Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - GIÁ TRỊ HIỆN THỰC KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

 

Thực hiện mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch tiến hành mọi thủ đoạn nhằm xuyên tạc, phủ nhận, hạ thấp vai trò và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề vừa cấp bách trước mắt, vừa thường xuyên, cơ bản, lâu dài.

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của Cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh (vào cuối thế kỷ XVIII), đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản - một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội. Cuộc đấu tranh đó đã đặt ra yêu cầu khách quan: phải có lý luận dẫn đường. Và, chủ nghĩa Mác ra đời để đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời, chính thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản đã trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và không ngừng bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chủ nghĩa Mác.

Gần hai thế kỷ kể từ khi C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng đầu tiên tại nước Đức, được V.I. Lênin kế tục và phát triển tại nước Nga, điều đó càng khẳng định tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi, nó không những chỉ ra bản chất bóc lột, phơi bày bản chất sâu xa, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong lòng chế độ tư bản - nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, mà còn dự báo chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời, vạch ra cho giai cấp vô sản phương pháp cách mạng để giải phóng giai cấp, đưa xã hội loài người tiến lên.

Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các phong trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đều bị thất bại vì không có đường lối phù hợp. Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan, cấp thiết là phải khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Từ thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; trong đó, tập trung trước hết vào việc thành lập một chính đảng để lãnh đạo cách mạng. Và ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời, đánh dấu một sự kiện đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ điều kiện đặc thù của xã hội Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã giải quyết sáng tạo và thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ phong kiến, thực dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Thành tựu phát triển toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó khẳng định tầm vóc, ý nghĩa, giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, nhằm thực hiện mưu đồ thay đổi đường hướng chính trị ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng trên mọi phương diện, bằng mọi biện pháp, hòng phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay; làm phai nhạt niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với mục đích cuối cùng là xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi đời sống chính trị - tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng bằng các luận điệu xuyên tạc, công kích, chống phá rất đa dạng:

Về tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các thế lực thù địch sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau để phủ nhận, xuyên tạc. Trước hết, họ phủ nhận tài năng kiệt xuất của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin; đồng thời, cho rằng: C. Mác và V.I. Lênin là những nhà xã hội duy tâm, siêu hình và không tưởng; học thuyết Mác chỉ là sự sao chép sống sượng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh và triết học cổ điển Đức; là sản phẩm lai tạo hỗn hợp mang tính chủ quan, áp đặt được tua lại nhiều lần. Đây là sự xuyên tạc vô căn cứ và có chủ đích của các thế lực thù địch. Cần thấy rằng, tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin được đúc rút, khái quát nhờ tài năng kiệt xuất của cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin trong thực tiễn hoạt động chính trị sôi động của các ông. Nhờ đó mà các ông đã tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lý luận, xác lập một thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong xem xét và cải tạo hiện thực, từ đó xây dựng nên Học thuyết của mình. Nhìn vào thực tiễn lịch sử, nếu không có những bộ óc vĩ đại, với một thế giới quan khoa học, cách mạng thì không thể đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử.

Đối với những quan điểm, nguyên lý có tính chất nền tảng, là những phát kiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, họ tập trung xuyên tạc hòng hạ thấp, phủ nhận các nội dung: học thuyết hình thái kinh tế - xã hội; học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ còn phê phán quan điểm của C.Mác về luận điểm đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội; cho rằng: những luận điểm này làm nghèo đi những hình thức tiến hóa của xã hội, khuyến khích hận thù, cổ vũ cho chiến tranh, độc quyền, độc đoán, mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp liên miên không phù hợp với xu thế của thời đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển, v.v. Các thế lực thù địch, phản động không chỉ tìm cách phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin về mặt lý luận mà dựa vào sự sụp đổ của mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu (trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX), họ rêu rao: đó là do sự sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho nên đó là sự sụp đổ đã báo trước. Đây là thể hiện của nhận thức phiến diện, thiếu khách quan và khoa học trước sự vận động và phát triển của các mô hình xã hội. Nói về sự sụp đổ, tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, chúng ta coi đó là một tổn thất to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng không phải là tất yếu và càng không phải là sai lầm của học thuyết Mác. Nguyên nhân chính, trực tiếp, có tính quyết định dẫn đến sự tan rã đó là do những sai lầm trong đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ của Đảng Cộng sản cầm quyền, cùng sự phản bội của một số lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”. Do đó, đây chỉ là sự sụp đổ một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể, không đồng nghĩa với “sự cáo chung của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” như xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao.

Về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam, họ dựa vào bối cảnh thời gian, không gian ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin để phủ nhậnxuyên tạc với luận điệu: chủ nghĩa Mác - Lênin không nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn đầy đủ, nó chỉ phù hợp với các nước châu Âu; trong khi đó, ở châu Á có sự phát triển kinh tế khác, có trình độ văn hóa, cùng phong tục, tập quán khác các nước châu Âu. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Việt Nam chỉ là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống, văn hóa dân tộc, việc vận dụng vào Việt Nam là khiên cưỡng. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những quy luật vận động chung của lịch sử loài người và các ông cũng đều nhấn mạnh việc vận dụng những quy luật chung ấy vào điều kiện cụ thể của mỗi nước cũng phải có những cải biến trong những vấn đề chi tiết cho phù hợp với đặc điểm của quốc gia, dân tộc. Bản thân các ông cũng không hề coi lý luận của mình là tối cao, tuyệt đỉnh, mà cần phải có sự bổ sung, phát triển, cụ thể hóa vào từng điều kiện lịch sử cụ thể: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Còn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: trong quá trình vận dụng những quy luật chung, những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa cộng sản, phải chú ý đến đặc thù của dân tộc mình. Người khẳng định: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Do đó, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn.

Về vai trò và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, các thế lực thù địch cho rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào thế kỷ XIX trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (động cơ hơi nước), nền sản xuất dựa trên máy móc cơ khí nên chỉ hợp với thời điểm đó, cùng lắm là thế kỷ XX, còn hiện nay loài người đã chuyển mình sang Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa, tin học hóa, thời đại “hậu công nghiệp”, kinh tế - xã hội có rất nhiều đổi thay, vì vậy hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin không còn phù hợp. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học xã hội, khoa học nhân văn. Vì thế, nó mang đặc trưng tích lũy, kế thừa, chứ không mang đặc trưng thay thế như những tri thức thuộc ngành khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ hiện đại ngày nay vốn không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản là “bóc lột”; ngược lại, nó làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm sâu sắc. Điều này được biểu hiện cụ thể trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại, như: mâu thuẫn giữa tư bản và người lao động vẫn tồn tại và gia tăng, khoảng cách giàu - nghèo mở rộng, phân phối của cải không công bằng, nạn thất nghiệp tăng lên, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội trở nên trầm trọng, v.v. Điều đó càng chứng tỏ thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng đắn và có ý nghĩa thời đại như thực tiễn đã và đang minh chứng: Cải cách chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc (từ năm 1978), đổi mới ở Việt Nam (từ năm 1986) và các quá trình tương tự ở các nước xã hội chủ nghĩa khác được triển khai với các nguyên tắc đúng đắn; vừa toàn diện, đồng bộ; vừa có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, giải pháp phù hợp; vừa kiên định và sáng tạo, kế thừa và phát triển, gắn lý luận với thực tiễn, gắn quốc gia với thế giới. Nhờ vậy, Trung Quốc đã trở thành cường quốc có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới. Việt Nam đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; Cuba hiên ngang trước bao vây cấm vận, kiên định xây dựng quốc gia xã hội chủ nghĩa độc lập, có chủ quyền, dân chủ, thịnh vượng và bền vững; các nước xã hội chủ nghĩa khác đều có nhiều thành công trong xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội. Đây thật sự là một quá trình cải cách, đổi mới thành công cả về tư duy lý luận, nhận thức, tầm nhìn và thực tiễn, chủ trương, chính sách, khẳng định xung lực của chủ nghĩa xã hội trước mọi sóng cồn, gió cả của thời cuộc.

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động sử dụng thủ đoạn tấn công trên nhiều phương diện. Họ xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh không có tư tưởng riêng, mà chỉ là ảo tưởng do Đảng Cộng sản nghĩ ra. Hơn thế, họ còn đưa ra luận điệu: tư tưởng Hồ Chí Minh không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay và cho rằng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến đấu tranh dân tộc, theo chủ nghĩa dân tộc nên chỉ có giá trị trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc chứ không có giá trị đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là sự xuyên tạc vô căn cứ, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam.

Thực hiện mưu đồ phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động tiến hành thủ đoạn vô cùng nham hiểm, đó là tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là một thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc, nhằm làm đứt gãy từng bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ biện luận rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Điển hình là việc Hồ Chí Minh không bao giờ “bê nguyên xi” chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà đều có sự thay đổi. Do đó, các thế lực thù địch ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua chủ nghĩa Mác - Lênin” hay “chỉ cần chủ nghĩa Mác - Lênin là đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam”. Họ còn cho rằng: “chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh”. Việc tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở để các thế lực thù địch, phản động tiến thêm một bước nữa đòi lấy tư tưởng Hồ Chí Minh thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam. Từ đó, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam và cũng gián tiếp phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng: tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin ở bản chất khoa học và cách mạng, ở lý tưởng và mục tiêu nhân văn vì con người, vì giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại. Về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có sự khác biệt, đối trọng nhau như những luận điệu của thế lực thù địch rêu rao. Có được điều đó là do chính Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu, kế thừa, phát triển lên tầm cao mới, vận dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Giá trị và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với nhân loại nói chung và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng là không thể phủ nhận. Do vậy, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ tất yếu khách quan, đòi hỏi phải kết hợp giữa kiên định và phát triển; trung thành và vận dụng sáng tạo; giữa lý luận và thực tiễn; giữa tổng kết với bổ sung, phát triển; giữa bảo vệ và đấu tranh, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin luôn và mãi là nền tảng tư tưởng vững chắc của các đảng cộng sản cầm quyền, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.

ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC - DI SẢN QUÝ BÁU CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MIMH

 

1. Đại đoàn kết dân tộc giữ vai trò hàng đầu trong tư tưởng của Bác.

Thống kê và phân tích những bài viết, bài nói của Bác đã được công bố trong Hồ Chí Minh toàn tập cho thấy Bác đã đề cập vấn đề đoàn kết trong 839 bài viết, chiếm tỷ lệ 43%; sử dụng từ đoàn kết, đại đoàn kết tới 1.809 lần. Trong đó có những bài được nhắc nhiều như: 16 lần trong “Sửa đổi lối làm việc”, 17 lần trong “Bài nói tại buổi khai mạc Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, 19 lần trong diễn văn kỷ niệm Quốc khánh 2-9-1957. Trong Di chúc, Bác đã sử dụng 8 lần từ đoàn kết với ba vấn đề: 1) Đại đoàn kết toàn dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. 2) Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng. 3) Đoàn kết quốc tế, hữu nghị và hợp tác.

Tư tưởng đại đoàn kết của Bác thể hiện nhất quán từ lý luận đến thực tiễn. Đại đoàn kết là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Nhiệm vụ ấy được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thể hiện trong lời phát biểu của Bác khi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Bác đã tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.         

Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Bác đã rất chú ý đặt nền móng cho sự hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất bằng việc tập hợp quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giới, từng ngành nghề, lứa tuổi, tôn giáo và hơn nữa phù hợp với từng thời kỳ phát triển của cách mạng. Là thực thể của tư tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận dân tộc thống nhất đã được xây dựng trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân kết thành một khối vững chắc.      

Tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 10-9-1955, Bác khẳng định: "Lịch sử trong những năm qua đã tỏ rõ lực lượng đoàn kết của nhân dân là vô địch. Mặt trận Việt Minh đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Mặt trận thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã giúp kháng chiến thắng lợi. Chúng ta có thể tin chắc rằng: Với sự cố gắng của mỗi người và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Phát biểu tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận ngày 8-1-1962, Người chỉ rõ: “Chính sách mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”.

2. Thực hiện tư tưởng của Bác, Đảng ta xác định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân, trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng nguồn lực các thành phần kinh tế của toàn xã hội. Đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.       

Đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược quan trọng trong tình hình mới. Mục tiêu lớn đặt ra cho công tác dân tộc là thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân. Đại hội XII của Đảng đánh giá: Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước.

3. Di nguyện thiêng liêng của Bác. Khi Bác vĩnh biệt thế giới này vẫn đau đáu một nỗi niềm “…mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh…”.  Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định phương hướng, nhiệm vụ: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yếu tố quan trong bậc nhất tạo nên năng lực nội sinh là đổi mới, tăng cường tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở:

Một là, phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất tinh thần tự tôn dân tộc, sức mạnh dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ thời cơ vận hội, không chậm chạp trong khi thế giới đang biến động gia tốc. Đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, đổi mới tăng cường đại đoàn kết, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ, tập hợp đoàn kết mọi lực lượng, mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, khuyến khích làm giàu chính đáng theo pháp luật, đẩy mạnh hơn nữa chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo. Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoạt động giám sát, phản biện chính sách, vai trò tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp phải được quan tâm đổi mới; nâng cao hiệu quả.

Ba là, đoàn kết quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, sẵn sàng là bạn với tất cả các nước. Đại doàn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa quyết định tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài; ngược lại mở cửa hội nhập quốc tế là nhằm cho lực và thế ở trong nước ngày càng tăng.  

Bốn là, toàn dân chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chung và được tổ chức thành một khối vững chắc trong mặt trận thống nhất. Những năm gần đây, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, giám sát và phản biện của mặt trận Tổ quốc vàcác tổ chức đoàn thể nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Hoạt động của mặt trận Tổ quốc trong thời gian tới cần hướng mạnh về cơ sở, về địa bàn dân cư, coi trọng củng cố mở rộng, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cán bộ làm công tác mặt trận. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến, tìm ra những nhân tố mới để tham mưu, kiến nghị với Đảng, Nhà nước bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách về công tác vận động quần chúng.          

Năm là, đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, một chế độ do dân làm chủ, một Nhà nước thực sự của dân do dân vì dân, một hệ thống chính trị tiên tiến, có hiệu lực, hiệu quả. Kiên quyết chống tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Có nhiều cơ chế và biện pháp để các tổ chức đảng lắng nghe các ý kiến của nhân dân. Bác Hồ nói: Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải vừa là đạo đức vừa là văn minh bởi Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Cán bộ, đảng viên nêu gương tốt nhân lên sự ủng hộ, tin cậy của nhân dân đối với Đảng - hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc.

ĐOÀN KẾT, LỜI CĂN DẶN THIẾT THA CỦA BÁC

Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc và xây dưng khối đại đoàn kết toàn dân có giá trị lí luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Bác khẳng định trong Di chúc: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đoàn kết là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng và nhân dân ta. Bác căn dặn: Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Theo Bác, đoàn kết không có nghĩa là xuôi chiều, dễ người dễ ta. Để trong Đảng đoàn kết, trở thành một khối thống nhất phải thật sự nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, và phải chỉnh đốn lại Đảng. Bác coi đó là nhiệm vụ tất yếu thường xuyên, là sự vận động của Đảng trong quá trình phát triển của cách mạng. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng ý chí kiên định, thái độ bình tĩnh, tránh tình trạng dao động, bi quan. Khi cách mạng thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn. Khi Đảng cầm quyền, chỉnh đốn Đảng để tránh sa ngã, thoái hoá biến chất, tự đánh mất mình. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Coi trọng chỉnh đốn Đảng là tạo nên sức mạnh đoàn kết theo lời dặn của Bác: Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để cũng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình thương yêu lẫn nhau.

Đảng ta xác định: Đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, mà hạt nhân là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Những năm qua, nhờ đoàn kết, công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hoá, xã hội. Đất nước giữ vững ổn định chính trị, trật tự an ninh được bảo đảm, đời sống nhân dân được cải thiện. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, các hoạt động nhân đạo, từ thiện thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.

Mong muốn cuối cùng của Bác trước lúc đi xa là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Chúng ta đang thực hiện mong muốn của Người trên cơ sở tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công. 

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

 

Trong di sản Tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục nói chung và giáo dục lý luận chính trị luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc; có tính bao quát, sâu xa, thiết thực. 

Giáo dục là một hoạt động hết sức quan trọng của con người, qua đó những kinh nghiệm, tri thức nhân loại tích lũy trong thực tiễn cuộc sống được trao truyền, giúp nhân loại không ngừng bổ sung, phát triển tri thức mới. Nhờ giáo dục và thông qua giáo dục, con người ngày càng phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách. Bao trùm lên tất cả là giáo dục giúp tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển trong tương lai. Chính vì vậy, giáo dục được coi là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững, là nguồn “của cải nội sinh” của mỗi quốc gia. Năm 1994, tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra tuyên bố: “Không có một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận của quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản”.

1. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Trong Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục, Người thường xuyên quan tâm tới công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Những quan điểm của Người về giáo dục lý luận chính trị mãi mãi soi sáng công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng.

Sớm nhìn thấy vai trò của công tác giáo dục lý luận chính trị, Người chỉ rõ: "Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng của mình". Với Hồ Chí Minh, đối tượng học tập lý luận chính trị trước hết là cán bộ, đảng viên, hội viên các đoàn thể, cán bộ các ngành chuyên môn của chính quyền. Theo Người, cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời cũng đem tình hình của quần chúng báo cáo cho Đảng để đặt chính sách cho đúng. Cán bộ là gốc của mọi công việc. Do đó, Người khẳng định huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người cho rằng, công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng tiên phong phải đạt trình độ tiên phong: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Bên cạnh đó, giáo dục lý luận chính trị cần phải định hướng cho nhận thức tư tưởng, mục tiêu và con đường đi lên của các dân tộc. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng mới làm nổi cách mệnh tiên phong”.

2. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục lý luận chính trị gồm các nội dung chủ yếu:

Một là, giáo dục lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Có thể nói, tư tưởng giáo dục lý luận chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo từ các tiền đề: 1) Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam; 2) Triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão; 3) Những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục lý luận chính trị Hồ Chí Minh là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Hai là, giáo dục các chuẩn mực đạo đức cách mạng và các nguyên tắc rèn luyện các chuẩn mực đóTheo Chủ tịch Hồ Chí Minh, với người cách mạng trước hết phải giác ngộ đạo đức cách mạng. Phải có cái đức để đi đến cái trí; khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái để người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mình theo, lý tưởng mình chọn, con đường mình đi.

Ba là, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là những nội dung không chỉ mang tính chất định tính trong nhận thức lý luận cho cán bộ, đảng viên mà còn định hướng, hướng dẫn cho cán bộ, đảng viên hành động; cũng chính là một biểu hiện của nội dung gắn liền lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Bởi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước là sự quán triệt, vận dụng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người viết: “Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng”.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra phương châm giáo dục lý luận chính trị. 
          Theo Người, giáo dục lý luận chính trị phải:

Gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Mối quan hệ qua lại giữa lý luận và thực tiễn là phản ánh mối quan hệ quá trình nhận thức biện chứng thực tế khách quan, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Thực tiễn là nguồn gốc, là cơ sở, là động lực của lý luận. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành đòi hỏi phải thống nhất nhận thức: việc giáo dục lý luận phải nhằm đạt được mục đích. Bởi vậy, với mỗi khóa học, lớp học, cơ sở đào tạo phải có kế hoạch gắn nội dung học tập với tham quan thực tế, phải khai thác kinh nghiệm thực tiễn của các đơn vị đến tham quan, nghiên cứu thông qua người học. Phải kiên quyết chống bệnh hình thức, đi thực tế theo lối “cưỡi ngựa xem hoa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Trong kế hoạch nghiên cứu thực tiễn cần mạnh dạn tới những nơi được coi là có nhiều vấn đề đòi hỏi lý luận lý giải.

Bảo đảm thống nhất giữa tính đảng, tính khoa học. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong giáo dục lý luận chính trị đòi hỏi phải tuyệt đối phải trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Xa rời nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều và xét lại. Thực hiện phương châm này, đòi hỏi những người làm công tác giáo dục lý luận chính trị chẳng những phải vững vàng, sâu sắc về lý luận mà còn phải có quá trình hoạt động thực tiễn phong phú và thường xuyên cập nhật kiến thức mới, có ý thức khắc phục và khắc phục bằng được lối dạy chay, thoát ly thực tế.

Tính khoa học phải được thể hiện ở sự mô tả hiện thực một cách khách quan cùng với những nguyên nhân của nó, tránh “tô hồng” hoặc “bôi đen” hiện thực. Bảo đảm tính đảng, tính khoa học mới có thể thực hiện được mục tiêu giáo dục lý luận chính trị của Đảng.

Kết hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội. Việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục được xem là vấn đề có tính nguyên tắc bảo đảm cho mọi hoạt động giáo dục có điều kiện đạt hiệu quả tốt. Sự phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường trên sẽ bảo đảm được sự thống nhất trong nhận thức cũng như trong hành động của giáo dục lý luận chính trị, thúc đẩy quá trình hoàn thiện nhân cách cán bộ.

4. Để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học của người thầy trong giáo dục lý luận chính trị.

Trong bài diễn văn khai mạc lớp lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc, Người căn dặn: “Việc học tập lý luận chính trị không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí được tốt hơn, nghĩa là các đồng chí phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong cách mạng của chúng ta. Như thế học tập lý luận cốt để áp dụng vào thực tế”. Người cán bộ giảng dạy lý luận chính trị đòi hỏi phải có một nền tảng lý luận và vốn thực tiễn phong phú, để kiểm nghiệm lý luận và nâng nhận thức lý luận lên tầm cao mới. Có như thế người giảng viên mới có thể thực hiện mục tiêu giáo dục lý luận: “Mục đích học để vận dụng chứ không phải học vì lý luận”. Người yêu cầu phải bồi dưỡng giảng viên lý luận cho các chi bộ, cho các tổ chức cơ sở đảng. Và, tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng của mình. Bởi theo Người lý luận là trí khôn của Đảng: “Đảng không có lý luận thì khác nào người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.

Đất nước ngày càng đối mới và phát triển cùng với bước đi chung của nhân loại nhưng không vì thế mà công tác giáo dục lý luận chính trị bị xem là lỗi thời. Thực tế chứng minh rằng, đất nước càng đổi mới thực chất là càng trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với công tác giáo dục lý luận chính trị hiện nay.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, TẤM GƯƠNG SÁNG VỀ NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng “nói đi đôi với làm”, cho mọi thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo. Ở Hồ Chí Minh lời nói đi đôi với hành động, lý luận đi đôi với thực tiễn, nói để mà làm, làm phải đúng như điều đã nghĩ, đã nói. Hơn nữa, Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người không nói mà chỉ làm. Thống nhất giữa lời nói và việc làm là nguyên tắc đạo đức của Hồ Chí Minh, là sự thể hiện tấm gương thực hành đạo đức cách mạng của bản thân.

Người thường nhắc nhở: Nói cái gì phải cho dân tin - nói và làm phải nhất quán. Với quan niệm đó, trong suốt cuộc đời mình, Người đã thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ nói đi đôi với làm. Sức thuyết phục mạnh mẽ trong tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, nói luôn đi đôi với làm, dù việc lớn hay việc nhỏ, tự mình phải làm gương trước. Tấm gương nói đi đôi với làm của Hồ Chí Minh, bắt nguồn từ quan niệm của Người, từ lòng dạ trong sáng, chính tâm, thật sự nêu gương của Người. Phẩm chất nói đi đôi với làm Người đã dạy chúng ta về lẽ sống “thật”, đối lập với giả, với dối.

Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh có biết bao câu chuyện cảm động về việc nêu gương, nói đi đôi với làm, tự mình làm trước.

Xuất phát từ truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, chứng kiến cuộc sống khổ cực của nhân dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp, người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trước khi đi, anh tâm sự với người bạn của mình: “Tôi muốn ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm ăn như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm…Anh muốn đi với tôi không? Khi người bạn hỏi lấy tiền đâu mà đi, anh Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn tay: “Đây, tiền đây… Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”.

Câu nói là sự thể hiện quyết tâm và cũng là lời hứa của Người trước vận mệnh dân tộc mình. Với hai bàn tay trắng và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, 5-6-1911, chàng trai xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành 21 tuổi đã vượt đại dương với nghề phụ bếp trên tàu để đi khắp năm châu bốn biển, tự kiếm sống, học tập với hoài bão tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Thực tiễn đã chứng minh Người đã làm đúng như những gì Người đã nói. Sau 30 năm bôn ba đặt chân đến gần 30 nước, ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc trực tiếp cùng Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Khi nước nhà mới giành độc lập 1945, cách mạng Việt Nam đứng trước muôn vàn khó khăn “thù trong, giặc ngoài”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã đưa ra những chủ trương hết sức đúng đắn, kịp thời đẩy lùi những khó khăn. Để giải quyết nạn đói trên miền Bắc, Người đề nghị toàn dân tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói, và Người mẫu mực thực hiện trước: “Lúc chúng ta mang bát cơm lên mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ chúng ta không khỏi động lòng, vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăm một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”.

Nói đi đôi với làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện rất nghiêm túc, mặc dù lúc này sức khỏe Người giảm sút do trải qua trận ốm nặng. Các đồng chí từng phục vụ bên Người kể lại rằng, một lần tướng Tiêu Văn của Quân đội Tưởng Giới Thạch mời Người dự chiêu đãi. Hôm đó, đúng vào bữa cơ quan nhịn ăn để góp gạo cứu đói, mặc dù các đồng chí phục vụ đã báo cáo phần gạo của Người đã cho vào hũ gạo cứu đói rồi, nhưng Người vẫn quyết định “nhịn ăn một bữa” vào ngày hôm sau.

Năm 1946, để tăng cường sức khỏe cho nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân tập thể dục. Bản thân Người là tấm gương “Tự tôi ngày nào cũng tập”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy đảng viên, nhân dân phải thực hành tiết kiệm: tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền bạc, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không bừa bãi, phô trương hình thức. Bản thân Người đã luôn thực hiện đời sống thanh bạch từ ăn, ở đến các phương tiện sử dụng phục vụ công việc hàng ngày. Đồ dùng cá nhân của Người cũng rất giản dị và tiết kiệm.

15 năm cuối đời, Bác sống ở Phủ Chủ tịch, khi đó kinh tế còn khó khăn, đời sống nhân dân còn thiếu thốn. Bác yêu cầu: Chiều thứ bảy hằng tuần cho Bác ăn cháo để bớt phần gạo cho dân và đề nghị với nhà bếp, cán bộ, nhân dân ăn cơm độn ngô, khoai, sắn bao nhiêu phần trăm thì độn cho Bác bấy nhiêu phần trăm. Bữa ăn của Bác thanh đạm như bữa ăn của bao gia đình người dân: bát canh, quả cà, vài lát thịt kho. Khi ăn cơm, Bác không bao giờ để rơi một hạt cơm, vì Người biết một hạt cơm là một giọt mồ hôi của người dân. Cố thủ tướng Phạm văn Đồng nói: ăn cơm với Cụ hàng trăm lần, lần nào cũng thấy Cụ tém vén không để rơi một hạt nào. Bởi Cụ quý và tiết kiệm sức lao động của người làm ra lúa gạo.

Về thăm các địa phương, Người thường không báo trước. Có lần Bác đến thăm công trình thủy lợi Bắc- Hưng - Hải, buổi trưa Tỉnh ủy có mời Bác ăn cơm trưa. Ít ngày sau, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh phụ trách công tác tài chính đến báo cáo công việc với Bác. Sau khi báo cáo xong, đồng chí có nói chuyện riêng với đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký giúp việc cho Bác, đồng chí đã hỏi: Có phải hôm Bác về thăm tỉnh ấy, có thịt bò chiêu đãi? Nghe được câu chuyện giữa đồng chí Hoàng Anh với đồng chí Thư ký. Bác nói với đồng chí Hoàng Anh: Thế thì chú quyết toán cho họ. Vài ngày sau đó khi đi công tác, Bác dặn đồng chí giúp việc chuẩn bị cơm nắm muối vừng mang theo để tránh đón rước linh đình, phiền hà, tốn kém thời giờ và tiền bạc của nhân dân. Tránh tình trạng như hôm ta về thăm tỉnh, họ quyết toán chiêu đãi Bác cả con bò, điều người này, người khác sang chuẩn bị cả buổi. Thế là tự Bác bao che cho chuyện xôi thịt - mà xôi thịt đấy là sự đóng góp của dân mà có.

Về nơi ở, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội, Người không ở căn nhà to lớn của viên toàn quyền Đông Dương, mà chọn ở ngôi nhà của người công nhân thợ điện. Ngôi nhà mà Đảng, Chính phủ định mời Bác ở, Bác nói dành làm nơi đón, tiếp các đoàn khách sang thăm Việt Nam vì nước ta còn nghèo, một mình Bác ở nhà to rất lãng phí. Mùa hè, Miền Bắc oi bức, nhưng Bác chỉ dùng quạt lá cọ để “dành điện phục vụ cho sản xuất, phục vụ sinh hoạt cho nhân dân”. Thương Bác, các đồng chí cán bộ ngoại giao gửi biếu Bác chiếc điều hòa nhiệt độ, nhưng Người không dùng mà đề nghị chuyển chiếc điều hòa ấy cho các đồng chí thương, bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, là những người, những nơi cần hơn.

Về mặc, Người ăn mặc cũng rất giản dị. Mùa đông, Bác Hồ có một cái áo bông của đồng bào biếu Bác, vì dùng nhiều năm nên mền bông bẹp xuống, không còn ấm nữa, nhưng không ai dám nghĩ đến việc xin Bác bỏ mền bông đi, chỉ nghĩ đến việc thay vỏ ngoài. Vì dùng mãi vỏ áo đã đứt chỉ ở khuỷu tay và ở cổ, Bác bảo mang áo lại. Nó rách ở vai thì Bác bảo vá vai, đến khi nó rách hai lần, đồng chí phục vụ xin Bác cho thay vỏ ngoài. Bác bảo: “Này, chú ạ, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc lớn của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”.

Xúc động hơn cả là bản Di chúc lịch sử Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa cũng được viết ở mặt sau của một tờ bản tin cũ để tiết kiệm giấy.

Không chỉ tiết kiệm trong lối sống của bản thân, ngay cả trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan tâm làm sao tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời gian. Những năm tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, tổ công tác đi theo Bác chỉ có ít người nhưng kiêm mọi công việc. Cách mạng Tháng Tám thành công, trở về Thủ đô nhưng các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ Chủ tịch cũng rất ít. Những khi đi công tác xa, Bác thường tạo điều kiện để các đồng chí phục vụ được tranh thủ về thăm gia đình. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên mọi người sống trong sạch, không ham tiền tài, danh vọng, không cậy quyền thế mà đục khoét của dân. Cuộc sống giản dị, trong sạch của Người thật sự là tấm gương sống để cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền phải tự soi lại mình.

Nhân dân tỉnh Thái Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác san sẻ quà đó với người khác cùng hưởng; hay khi nhận được món quà là hộp mật ong khô rất quý nhưng Người kiên quyết không giữ lại dùng riêng mà yêu cầu đồng chí cấp dưỡng đem nấu chè cho mọi người cùng thưởng thức. Đặc biệt, trong một lần, Người sang thăm Liên Xô, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi tới Bác 4.000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1.000 rúp. Nhưng trước khi rời Mat-xcơ-va, Người đã gửi lại Ủy ban Trung ương Đảng Liên Xô 5.000 rúp đó.

Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tin yêu, quý trọng con người, phải kính già yêu trẻ và Người là tấm gương mẫu mực về điều đó. Trong những năm tháng giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, cả nước sống trong không khí khẩn trương, sẵn sàng chiến đấu. Giữa trời hè nóng nực, khi xe đưa Bác đi công tác về qua Quảng trường Ba Đình, nhìn lên nóc nhà hội trường Ba Đình, thấy các đồng chí bộ đội phòng không đang trực chiến trên mâm pháo dưới cái nắng hầm hập, Bác rất thương anh em. Ngay sau đó, Người quyết định dành toàn bộ số tiền nhuận bút của mình bấy lâu trong sổ tiết kiệm gửi Bộ Quốc phòng chuyển tặng các chiên sỹ phòng không để mua nước giải khát...

Thời gian trôi qua, những câu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “nói đi đôi với làm” vẫn còn vẹn nguyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là tấm gương sáng chói cho mọi thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thanh niên học tập và noi theo. 

ĐẤU TRANH BÁC BỎ NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, thời gian qua, vẫn còn một số người có nhận thức chưa đúng, thậm chí những kẻ cơ hội, bất mãn chính trị đã phê phán, phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, chúng ta cần nhận diện, bác bỏ những luận điệu sai trái này.

Thứ nhất, cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng.

Một số người bị dao động về lập trường tư tưởng, hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động khi cho rằng “không có tư tưởng Hồ Chí Minh”. 

Sinh thời, tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”. Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tổ chức UNESCO khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”. Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững chắc điều này.

Thứ hai, cố tình đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng.

Một số người có nhận thức lệch lạc khi một mặt họ cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khác và đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất; mặt khác, họ lại “tôn vinh” tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

Hai quan điểm này đều không đúng cả về lịch sử và logic. Về mặt lịch sử, Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là nguồn gốc quan trọng dẫn tới hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt logic, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chứ không hề có sự mâu thuẫn, đối lập như suy luận, xuyên tạc của một số người.

Về quan điểm thứ nhất, một số người đã hùa theo các luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh. Luận điệu này đã làm dư luận hoài nghi về bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Về quan điểm thứ hai, một số người cho rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin từng có giá trị nhưng đã bị lịch sử vượt qua. Những người này còn ngụy biện rằng, cho dù chưa bị lịch sử vượt qua thì Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ phù hợp với các nước phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Do đó, họ ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Từ đó họ cho rằng, nên đưa Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Đây là quan điểm nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất nhằm phủ nhận cả Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi cội nguồn lý luận quan trọng nhất là Chủ nghĩa Mác-Lênin thì bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không còn những đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn như vốn có.

Bên cạnh đó, một số người đã cố tình vin vào cớ hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” như trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra để thổi phồng những khuyết điểm của một số cán bộ thoái hóa, biến chất mà bỏ qua những ưu điểm mang tính bản chất của đa số cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.

Từ đó, họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đã thoái hóa, biến chất, khác xa với lý tưởng, khát vọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ yêu cầu phải bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, tức là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên, mang bản chất cách mạng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Vậy mà, khi Đảng kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, loại trừ các vấn nạn trong công tác cán bộ nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ thì một số người lại có nhận thức lệch lạc, cố tình vu khống, quy kết là Đảng ta “đấu đá nội bộ”, “đấu tranh giữa các phe phái vì quyền lực”. Họ làm ra vẻ khách quan khi dùng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh làm “hệ quy chiếu” để đánh giá, phán xét Đảng.

Danh nghĩa là họ đề cao Hồ Chí Minh nhưng thực chất lại đang hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Điều này gây hoang mang, mất niềm tin, chia rẽ nội bộ, đặc biệt, nó có thể làm một bộ phận dân chúng, thậm chí ngay cả một số ít văn nghệ sĩ, trí thức từng tin tưởng và kính trọng Hồ Chí Minh cũng có thể trở nên lung lay tư tưởng, rệu rã niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Thứ ba, phủ nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Một số người đã có nhận thức rất lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”, “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì tư tưởng Hồ Chí Minh không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những người này ra sức phủ nhận sự cần thiết và hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lý do họ đưa ra là Hồ Chí Minh là bậc thánh nhân trong khi chúng ta là người bình thường; Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh trong khi chúng ta đang có cuộc sống bình thường ở thế giới hiện đại.

Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa khổ hạnh và cũng chưa bao giờ tỏ ra mình là bậc thánh nhân, mà Người luôn yêu cầu cán bộ góp ý cho mình, rằng: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi”.

Những người này đã cố tình không hiểu rằng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học tinh thần tinh túy trong tư tưởng, phương pháp, phong cách của Người để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn như sinh thời Người đã học tập, vận dụng sáng tạo thành công Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, chứ không phải học rồi “làm theo” một cách máy móc để cho giống hoặc thành một “Hồ Chí Minh thứ hai”. Do đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là chủ trương đúng đắn của Đảng, hợp với lòng dân và có giá trị thiết thực trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong thế kỷ 20, mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai. Đấu tranh chống các nhận thức lệch lạc, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm bảo vệ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.

Để việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục, chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ quan, áp đặt, thiên kiến hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.

THỰC HIỆN ĐỒNG BỘ "4 KHÔNG" ĐỂ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG HIỆU QUẢ

 

Quyết liệt triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo đảm "4 không" thì chắc chắn tham nhũng, tiêu cực sẽ được đẩy lùi, giảm nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"...

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao... Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Trong đó, công tác phòng, chống tham nhũng đóng vai trò hết sức quan trọng, được coi là cuộc “tự cách mạng” triệt để, góp phần làm trong sạch nội bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, xử lý nghiêm minh, bảo đảm không có vùng cấm, qua đó đã tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đánh giá cao, đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.

Đặc biệt, là Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, với quyết tâm chính trị rất cao và mẫu mực nêu gương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá, gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.

Qua đó, tạo được sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và nhân dân với tinh thần “tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc; không chấp nhận những cán bộ, đảng viên ngả nghiêng, dao động.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vẫn còn những mặt hạn chế cần phải thẳng thắn nhìn nhận và quyết tâm khắc phục bằng được để ngăn chặn hiệu quả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái, biến chất, vi phạm pháp luật và đạo đức, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, đồng thời là cái cớ để các thế lực phản động, thù địch lợi dụng chống phá nhằm thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta.

Trước hết, chúng ta cần thấy rằng, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng thời gian qua có mặt còn hạn chế, nhất là trong vận động xây dựng văn hóa sống liêm khiết, tiết kiệm, không tham nhũng, tiêu cực. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người dân chưa nhận thức đầy đủ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của các tổ chức trong phòng, chống tham nhũng, thiếu tự giác chấp hành.

Vẫn còn tình trạng thờ ơ, ngại đấu tranh với biểu hiện tham nhũng trong nội bộ; trách nhiệm nêu gương của một số cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa được thực hiện nghiêm túc, tính tiền phong, gương mẫu chưa cao; một bộ phận không nhỏ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lợi dụng chức vụ, quyền hạn và những sơ hở của chính sách, pháp luật, sự lơi lỏng trong công tác quản lý để tham nhũng, trục lợi. Thực tế những vụ án nổi cộm về tham nhũng, tiêu cực liên quan đến Công ty Việt Á và các "chuyến bay giải cứu", hay trong hoạt động đăng kiểm ô tô vừa qua đã cho thấy rõ điều này. 

Cùng với đó, các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình chưa được quan tâm thực hiện đầy đủ ở một số cơ quan, tổ chức; những quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn chậm được triển khai và chưa thực hiện quyết liệt.

Việc kiểm soát quyền lực, công tác kiểm tra theo phân cấp còn chưa thường xuyên và thiếu nghiêm túc; có nơi chưa chủ động phát hiện, xử lý chưa kiên quyết và dứt điểm đối với các trường hợp vi phạm, dẫn đến từ vi phạm nhỏ thành vi phạm lớn...

Vẫn để xảy ra một số vụ việc, vụ án tham nhũng phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế; đồng thời là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định: “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Đảng đưa công tác phòng, chống tham nhũng lên tầm cao hơn, là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể nhân dân, với tinh thần phải làm quyết liệt, thể hiện qua 3 vấn đề: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, bảo đảm không có vùng cấm, không có ngoại lệ; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự.

Công tác phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, nhiều khó khăn, phức tạp, phải tiến hành thường xuyên, kiên quyết, kiên trì ở tất cả các cấp, ngành, lĩnh vực, với những cách làm vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Đảng ta chủ trương phải xây dựng được cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”; răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám tham nhũng”; bảo đảm chế độ chính sách để “không cần tham nhũng” và xây dựng văn hóa liêm chính để “không muốn tham nhũng”.

Theo tinh thần thực hiện đồng bộ "4 không" nêu trên, trước hết chúng ta cần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về đạo đức công vụ, sự liêm chính, chí công vô tư, kiên trì xây dựng văn hóa tiết kiệm, trọng danh dự, liêm sỉ, không tham nhũng trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là sự gương mẫu của người đứng đầu và đội ngũ cán bộ chủ chốt của các cơ quan, đơn vị, địa phương. Cần nghiên cứu đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên, hình thành đức tính liêm chính từ lúc còn trẻ tuổi.

Chú trọng tuyên truyền, nhân rộng cá nhân điển hình tiên tiến; bảo vệ, khen thưởng, động viên khích lệ những người dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Cùng với thông tin kịp thời, minh bạch về những vụ án, vụ việc tham nhũng, cần chủ động đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, lợi dụng chống tham nhũng để chống phá Đảng, Nhà nước, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng. 

Về hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, đầu tiên chúng ta cần kiên quyết chỉ đạo rà soát, bổ sung quy chế làm việc của các cấp ủy, chính quyền bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý, lãnh đạo, điều hành và chấp hành. Hoàn thiện các cơ chế về kiểm soát quyền lực trong những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng; phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, công chức, viên chức. Bảo đảm kịp thời tiếp nhận, xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị, tố cáo của người dân, doanh nghiệp đối với những hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà của tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ...

Việc vô cùng quan trọng là phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, có kiến thức, năng lực toàn diện, đặc biệt là có đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham vọng quyền lực và tham nhũng, cơ hội, cửa quyền, tư duy nhiệm kỳ.

Chú trọng kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và cán bộ quy hoạch vào vị trí lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhiều đơn thư phản ánh, tố cáo. Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng; ngăn chặn có hiệu quả các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện, công khai, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề nổi cộm gây bức xúc trong xã hội. Kịp thời phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn.

Cuối cùng, như người xưa đã đúc rút: "Có thực mới vực được đạo", chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác, có ý thức tự giác “không cần tham nhũng”. 

Thực tế cho thấy, mức thu nhập chính thức của đại đa số cán bộ, công chức hiện nay còn rất thấp so với nhu cầu cuộc sống bình thường, nên không ít người thiếu bản lĩnh đã có tư tưởng kiếm chác, làm liều để lo cho cuộc sống gia đình, dễ bị cám dỗ, mua chuộc, dẫn đến thoái hóa, biến chất. Đảng, Nhà nước cần thẳng thắn nhìn nhận thực tế này để nghiên cứu chế độ chính sách chăm lo cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp, khắc phục tình trạng "đói ăn vụng, túng làm liều" và tư tưởng "hy sinh đời bố, củng cố đời con" theo chiều hướng tiêu cực.  

Quyết liệt triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo đảm "4 không" (không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng) thì chắc chắn tham nhũng, tiêu cực sẽ được đẩy lùi, giảm nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và các thế lực thù địch cũng không còn cớ để lợi dụng quy chụp, xuyên tạc nhằm chống phá nước ta.