đánh cho Mỹ cút", vậy có phải KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ hay không? 

Lịch sử phải công bằng, gọi và hiểu cho đúng bản chất. Đau thương mất mát chúng ra đã quá nhiều rồi, ngồi gác chân trong phòng lạnh hôm nay, các bạn hãy suy nghĩ vì đâu mà có được thành quả đó? Thành quả một đất nước Việt Nam Hòa Bình và phát triển đă phải đổi bằng máu của biết bao người đă ngã xuống cho độc lập tự do.. 

Hãy gọi đúng tên và hiểu đúng ý nghĩa của nó: CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

Kỷ niệm Chiến thắng 30 Tháng 4  đang đến gần, các bạn hãy lắng lòng lại một chút để tưởng nhớ đến 1,2 triệu liệt sĩ đang yên nghỉ trên khắp lãnh thổ đất nước Việt Nam và trên đất bạn Lào.

NGA ĐANG DẠY CHO MỸ VÀ EU BÀI HỌC “TRỪNG PHẠT” TRONG KINH TẾ THỊTRƯỜNG


Nhật báo Business Insider cho biết, giá đồng Rup tham chiếu tại các thị trường quốc tế đã giảm cận mức trước chiến tranh (70 - 80 RUB/1 USD). Mức thấp nhất đạt được là khoảng 84 Rup/1 Usd và sẽ có chiều hướng giảm trong tương lai. 

Điều này đến từ quy định nước nào muốn mua bán dầu khí với Nga sẽ PHẢI THANH TOÁN bằng đồng Rup. 

Vanticang là khách hàng đi tiên phong đổi đola lấy Rup để mua khí đốt của Nga.

Tuy một số lãnh đạo EU tuyên bố cứng rắn sẽ không chấp nhận thanh toán bằng tiền Rup của Nga - nhưng trên thị trường ngoại hối người ta thấy hiện tượng gom Rup ngày một nhiều dẫn đến tình trạng đồng Rup của Nga tăng giá rất nhanh quay trở lại giá trị trước khi chiến tranh Nga - Ukraina xảy ra.

Với đà gom Rup ngày một nhiều - các nhà kinh tế dự đoán rất có thể đồng Rup của Nga sẽ khan hiếm hơn trên thị trường phi truyền thống đẫn đến tình trạng đẩy giá trị đồng Rup ngày một tăng cao nếu quyết định của phía Nga không thay đổi về việc yêu cầu các quốc gia không thân thiện với Nga phải thanh toán bằng đồng Rup khi mua khí đốt, xăng dầu của Nga - đó còn chưa kể đến lúa mì (ổ bánh mì của Thế giới), kim loại hiếm, sắt, thép, nhôm, đồng, crom, titan (ĐB là Niken),(chất lượng cao hơn hẳn China)... toàn những nguyên liệu sản xuất sống còn của nền kinh tế EU và thế giới khi phải sử dụng sau khi phục hồi sau đại dịch Covid. 

Với việc tỷ giá quay về cận mốc cũ, thì việc phá hoại, làm tan vỡ đồng Rup của phương Tây đã không thành công. Hiện nay, Nga cũng đã không hạn chế việc nạp/rút Usd hoặc chuyển/gửi Usd ra nước ngoài vì tỷ giá đã tương đối bình ổn.

Còn các quốc gia EU đang náo loạn thị trường khi muốn mua, tích trữ đồng Rup phòng ngự cho các hợp đồng dầu khí tương lai phải thanh toán bằng Rup thay vì Euro hoặc Usd như trước.

Chả thế mà người tiền nhiệm ông Biden là D.Trump đã phải thốt lên rằng: Phản ứng của chính quyền Biden và các nước EU trước Nga hết sức non nớt và thiếu chuyên nghiệp - sẽ dẫn đến tiêu cực cho nền kinh tế Mỹ và EU - nếu không có nước đi khôn ngoan và nhanh chóng sẽ dẫn đến sự sụp đổ nền kinh tế... trước mắt là đã chứng kiến sự phẫn nộ của dân chúng đang diễn ra ở Mỹ và nhiều nước EU.