Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2023

Một số bài học kinh nghiệm về giải quyết tố cáo trong nội bộ Đảng, góp phần tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

 TCCS - Giải quyết hiệu quả đơn, thư tố cáo là một trong những biện pháp quan trọng để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vì vậy, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng lãnh đạo công tác này. Thời gian qua, các cấp, các ngành đã thực hiện nghiêm túc, đạt được những kết quả tích cực và rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc. Đó sẽ là cơ sở quan trọng giúp cho các chủ thể có trách nhiệm tiếp tục thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ này trong thời gian tới, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được quy định trong Hiến pháp và Luật Tố cáo. Trong nội bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam quy định việc giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, của ủy ban kiểm tra các cấp. Công việc này được thực hiện theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú chủ trì Kỳ thứ 30 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương_Ảnh: TTXVN

Thực hiện quy định của Điều lệ Đảng về giải quyết tố cáo và các văn bản có liên quan của Trung ương Đảng, thời gian qua, việc giải quyết tố cáo trong Đảng đã đạt được kết quả quan trọng. Chỉ tính từ nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, giải quyết tố cáo đối với 25 tổ chức đảng và 352 đảng viên là cán bộ diện Trung ương quản lý. Ủy ban kiểm tra cấp ủy các địa phương, đơn vị đã xem xét, giải quyết tố cáo đối với 1.718 tổ chức đảng và 45.705 đảng viên. Nội dung tố cáo tổ chức đảng, đảng viên bao gồm các vi phạm chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng; vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước; thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và có hành vi bao che khuyết điểm, trù dập cá nhân; vi phạm quy định về phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm những điều đảng viên không được làm; lạm dụng, lợi dụng quyền lực được giao, nhất là trong công tác cán bộ, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, đấu thầu, đầu tư xây dựng cơ bản... Nội dung tố cáo phần lớn liên quan đến hành vi lạm quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để trục lợi, tham nhũng, vì “lợi ích nhóm”.

Việc giải quyết tố cáo trong Đảng của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp thời gian qua về cơ bản là đúng nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian theo quy định. Đặc biệt, các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp đã tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm đơn tố cáo đối với nhân sự cấp ủy, nhân sự ứng cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp các nhiệm kỳ, nhân sự các chức danh lãnh đạo, quản lý thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; qua đó, góp phần quan trọng vào thành công của các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đại hội đại biểu đảng bộ các cấp, các cuộc bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp... Nhiều cấp ủy, ủy ban kiểm tra đã đổi mới phương pháp công tác, chú trọng giải quyết đơn, thư tố cáo đối với các vụ việc, lĩnh vực phức tạp, tham nhũng, tiêu cực... và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật, hoặc minh oan cho một số đảng viên; phát huy vai trò và trách nhiệm của nhân dân tham gia thực hiện quyền tố cáo, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; giải quyết các tố cáo liên quan đến những tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, suy thoái về tư tưởng chính trị, chạy chức, chạy quyền...; qua đó, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Từ thực tiễn giải quyết tố cáo thời gian qua của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp thông qua một số vụ việc phức tạp, nghiêm trọng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều đối tượng ở một số bộ, ngành, địa phương; bước đầu, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo như sau:

Một là, chú trọng nâng cao nhận thức, tinh thần và thái độ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp phải có nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm của mình và của nhân dân trong việc tố cáo, giải quyết tố cáo nói chung và tố cáo, giải quyết tố cáo tổ chức đảng, đảng viên nói riêng. Từ đó, tăng cường tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tố cáo, nhằm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ trong tố cáo nói chung, tố cáo tổ chức đảng, đảng viên nói riêng với tinh thần trách nhiệm cao để xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Các cấp, các ngành, các địa phương cần tích cực tuyên truyền sâu rộng và thấm nhuần, thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về khiếu nại, tố cáo; có biện pháp thích hợp để tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân thấy rõ và thực hiện đúng quyền và trách nhiệm của mình trong tố cáo và giải quyết tố cáo. Điều đó sẽ khắc phục tình trạng tố cáo sai sự thật hoặc vu cáo, nhằm giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Bên cạnh đó, các cấp, các bộ phận có liên quan cần hoàn chỉnh quy trình, phương pháp tiếp nhận và giải quyết đơn, thư tố cáo để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo. Ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ kiểm tra; trong đó, chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh, dũng khí của người cán bộ, nêu cao tinh thần kiên quyết, thận trọng, công tâm, khách quan, dân chủ trong giải quyết tố cáo các hành vi có dấu hiệu tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Hai là, trong công việc phải biết dựa vào nhân dân, tôn trọng và phát huy vai trò của nhân dân. Biết dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, đoàn thể nhân dân cùng tham gia phát hiện, phản ánh, tố cáo hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên và sự tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” sẽ bảo đảm cho cán bộ làm công tác kiểm tra thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “... chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”(1). Theo đó, mỗi công dân, cơ quan, đơn vị phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, tệ chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu...; đồng thời, phải nâng cao trình độ văn hóa cho toàn xã hội, để văn hóa mới xã hội chủ nghĩa được lan tỏa, thấm sâu trong các tầng lớp nhân dân. Khi đó, văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội - sẽ có vai trò quan trọng, góp phần lên án, phê phán tệ lạm quyền, lợi dụng quyền lực, tham nhũng, thói lười biếng, phù hoa, xa xỉ, thói hư, tật xấu của con người. Văn hóa sẽ tạo điều kiện, góp phần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, công chức có tinh thần vì nước quên thân, vì dân phục vụ, luôn vì lợi ích chung mà hy sinh cống hiến; cùng với đó, mỗi người dân Việt Nam đều nhận thức sâu sắc, hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình.

Việc phát huy mạnh mẽ vai trò của nhân dân trong tham gia phát hiện, phản ánh, tố cáo những dấu hiệu tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi công tác đó vừa bảo đảm dân chủ được thực thi trên thực tế, vừa bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Hơn nữa, tất cả hoạt động, mối quan hệ của cán bộ, đảng viên nói chung, kể cả sự tha hóa quyền lực, hành vi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”... nói riêng đều khó tránh khỏi sự theo dõi, giám sát của cán bộ, đảng viên, “tai mắt” quần chúng nhân dân cả ở nơi công tác cũng như nơi cư trú. Vì thế, phát huy mạnh mẽ vai trò tham gia giám sát của quần chúng nhân dân sẽ tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện và giải quyết tố cáo, mang lại hiệu quả cao.

Đồng thời, mỗi cơ quan, tổ chức và cán bộ khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ phải có thái độ tôn trọng người tố cáo. Khi người tố cáo đến phản ánh, kiến nghị trực tiếp ở cơ quan tiếp công dân, cán bộ có chức trách, nhiệm vụ phải trân trọng lắng nghe ý kiến phản ánh của họ, ghi chép đầy đủ vào sổ theo dõi hoặc biên bản làm việc. Khi người tố cáo gửi đơn, cán bộ có trách nhiệm phải tiếp nhận, nghiên cứu, để tham mưu hoặc trực tiếp giải quyết theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phải hướng dẫn người tố cáo thực hiện đúng quyền và trách nhiệm tố cáo của mình (không được ký đơn tập thể, không tố cáo mang tính bịa đặt, vu khống, không gửi đơn tố cáo đến nơi không có thẩm quyền giải quyết); khắc phục tình trạng thiếu thiện chí, né tránh (nếu có) đối với người tố cáo...

Ba là, nâng cao quyết tâm chính trị của cấp ủy, ủy ban kiểm tra và đoàn (tổ) giải quyết tố cáo (gọi chung là đoàn kiểm tra). Những đảng viên bị tố cáo thường là cán bộ có chức, có quyền, nên nếu ủy ban kiểm tra, đoàn kiểm tra, cán bộ kiểm tra thiếu bản lĩnh, dũng khí, trình độ và sự trong sạch, không công tâm, khách quan, trung thực thì sẽ khó vượt qua được các “sức ép”, áp lực từ nhiều phía trong quá trình giải quyết tố cáo. Vì thế, cần chú trọng nâng cao các phẩm chất cần thiết và quyết tâm chính trị của đoàn kiểm tra. Đồng thời, đoàn kiểm tra cần tổ chức nhiều kênh tiếp nhận thông tin, để đảng viên và nhân dân có điều kiện tố cáo, phản ánh về các dấu hiệu vi phạm, nhất là các hành vi lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Bố trí cán bộ đủ năng lực để tiếp công dân đến tố cáo, phản ánh nhằm hạn chế tố cáo sai sự thật hoặc giấu tên, mạo tên... Lãnh đạo cấp ủy, tổ chức đảng, mà trực tiếp là bí thư cấp ủy, cần bố trí lịch tiếp dân, thực hiện việc tiếp công dân đúng quy định và có biện pháp chỉ đạo, tổ chức việc giải quyết đơn, thư phản ánh, tố cáo thuộc thẩm quyền của cấp mình. Điều đó vừa thể hiện tinh thần thực hiện nghiêm chức trách, nhiệm vụ của cá nhân và tổ chức liên quan, vừa tạo sự tin tưởng của đảng viên và nhân dân đối với công tác kiểm tra, giải quyết tố cáo của Đảng.

Lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh tiếp công dân_Ảnh: dichvucong.quangninh.gov.vn

Bốn là, bảo vệ người tố cáo đúng, xử lý nghiêm minh người tố cáo có dụng ý xấu, vu cáo hoặc tố cáo sai sự thật. Cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra phải trân trọng và bảo vệ người tố cáo có tâm huyết, vì muốn đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Đảng nên đã phải đối mặt, vượt qua nhiều khó khăn, áp lực để dám báo cáo, tố cáo, phản ánh với Đảng những hành vi vi phạm, về hành vi lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền lực, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức. Cần có cơ chế bảo vệ, khuyến khích và khen thưởng kịp thời những người thẳng thắn, dũng cảm đấu tranh, phê bình, tố cáo đúng, tích cực góp phần vào công cuộc xây dựng Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trên thực tế, việc trấn áp, trù dập người thẳng thắn, dũng cảm tố cáo, phản ánh đúng vẫn xảy ra ở một số tổ chức đảng, cơ quan nhà nước; nhiều ý kiến đóng góp, tố cáo đúng đắn, có giá trị của nhân dân bị xem nhẹ, vì nhiều nguyên nhân. Điều đó khiến cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên khi đã trở nên nghiêm trọng, trầm trọng thì mới được xem xét, giải quyết; dẫn đến hậu quả là vừa mất cán bộ, thiệt hại về tiền của, tài sản, vừa đánh mất uy tín của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Vì vậy, xây dựng cơ chế hữu hiệu, thích hợp để bảo vệ người thẳng thắn, dũng cảm phát hiện, tố cáo hành vi tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” là yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay.

Cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra, nhất là đoàn kiểm tra phải biết phân tích, nghiên cứu nắm bắt thái độ, tâm lý người tố cáo, có phong cách, phương pháp tiếp cận, ứng xử phù hợp để giúp cho họ yên tâm, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tố cáo, không lồng động cơ cá nhân vào trong tố cáo. Muốn vậy, phải phân tích thấu đáo để người tố cáo nhận thức, thấy rõ trách nhiệm chính trị, hành chính, hình sự của mình trước pháp luật, nếu những nội dung tố cáo mang tính vu cáo, bịa đặt, có dụng ý xấu; qua đó, định hướng cho họ chỉ cung cấp thông tin đúng sự thật, chứng cứ xác thực, tự điều chỉnh thông tin không xác thực, rút bỏ nội dung tố cáo vô căn cứ. Xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp tố cáo sai sự thật, không chấp hành quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lợi dụng tố cáo để gây rối; đặc biệt là kiên quyết xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm trong tiếp công dân, giải quyết tố cáo, ra quyết định giải quyết tố cáo sai trái hoặc kết luận giải quyết tố cáo không đúng, không khách quan, không chặt chẽ, không đầy đủ.

Năm là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy trong việc giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên có vai trò rất quan trọng. Cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy, phải nêu cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc cấp mình quản lý. Việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra, giải quyết, kết luận rõ nội dung vi phạm trong một số vụ việc tố cáo nổi cộm và kiên quyết xử lý hoặc đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền xử lý kịp thời, nghiêm minh, đồng bộ cả kỷ luật đảng và kỷ luật chính quyền, đoàn thể, kể cả xử lý bằng pháp luật, đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Cấp ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát trách nhiệm, nhiệm vụ giải quyết tố cáo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra, đảng viên là thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp và cán bộ, đảng viên có thẩm quyền giải quyết tố cáo sẽ hạn chế được tố cáo phức tạp, nghiêm trọng, kéo dài gây mất đoàn kết, bất ổn trong nội bộ. Cấp ủy cần chỉ đạo sát sao việc sơ kết, đánh giá việc chấp hành quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tố cáo và thường xuyên rút ra bài học kinh nghiệm, để chấn chỉnh, khắc phục kịp thời hạn chế, khuyết điểm.

Ủy ban kiểm tra các cấp chủ động trong công tác tham mưu, giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt việc tiếp công dân, giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của cấp ủy. Đồng thời, việc ủy ban kiểm tra cấp trên tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ và kiểm tra, giám sát ủy ban kiểm tra cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc thẩm quyền, bảo đảm đúng nguyên tắc, thủ tục, quy trình, nhất là bảo đảm đúng thời gian quy định của Điều lệ Đảng, hướng dẫn của Trung ương sẽ góp phần hạn chế và khắc phục tình trạng đơn, thư tồn đọng, kéo dài làm người tố cáo hiểu lầm, hoặc né tránh, đùn đẩy cho cấp trên giải quyết. Đối với những vụ tố cáo phức tạp, liên quan tới nhiều đối tượng, nhiều cấp, nhiều ngành, ủy ban kiểm tra cấp trên cần tăng cường hỗ trợ cấp dưới về nhân lực, nghiệp vụ khi tiến hành giải quyết thì mới mang lại hiệu lực, hiệu quả thiết thực.

Hiện nay, theo quy định của Đảng, không giải quyết đơn, thư tố cáo nặc danh, giấu tên; tuy nhiên, trong trường hợp đơn, thư tố cáo không có tên, nhưng có nội dung cụ thể, có địa chỉ và tên người bị tố cáo rõ ràng, thì khi đó ủy ban kiểm tra phải chủ động nắm chắc tình hình và xem xét chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và đây cũng là một bài học kinh nghiệm quý, đã giúp giải quyết được nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực trong thực tế.

Sáu là, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác giải quyết tố cáo. Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong việc tiếp công dân, nhận đơn, thư, lắng nghe ý kiến phản ánh của cán bộ, đảng viên và công dân là công việc rất quan trọng. Thực tế cho thấy, sự phối hợp chặt chẽ giữa ủy ban kiểm tra các cấp với các tổ chức đảng có liên quan của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trong việc giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên có vai trò, tác dụng quan trọng để nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ này. Sự phối hợp từ nắm tình hình, việc triển khai quyết định giải quyết tố cáo đến việc tổ chức hội nghị triển khai thực hiện kế hoạch giải quyết tố cáo, trong công tác thẩm tra, xác minh, kết luận, triển khai thông báo kết luận giải quyết tố cáo và thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo biết theo quy định, đã vừa nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo, vừa giảm bớt công sức, thời giờ của cơ quan chủ trì giải quyết tố cáo. Khi sự phối hợp giữa các tổ chức đảng có liên quan bảo đảm chặt chẽ, thông suốt thì sẽ tạo nên tâm lý thoải mái, tôn trọng, hiểu biết, cộng tác, tin tưởng lẫn nhau giữa các đơn vị; đồng thời, nêu cao ý thức tự phê bình, thể hiện sự tôn trọng và phát huy dân chủ trong tố cáo và giải quyết tố cáo sẽ tạo tâm lý thuận lợi, giúp đối tượng bị tố cáo tự giải trình, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, trung thực hơn, góp phần làm cho công việc được thực hiện hiệu quả.

Có thể thấy, việc phối hợp tốt, phát huy tự phê bình và phê bình trong giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên, biết khích lệ, động viên đối tượng bị tố cáo, sẽ giúp tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên được giao nhiệm vụ giải quyết tố cáo nhanh chóng làm rõ sự thật và đối tượng cũng tự giác hợp tác hơn, giúp quá trình thẩm tra, xác minh, nhận xét, đánh giá, xem xét, kết luận có kết quả khách quan, chuẩn xác, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Những bài học kinh nghiệm về giải quyết tố cáo trong Đảng nêu trên được đúc rút qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của Đảng thời gian qua, cần tiếp tục được kế thừa, vận dụng sáng tạo trong tình hình mới và sẽ góp phần vào việc nâng cao nhận thức, chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ này trong thời gian tới, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh./.

CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM

 

Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung về ngoại giao nói riêng là một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực, thù địch, phản động. Bài viết: “Trì hoãn dân chủ hóa đất nước: thêm một tội ác của đảng CSVN” của Đào Tăng Dực đăng trên “Baotiengdan” là một trong những số đó.

SỰ TÔN TRỌNG CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM CÓ Ý NGHĨA LỚN

 


   

Sự kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng thực hiện chuyến thăm cấp nhà nước đến Việt Nam vừa qua, đã chính thức cho thấy sự tôn trọng của nước Mỹ đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, điều mà nhân dân Việt Nam đã từng kỳ vọng nhưng đã không thành cách đây gần 80 năm.

HIỂU ĐÚNG VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM

 


 

 

Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung về ngoại giao nói riêng là một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực, thù địch, phản động, mục đích cuối cùng là phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những dấu hiệu cơ bản nhận biết thông tin xấu độc trên mạng xã hội

 


Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa, trước sự bùng nổ của hệ thống mạng xã hội, bất kỳ cá nhân nào cũng có thể dễ dàng tham gia sử dụng mạng xã hội với nhiều mục đích khác nhau. Ngày 15/7/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng, trong đó tại Điều 5, khoản 1 quy định các hành vi đưa thông tin lên mạng bị cấm, Điều 10 quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng internet. Sử dụng mạng xã hội giống như một con dao hai lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khôn lường. Do đó ngoài những lợi ích mà mạng xã hội mang lại, mỗi cá nhân chúng ta khi tham gia cần phải trang bị cho mình những kỹ năng, kiến thức nhằm nhận diện đúng những thông tin xấu độc để tránh xảy ra những hệ lụy không đáng có.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHỮNG VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH CHO THẤY TRUYỀN THÔNG CÓ THỂ THAO TÚNG!

      Khảo sát gần đây cho thấy 43% người Mỹ có cái nhìn tiêu cực về truyền thông tin tức so với 33% tích cực, và họ thấy khó tin tưởng vào truyền thông hơn vì không thể xáс định tin tức nào là chính xáс. Cùng điểm qua những ví dụ điển hình cho thấy truyền thông có thể thao túng bóp méo sự thật như thế nào?

Vấn đề ở đây chính là do sự thiếu khách quan của truyền thông khiến người Mỹ mất dần tín nhiệm. Một nửa sự thật không phải là sự thật, và những ví dụ dưới đây sẽ cho thấy điều đó.

1. Bức ảnh được chụp khi Công nương Kate Middleton và Hoàng Tử William giới thiệu con trai thứ ba với thế giới bóp méo sự thật như thế nào. 
Sự nguy hiểm của việc nhìn từ một phía: Bàn tay giơ ba ngón của Hoàng tử nhìn ở ảnh đầu tiên trông như đang làm động tác phản cảm giơ “ngón tay thối”.

2. Bức ảnh lính hải quân Mỹ giúp một người lính Irag uống nước chụp ngày 21/3/2003. Những gì truyền thông muốn bạn thấy và thực tế có thể khác biệt
Bức hình sẽ cho người xem nhiều cảm xúc và nhìn nhận khác nhau nếu bị cắt xén có chủ đích.

3. Đài truyền hình
Mọi người xem video đều nghĩ người đàn ông này làm trong một đài truyền hình uy tín nhưng thực sự thì….

4. Lễ nhậm chức Tổng thống Donald Trump rất trống trải, nhưng góc chụp khi lên báo lại làm người ta thấy như rất đông đúc.

5. Buổi meeting của Hillary tại Omaha cũng được các báo chí phù phép qua góc chụp hình.

6. Người lính chỉ đang chơi đùa với những đứa trẻ thôi mà. Hình ảnh bị cắt xén khiến người xem hiểu lầm.

7. Lãnh đạo Đảng Bảo thủ Aɴʜ Theresa May phát động chiến dịch tại Northumberland

8. Nhiếp ảnh gia Ruben Salvadori đã chụp lại xung đột giữa quân đội Israel và thanh niên Palestine. Bức ảnh phía trên có được nhờ sự hợp tác với một người Palestine trẻ

9. Biểu tình chống tăng thuế ở Paris, Pháp

10. Kết: Bức tranh biếm họa về truyền thông!









Yêu nước ST.

ÔNG CHA TA ĐÁNH GIẶC: ĐIỆP VIÊN CUỐI CÙNG CỦA THẾ HỆ TÌNH BÁO HUYỀN THOẠI ĐÃ TỪ TRẦN!

         Con người cuối cùng của thế hệ tình báo huyền thoại đã từ trần. Một điệp viên “không là ai cả” trong ngành tình báo Việt Nam, một con người đưa ra những chỉ thị đặc biệt rồi biến mất không vết gợn, đứng đầu một cụm tình báo và bị hơn 200 điệp viên ngụy  truy sát nhưng chưa một lần bị bắt. Người này từng đứng đầu căn cứ tình báo Bời Lời chống lại hơn 300 đợt càn quét từ UAV, B52 rải thảm, pháo binh hạng nặng, biệt kích, thủy quân lục chiến. Đó là Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm, hay người ta vẫn quen gọi ông là Sáu Trí. Vào ngày 27/09 vừa qua, vị tướng anh hùng cuối của ngành tình báo lừng lẫy trong cuộc trường chinh kháng chiến của dân tộc đã qua đời, trở về với những đồng đội… 

Nếu như nhà tình báo Ba Quốc được ví như đầu não của tình báo miền Nam thì nhà tình báo Sáu Trí được coi như là trái tim luân chuyển, điều phối phối “máu” đi khắp “cơ thể”. Máu ở đây là tin tức, tài liệu mật được sàng lọc, đánh giá và phân tích cụ thể và “cơ thể” ở đây là các mạng lưới tình báo, nhà tình báo, điệp viên, cơ quan cấp trung ương… Nếu ai từng xem Fast and Furious sẽ biết đến một nhân vật là Mr. Nobody do Kurt Russell thủ vai. Đây là đặc vụ thuộc Chính phủ, chuyên đảm nhiệm việc điều phối công việc, cung cấp thông tin mật báo, đánh giá tình hình… cho nhóm của Dominic Toretto. Nhà tình báo Sáu Trí cũng làm những công việc tương tự, nhưng ở một mức độ cao hơn rất nhiều.

Nếu Phạm Xuân Ẩn khởi đầu “nghề tình báo” khi là phóng viên thì chàng trai Sáu Trí lại bắt đầu những nhiệm vụ tình báo đầu tiên khi là giáo viên tại Sài Gòn. Sau đó, ông vào làm trong Ty Cảnh sát Gia Định nhờ anh rể làm Giám đốc. Nhiều lần ông được đề bạt do ông có học thức, trình độ nhưng ông từ chối do “làm quen nghề giáo nên quen với việc văn phòng”. Từ vị trí này, hơn 10.000 trang tài liệu đã được tuồn cho phía ta, có nhiều tài liệu được ông ghi nhớ lại, viết ra và gửi lên chỉ huy. Những năm đầu thập niên 60, điệp viên Sáu Trí đã giúp lực lượng ta chống lại hàng chục trận càn quét của địch ở miền Nam Việt Nam. 

Khi ông bị lộ thân phận vào năm 1962 do tình báo viên Năm Phận phản bội, hơn 200 lính ngụy được điều bắt ông và sẽ thủ tiêu, nhưng ông trốn thoát được nhờ sự trợ giúp của “mạng lưới tình báo” là nhân dân các nơi do chính ông lập ra và biết, nhằm mục đích tạo đường lui cho bản thân và đồng đội nếu như bị càn quét và bại lộ. Sau lần này, ông tham gia sáng lập ra cụm tình báo A20 - H67. Đây là cụm tình báo nắm trong tay hơn 30 điệp viên nằm trong các cơ quan quân đội, an ninh, cảnh sát, chính quyền ngụy, một cụm tình báo mà mọi nhiệm vụ, chỉ thị đều là “tuyệt mật”. Thậm chí, ông Sáu Trí từng nói vui rằng mỗi khi họp cụm tình báo này cảm giác như là “một chính quyền ngụy thu nhỏ đang họp vậy”. 

Cụm tình báo này cung cấp thông tin về các chiến dịch Tìm - Diệt, tiết lộ những cuộc hành quân của quân đội ngụy và đồng minh nhắm đến Củ Chi, căn cứ Dương Minh Châu. Đặc biệt, gần như toàn bộ cuộc hành quân Junction City với 45 ngàn lính nhắm đến đầu não Chiến khu C đã bị Cụm tình báo này khai thác. Chính nhà tình báo Sáu Trí đã báo cáo, phân tích và chuyển thông tin đến cho tướng Lê Đức Anh để phòng thủ thành công và đánh bật chiến dịch này. 

Sáu Trí là một nhà tình báo lạ kỳ và đúng nghĩa là một “người không là ai cả”. Là vị tình báo có tới 4 - 5 lần bị quân ta bắt do bị nghi là Việt Gian, khi ông nói ra thân phận thì đến những lãnh đạo cấp chỉ huy cũng không thể biết được. Nhà tình báo này còn bị những cơ quan tình báo ngụy và CIA coi là “ưu tiên truy nã” nhưng ông vẫn đi lại lang thang giữa Sài Gòn để chuyển tin tức, đề ra phương án làm việc cụ thể. Vẫn uống cà phê giữa phố, đi mua quần áo tây chơi, hát hò đủ kiểu, đi đá bóng đánh quần vợt với đám chỉ huy ngụy… Đúng là ví dụ cho cái câu nói mà ai trong chúng ta cũng đã từng nghe: “Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất”. 

Và cũng chính vì cách làm việc đặc biệt này, vào năm 1974 - 1975, ông lập lên một mạng lưới sĩ quan ngụy làm việc cho cách mạng, trực tiếp nói chuyện và “phím” cho Dương Văn Minh đầu hàng quân Giải phóng không điều kiện. Và ngày 30/04/1975, ông lại… bị quân ta bắt vì mặc thường phục, hút thuốc lá như bố đời ở trong Phủ Tổng thống. 

Tới tận năm 1997, nhà tình báo Sáu Trí mới nghỉ hưu và ông cùng với các nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức, Vũ Ngọc Nhạ… trực tiếp xây dựng, đóng góp, đào tạo cho Tổng cục II - Bộ Quốc phòng.

Tạm biệt nhà tình báo Sáu Trí - người anh hùng cuối cùng còn lại của một thế hệ tình báo huyền thoại….
Yêu nước ST.

THẾ GIỚI VẤN ĐỀ-SỰ KIỆN: CUỘC NỘI CHIẾN Ở SYRIA "MỘT VÁN CỜ XẮP TÀN"!

     Cuộc nội chiến Syria đã rời xa suy nghĩ của nhiều người, nhưng nó vẫn đang diễn ra từng giờ. Đàm phán và đụng độ vũ trang là hai mặt trận của cuộc chiến này, chiến thắng trên một mặt trận nghĩa là chiếm ưu thế trên mặt trận kia.

Vấn đề ở chỗ không bên nào có vẻ sẽ sớm giành được chiến thắng quyết định. Đây là một tin xấu đối với những nhóm nổi dậy Syria. Cuộc chiến càng kéo dài, nguy cơ liên minh đổ vỡ càng cao.

Lửa chiến tranh

Hơn 90 người đã chết trong những cuộc đụng độ mới đây giữa dân quân người Kurd trực thuộc Lực lượng Dân chủ Syria (SDF) và một số nhóm vũ trang người Thổ Nhĩ Kỳ và Ảrập. Cách đây bảy năm, các thế lực trên hợp tác với nhau để trấn giữ tỉnh Deir ez-Zor trước sự tấn công của quân đội chính phủ Syria. Nhưng các vụ đụng độ ở Deir ez-Zor chỉ là một “mảnh ghép” trong cuộc chiến giữa SDF và Quân đội Quốc gia Syria (SNA), nhóm nổi dậy lớn thứ hai nước này. Tỉnh Al-Hasakah đang trở thành điểm nóng mới trong cuộc chiến này.

Mối bất hòa giữa SDF, SNA và các tổ chức nổi dậy Syria khác đã có từ lâu, nhưng nói riêng về cuộc chiến đang diễn ra thì nó bắt đầu vào ngày 27/8 vừa qua. SDF bất ngờ tuyên bố mở chiến dịch “Tăng cường an ninh” tại tỉnh Deir ez-Zor với mục tiêu là IS và những tổ chức tội phạm địa phương. Họ bắt giữ Ahmed Khbeil (biệt danh Abu Khawla), một thành viên trong hội đồng cai quản tỉnh Deir ez-Zor. Lý do đưa ra cho vụ bắt giữ là Ahmed Khbeil có quan hệ với chính phủ Tổng thống Bashar al-Assad và một số tổ chức buôn lậu ma túy. Ngoài Khbeil còn có 4 thành viên hội đồng khác bị bắt giữ. Hành động trên đã khiến đơn vị dân quân dưới quyền Khbeil và đồng minh của họ đồng loạt tấn công SDF.

Dhiban là nơi tập trung nhiều thành viên bộ lạc Akeidat gốc Ảrập nhất. Tộc trưởng Akeidat là Ibrahim al-Hafel cũng sống tại Dhiban. SDF cáo buộc al-Hafel âm mưu ly khai và định bắt ông ta, nhưng vị tộc trưởng đã chạy trốn. Theo Đài truyền hình Syria TV thì có khả năng al-Hafel đang trốn tại thị trấn Al-Tayana. Từ chỗ lẩn trốn của mình, al-Hafel đang lãnh đạo các lực lượng Ảrập chiến đấu chống lại SDF.

Phát ngôn viên của SDF tuyên bố: “Trong số 120 ngôi làng, thị trấn tại Deir az-Zour chỉ có 4 là xảy ra giao tranh. Chúng tôi đã kiểm soát được cả 4 địa bàn này, trong đó có Dhiban, và tiêu diệt bất kỳ lực lượng nào chiến đấu cho Damascus”. SDF cũng kêu gọi người Kurd và Ảrập sớm đi đến đàm phán để nối lại mặt trận nổi dậy chung.

Deir az-Zour hiện đang bị phân chia bởi dòng sông Euphrates. Chính phủ Syria nắm quyền kiểm soát phía tây sông Euphrates, còn quân nổi dậy chiếm phía đông. Đã có nhiều ý kiến lo sợ rằng quân đội Syria sẽ lợi dụng xung đột giữa SDF và các bộ lạc Ảrập để mở đợt xâm lược mới, nhưng cho đến lúc này họ vẫn chưa có động thái gì đáng kể.

Lính Mỹ đóng tại Syria không tham gia cuộc chiến giữa những đồng minh của mình. Tướng lục quân Mỹ Geoffrey Carmichael, phát ngôn viên của Lực lượng Đặc biệt chung (liên minh chống IS ở Iraq và Syria do Mỹ dẫn đầu) phát biểu: “SDF không hề thông báo với phía Mỹ về chiến dịch của họ… Chúng tôi kêu gọi các bên dẹp qua hiềm khích để ngồi vào bàn đàm phán nhằm tránh bị phân tâm khỏi mục tiêu chung”.

Đa phần binh lính SDF đang chiến đấu ở Deir az-Zour là dân quân người Kurd. Hai dân tộc Kurd và Ảrập ở miền bắc Syria đã từ lâu có hiềm khích. Người Kurd tại Kurd mong muốn thành lập chính quyền tự trị của mình nhưng luôn gặp cản trở từ Damascus. Khi Tổng thống Hafez al-Assad (cha của tổng thống đương nhiệm Bashar al-Assad) còn sống, ông luôn làm sâu thêm những bất hòa sắc tộc giữa người Kurd và các bộ tộc Ảrập ở miền bắc Syria.

Cuộc nội chiến Syria nổ ra vào năm 2011 đã tạo ra cơ hội hoàn hảo để người Kurd thiết lập mảnh đất tự trị của họ. Ngay cả khi người Ảrập nổi dậy chống lại Tổng thống al-Assad, họ cũng khó chấp nhận việc những người “hàng xóm” Kurd lên nắm quyền. Các bên từng giao tranh nhiều lần và chỉ mới đi đến một thỏa thuận đồng minh không chính thức được gần một năm.

“Bóng ma” Ankara

Không thể không nhắc đến vai trò của Thổ Nhĩ Kỳ đối với những xung đột nội bộ của lực lượng nổi dậy Syria. Không chỉ có người Kurd ở Syria mà cả ở Thổ Nhĩ Kỳ nữa cũng có tư tưởng ly khai. Các đời tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ lại luôn có chính sách “mạnh tay” nếu không muốn nói là hơi quá đối với người Kurd. Điều này đã khiến các tổ chức chính trị – bán quân sự như Đảng Công nhân người Kurd (PKK) hay nhóm Những con đại bàng tự do Kurdistan (TAK) xuất hiện với mục tiêu giành độc lập cho người Kurd.

Kể từ năm 2012, cùng lúc với cuộc nội chiến Syria đang nóng lên, những tổ chức kể trên thực hiện một số vụ đánh bom và đột kích vào các cơ sở dân sự và quân sự của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Vụ đánh bom đẫm máu nhất do TAK thực hiện xảy ra vào ngày 13/3/2016 tại thủ đô Ankara khiến 17 người chết và 125 người bị thương. Vụ tấn công khủng bố này nhằm đáp trả việc Thổ Nhĩ Kỳ đơn phương chấm dứt lệnh ngừng bắn giữa các bên, bắt giữ một số lãnh đạo người Kurd và đánh bom vào doanh trại và kho vũ khí của người Kurd ở miền bắc Syria.

Quân đội Mỹ rút khỏi miền bắc Syria vào năm 2019 đã tạo cơ hội cho Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào Syria. Trước đó Ankara còn “ngại” Washington nên không có hành động quân sự nào đối với chính quyền tự trị của người Kurd ở Syria vốn được Mỹ bảo vệ. Chỉ chưa đầy ba tháng sau khi quân Mỹ rút đi, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ với tăng thiết giáp vượt biên giới Syria để “tiêu diệt quân khủng bố IS”. Chính phủ Mỹ ban đầu ủng hộ chiến dịch này và còn cung cấp máy bay không người lái hỗ trợ quân Thổ Nhĩ Kỳ.

Những cuộc giao tranh đẫm máu nhất diễn ra quanh hai thành phố Ras al-Ayn và al-Bab. Tháng 11/2019, Thổ Nhĩ Kỳ mới cho dừng chiến dịch quân sự của mình sau khi Mỹ và Nga đứng ra làm trung gian giữa các bên. Thỏa thuận ngừng bắn tuy vậy cũng chỉ giữ được đúng 3 năm. Tháng 11/2022, máy bay Thổ Nhĩ Kỳ lại ném bom vào cứ điểm của người Kurd ở Syria. Ankara cho biết họ làm vậy để đáp trả vụ đánh bom xe xảy ra vào ngày 13/11/2022 tại Istanbul khiến 6 người chết và 81 người bị thương.

Nhà nghiên cứu Cole Bunzel tại Viện Hồi giáo thuộc Đại học Yale (Mỹ) giải thích: “Ngoài việc trực tiếp can thiệp quân sự, Ankara còn tài trợ một số nhóm nổi dậy Syria nhằm kiềm chế người Kurd. Đa phần các nhóm nổi dậy ở khu vực hai thành phố Afrin và al-Bab đều nhận viện trợ của Ankara. NLF cũng là một đồng minh quan trọng của Thổ Nhĩ Kỳ. Một lý do cho việc đó là vì trong liên minh NLF có nhiều nhóm Hồi giáo Ảrập như Ahrar al-Sham, Noureddine al-Zengi, Failaq al-Sham, Jaish al-Ahrar,… Những tổ chức bán quân sự trên căm ghét người Kurd cũng như họ ghét Damascus vậy. Fadlallah al-Haji, lãnh đạo quân sự của NLF gần như chắc chắn là người của Ankara”.

Một nhân tố khác trên “bàn cờ chính trị” miền bắc Syria là Tahrir al-Sham, tổ chức Hồi giáo cực đoan có nguồn gốc từ Mặt trận Al-Nusra, chi nhánh của al-Qaeda ở Thổ Nhĩ Kỳ, đang kiểm soát tỉnh Idlib của Syria. Hiện Mỹ, EU và Liên hợp quốc đều đã liệt Al-Nusra và Tahrir al-Sham vào danh sách các tổ chức khủng bố.

Cách đây vài năm, Tahrir al-Sham còn có quan hệ khá “gần gũi” với Thổ Nhĩ Kỳ. Thậm chí lãnh tụ Abu Mohammed al-Golani của al-Sham còn được chụp ảnh chung với một số sỹ quan và nhà ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng quan hệ giữa các bên đã xấu đi nhiều. Tahrir al-Sham đang ở thế “tiến thoái lưỡng nan”. Các tổ chức Hồi Giáo cực đoan khác tại Syria đều không tin tưởng al-Sham sau khi họ tách khỏi Al-Nusra và tấn công thành viên Al-Qaeda. Người Kurd cũng từng nhiều lần bị al-Sham tấn công, nên họ và các đồng minh SDF chắc chắn sẽ đứng ngoài nhìn tổ chức này tan rã…

Ván cờ tàn

Cuộc chiến ở Deir az-Zour hay chuyện Tahir al-Sham chỉ là những “lát cắt” cho sự bấp bênh của liên minh nổi dậy ở Syria. Ngay từ những ngày đầu liên minh này thành lập dưới “cái ô chung” là Hội đồng Dân tộc Syria (SNC), các nhà quan sát đã cảnh báo về sự xung đột giữa các thành viên. Theo chính lời của một cựu lãnh đạo SNC: “Ai cũng chỉ chăm chăm bảo vệ và làm to ra “miếng bánh” của họ. Không ai thật sự có một tầm nhìn về nước Syria sau cách mạng cả”.

Một phần của sự bất hòa trên là “di sản” chính sách chia rẽ sắc tộc của cố Tổng thống Hafez al-Assad. Nhưng đáng ra sau hơn 10 năm nội chiến Syria nổ ra, các nhóm nổi dậy đã tìm được cách đặt sang một bên những hiềm khích, toan tính của riêng mình để lập ra một mặt trận chung. Sự thật ngược lại như vậy.

Ông Ahmed Aba-Zeid giải thích về sự tan rã của lực lượng đối lập ở Syria: “Phe nổi dậy đang hoạt động chủ yếu theo quán tính. Thiếu đi sự hỗ trợ của Mỹ, nhiều lãnh đạo của SNC, SDF hay NLF đã nhận ra rằng họ khó có thể giành chiến thắng trước quân đội chính phủ Syria. Sự lựa chọn duy nhất của họ là tìm cách trì hoãn để có thêm thời gian đàm phán với Damascus… Chuyện bạn cũ trở thành thù cũng là thường tình lúc này. Ai cũng đang tìm cách vơ vét về mình trước khi một “thế cân bằng mới” được xác lập”./.
Yêu nước ST.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: CHÚNG TA CHỈ CẦN BỚT GIẢ DỐI HƠN MÀ THÔI!

     Văn hoá ứng xử là cốt cách của mỗi người, nên không có sự phân biệt giữa ứng xử trên mạng hay ngoài đời.

Ở trên mạng xã hội, bạn là ai? Bạn vẫn là bạn thôi, có thể bạn sẽ cố tình tạo ra một phiên bản khác của mình, tử tế hơn, hay xấu xa hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa, bạn đã thoát ly với con người thực của mình, chỉ là bản chất của bạn vốn đa nhân cách, hoặc giả dối mà thôi.

Nếu bản chất của bạn vốn thế, dù không có mạng xã hội, bạn cũng sẽ ứng xử ngoài đời với nhiều phiên bản khác nhau. Bạn có thể lễ phép ngoan hiền với sếp, lịch sự với bạn khác giới bên ngoài, đồng thời vẫn thô bỉ với nhân viên và cục súc với người thân trong gia đình.

Có nhiều người tự tin rằng, việc sống 2 mặt trong đời thực là một kỹ năng, và họ luôn thế. Những người đó cũng sẽ luôn tin, họ càng dễ dàng hơn với việc thể hiện con người trên mạng, và con người trong đời thực hoàn toàn khác nhau.

Tuy nhiên, cơ bản là họ đã nhầm, vì sự hai mặt của họ chỉ có thể tồn tại trong mắt của những người ngây thơ và thiếu khả năng tư duy độc lập mà thôi.

Vậy thì có cần thiết đặt ra một khái niệm về ứng xử trên mạng hay không? Tôi nghĩ, với đa số là không cần thiết, bởi vì những người biết ứng xử tốt thì dù trên mạng hay ngoài đời họ vẫn tốt. Nhưng vậy thì tại sao chúng ta thấy trên mạng người ta ứng xử tệ thế, tại sao người ta tục tĩu, văng mạng như thế?

Câu trả lời, vì bây giờ chúng ta chỉ thấy nhiều thứ thông qua mạng xã hội, mà ít để tâm tới những ứng xử giao tiếp trong cuộc đời thực của mình. Nếu để tâm, chúng ta thấy ngoài đời người ta cũng đang ứng xử với nhau tục tĩu, văng mạng chẳng kém gì.

Chúng ta hay nói đến khái niệm lệch chuẩn khi nhận xét về các hành vi ứng xử. Vậy thì chuẩn là gì? Chuẩn luật pháp rất rõ ràng, nhưng luật pháp không điều chỉnh sâu đến các hành vi ứng xử. Vì thế, hành vi ứng xử chúng ta còn được điều chỉnh bằng văn hoá và đạo đức.

Và đây chính là vấn đề, bởi khả năng điều chỉnh của văn hoá và đạo đức chỉ hiệu quả trong các cộng đồng có đồng nhất cao về lối sống, tập quán, lý tưởng, lợi ích, thậm chí là thu nhập. Khi xã hội được phân mảnh về lợi ích, thu nhập thì sự đồng nhất mất đi và chúng ta có nhiều chuẩn văn hoá, chuẩn đạo đức khác biệt.

Đó là lý do mà một trong những chuẩn văn hoá được cho là quan trọng nhất của thế hệ trẻ ngày nay là “tôn trọng sự khác biệt”. Bởi vì, nếu không tôn trọng sự khác biệt thì ta cần phải áp đặt chuẩn của mình cho người khác.

Thực tế, bạn chỉ có thể áp đặt được đối với những người chịu sự phụ thuộc vào bạn về lợi ích và tình cảm mà thôi. Vậy câu hỏi cần đặt ra trong chuyện ứng xử là gì?

Tôi nghĩ, chúng ta chỉ cần bớt giả dối hơn mà thôi. Khi bớt giả dối, chúng ta sẽ không a dua với những thứ mà bản thân mình thấy rằng phản cảm. Bớt giả dối chúng ta sẽ công tâm hơn khi nhìn nhận, đánh giá những người xung quanh mình. Khi đó, nếu ai cần công chúng, họ sẽ phải điều chỉnh hành vi ứng xử của minh để phù hợp với công chúng của họ.

Chẳng một ai thách thức công chúng của mình mà có công chúng đâu!
Môi trường ST.

BẠN CẦN BIẾT: MẤY VẤN ĐỀ VỀ CỦNG CỐ, TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN!

     Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của đất nước và bán đảo Đông Dương. Vì vậy, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên địa bàn luôn là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách, nhất là trong bối cảnh hiện nay.

Những năm qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn, Tây Nguyên đã có bước phát triển cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Tình hình an ninh chính trị toàn vùng cơ bản ổn định, kinh tế – xã hội có bước phát triển khá; việc liên kết vùng và hội nhập quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện.

Trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, lực lượng vũ trang đã chủ động làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các địa phương xây dựng, triển khai phương án đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trên địa bàn; tập trung giải quyết căn bản những vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định, tạo cơ sở để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Tiềm lực quốc phòng, an ninh từng bước được củng cố, tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” được xây dựng ngày càng vững mạnh. Công tác đối ngoại với các địa phương nước bạn được triển khai có hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển, tạo vành đai bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Bên cạnh kết quả đạt được, Tây Nguyên vẫn là địa bàn kinh tế – xã hội phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng; quốc phòng, an ninh tuy “yên nhưng chưa ổn”, còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, nguy cơ gây mất ổn định. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi chưa vững chắc, hiệu lực, hiệu quả hoạt động thấp; tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới; hoạt động tôn giáo trái pháp luật, di cư tự do, các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, tình trạng tranh chấp đất đai,… diễn biến phức tạp.

Đáng chú ý là, các thế lực thù địch, phản động từ bên ngoài lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập, các vấn đề “dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” để hoạt động chống phá, gây mâu thuẫn giữa các tộc người, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo; tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, tự trị trong đồng bào dân tộc thiểu số, móc nối, lôi kéo, tập hợp lực lượng, nhằm phục hồi cơ sở phản động của FULRO, đòi thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê-ga độc lập”,… gây rối an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, để nước ngoài tạo cớ can thiệp, lật đổ, v.v. Những yếu tố đó đã, đang đe dọa trực tiếp đến an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Tây Nguyên và sự ổn định, phát triển chung của đất nước.

Bối cảnh trên đang tạo ra thời cơ, vận hội mới, nhưng cũng đặt ra nguy cơ, thách thức đan xen, tác động trực tiếp đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên. Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp; trong đó, tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên. Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược này. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên chậm phát triển là do những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước chưa được triển khai đồng bộ, thống nhất, hiệu quả chưa cao. Do vậy, các địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Cùng với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần tập trung nghiên cứu, đánh giá tổng thể, đề xuất các giải pháp triển khai thực hiện đồng bộ, phù hợp với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Trong đó, chú trọng giải quyết các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa đấu tranh bảo vệ chủ quyền với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xây dựng lòng tin của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đối với Đảng, chế độ và cấp ủy, chính quyền các cấp,… tạo môi trường chính trị ổn định, xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh trong nội vùng, liên kết vùng và hội nhập quốc tế.

Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc, chú trọng các địa bàn trọng điểm. Tiếp tục quan tâm triển khai các chương trình quốc gia ứng phó với vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là việc tranh chấp đất sản xuất, hoang hóa đất đai, hạn hán và giải quyết hiệu quả vấn đề dân tộc, tôn giáo, ngăn chặn, loại trừ nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn, xung đột ở Tây Nguyên.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở các địa phương vùng Tây Nguyên thực sự vững mạnh. Những năm qua, hệ thống chính trị cơ sở của các địa phương nơi đây đã được xây dựng, củng cố. Tuy nhiên, còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, như: cấp ủy, chính quyền cơ sở có nơi chưa chủ động phát hiện, xử lý những vấn đề phát sinh; chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở nhiều nơi còn yếu, mất cảnh giác, quan liêu, không nắm chắc tình hình nhân dân; một bộ phận cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bị các thế lực thù địch, phản động móc nối, lôi kéo, tiếp tay cho các hoạt động của bọn FULRO, “Tin lành Đê-ga”, v.v.

Đây thực sự là nguy cơ, thách thức đặt ra đối với việc xây dựng hệ thống chính trị, đòi hỏi phải có giải pháp cấp bách nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở. Do đó, các địa phương cần chú trọng bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và đội ngũ cán bộ ở cơ sở để có đủ khả năng phát hiện, xử lý hiệu quả các vấn đề nảy sinh trên lĩnh vực, địa bàn phụ trách, nhất là tại những địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Đồng thời, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; rà soát, kịp thời ngăn chặn, đưa ra khỏi đội ngũ những phần tử thoái hóa, biến chất; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm tuyên truyền, kích động, chia rẽ đồng bào Tây Nguyên với Đảng, chính quyền các cấp, giữa người Kinh với đồng bào các dân tộc nơi đây, v.v.

Trên cơ sở đó, đề cao tinh thần cảnh giác, không tin, không nghe, không làm theo sự xúi giục, kích động của kẻ xấu; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng và của cả hệ thống chính trị trên địa bàn trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của đồng bào, góp phần củng cố lòng tin, xây dựng cơ sở chính trị, xã hội vững mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển Tây Nguyên.

Ba là, xây dựng lực lượng vũ trang vùng Tây Nguyên vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tây Nguyên vốn là địa bàn phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định. Để không bị động, bất ngờ trước các tình huống, cần củng cố, kiện toàn tổ chức, biên chế các đơn vị lực lượng vũ trang theo hướng tinh, gọn, mạnh; tập trung nâng cao năng lực cho các đơn vị chuyên trách trong nghiên cứu, dự báo chiến lược ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ; chú trọng xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, công an cơ sở, làm nòng cốt để chủ động ứng phó kịp thời mọi tình huống. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; trong đó, chú trọng đẩy nhanh việc bố trí cán bộ công an chính quy về tất cả các xã trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.

Từ kinh nghiệm rút ra qua các cuộc bạo loạn xảy ra trên địa bàn năm 2001, 2004, các đơn vị Quân đội, Công an, Bộ đội Biên phòng cần thường xuyên sâu sát cơ sở, nắm chắc tình hình, tích cực huấn luyện, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu; xây dựng và luyện tập thuần thục các phương án chiến đấu bảo vệ địa bàn; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đặc biệt, nâng cao hiệu quả phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng trong nắm, dự báo, đánh giá đúng tình hình, trao đổi thông tin; thống nhất chủ trương, biện pháp, thực hiện phân cấp trách nhiệm trong tham mưu, chỉ đạo, điều hành, chủ trì xử lý các tình huống quốc phòng, an ninh. Đồng thời, tích cực phối hợp trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; chủ động, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Cùng với đó, các địa phương cần tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo thế chủ động trong phòng thủ, bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền biên giới quốc gia; phòng ngừa, ngăn chặn từ sớm, từ xa âm mưu, thủ đoạn hoạt động phá hoại, làm vô hiệu hóa chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, nhất là hoạt động khủng bố, bạo loạn, lật đổ và hình thành các tổ chức chính trị đối lập trên địa bàn.

Tập trung đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, góp phần xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn. Đồng thời, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, đảm bảo đạt kết quả thực chất trong giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia ở Tây Nguyên, góp phần bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, quyền chủ quyền và thống nhất của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÓ PHẢI GIAI CẤP CÔNG NHÂN ĐANG “TRUNG LƯU HÓA” VÀ KHÔNG CÒN SỨ MỆNH LỊCH SỬ?

     Từ thực tế mức sống chung của xã hội, trong đó có giai cấp công nhân được nâng lên rõ rệt, một bộ phận công nhân hiện đại có tiền mua cổ phần, cổ phiếu trong doanh nghiệp,… đã đưa đến có những luận điệu cho rằng: giai cấp công nhân trên thế giới đang “trung lưu hóa” nên không còn sứ mệnh lịch sử như quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen đã nêu ra (?!). Thực chất đây là những luận điệu nhằm cố tình che giấu bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ nhận chủ nghĩa Mác.

Trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” (1848), khi định nghĩa về giai cấp công nhân và vị trí của họ trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản là những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống”[1]và “Giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác”[2].

Ngày nay, cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân là các phong trào đấu tranh chung vì sự tiến bộ xã hội, cũng như những giá trị tiến bộ của nhân loại đang dần trở thành phổ quát và điều chỉnh các hành vi toàn cầu, trong đó có hành vi của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Điều này đã buộc chủ nghĩa tư bản hiện đại phải có những điều chỉnh mới về quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối dưới các cấp độ khác nhau. Và do đó, giai cấp công nhân hiện nay cũng có nhiều thay đổi so với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX như mô tả của của C.Mác và Ph.Ăngghen.

Ở các nước tư bản, do ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,làm cho năng suất lao động tăng cao, mức sống chung của xã hội, trong đó có giai cấp công nhân được nâng lên rõ rệt. Một bộ phận công nhân hiện đại không những bảo đảm được các nhu cầu tiêu dùng mà còn có tiền mua cổ phần, mua cổ phiếu trong doanh nghiệp.

Từ thực tế đó, đã có những luận điệu cho rằng: giai cấp công nhân trên thế giới đang “trung lưu hóa” nên không còn sứ mệnh lịch sử như quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen đã nêu ra (?!). Thực chất đây là những luận điệu nhằm cố tình che giấu bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ nhận chủ nghĩa Mác. Bởi lẽ:

Thứ nhất, mặc dù mức sống được nâng lên, giai cấp công nhân đã có các tư liệu tiêu dùng như: nhà cửa, xe cộ... nhưng đó chỉ là tư liệu sinh hoạt chứ không phải tư liệu sản xuất, họ vẫn là những người làm thuê trong chủ nghĩa tư bản.

Thứ hai, dù hiện nay nay công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu trong doanh nghiệp nhưng tỷ trọng cổ phần, cổ phiếu của họ rất nhỏ so với cổ phần, cổ phiếu mà giai cấp tư sản nắm giữ. Vì vậy, địa vị làm thuê của họ cũng không thay đổi và họ cũng không thể chi phối được phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chẳng hạn, ở Mỹ có 40% người lao động làm công có cổ phiếu, nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Việc các chủ tư bản bán cổ phần, cổ phiếu cho công nhân một mặt giúp nhà tư bản huy động được các nguồn lực để mở rộng sản xuất; mặt khác, đây là biện pháp hữu hiệu để buộc người công nhân phải lệ thuộc nhiều hơn nữa vào giới chủ. Và như vậy, công nhân sẽ hạn chế đấu tranh đòi quyền lợi, tạo thuận lợi cho chủ tư bản quản lý, điều hành. Do đó, nếu tin rằng, nhờ có cổ phần, cổ phiếu trong doanh nghiệp mà địa vị của công nhân đã thay đổi, công nhân đã trở thành nhà tư bản, chỉ là ảo tưởng, sai lầm.

Thứ ba, chủ nghĩa tư bản hiện đại có điều chỉnh nhưng bản chất bóc lột vẫn không thay đổi, mà chỉ thay đổi hình thức bóc lột theo hướng ngày càng tinh vi hơn, khôn khéo hơn với mức độ gay gắt hơn. Theo ILO, hiện nay, tỷ suất bóc lột giá trị thăng dư trong các ngành công nghiệp ở Mỹ và Tây Âu trung bình là 300%, cá biệt có những lúc lên tới 5.000% như tại công ty Microsoft[3]. Vì vậy, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù có những thay đổi nhưng giai cấp công nhân vẫn là những người làm thuê cho giai cấp tư sản và vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư với tỷ suất rất cao.

Thêm nữa, trong lòng xã hội tư bản, các mâu thuẫn không hề mất đi mà vẫn biểu hiện gay gắt. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân biệt đối xử trong xã hội ngày càng lớn. Theo nghiên cứu thường niên của tổ chức từ thiện toàn cầu Oxfam công bố tại Diễn Dàn Kinh tế Thế giới tại Davos (Thụy Sĩ) năm 2020, chỉ ra rằng khoảng cách giữa những người siêu giàu với phần còn lại của thế giới đã đạt tới một khoảng cách rất xa. Cụ thể, 1% dân số thế giới đang sở hữu khối tài sản gấp đôi gần 90% còn lại. Trong khi đó, có rất nhiều người nghèo khổ, thất nghiệp, vô gia cư... ở các nước tư bản. Các phong trào chiếm phố Wall ở Mỹ năm 2017, biểu tình chống phân biệt chủng tộc cuối tháng 5, đầu tháng 6-2020 ở Mỹ... là hệ quả của sự phân cực giàu nghèo, phân biệt đối xử... do sự thống trị của chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa gây ra.

Tất cả điều đó đã nói lên bản chất của chủ nghĩa tư bản, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu”[4]. Do đó, giai cấp công nhân vẫn có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động xóa bỏ áp bức, bất công để xây dựng xã xã hội chủ nghĩa mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”./.
Ảnh: Báo động tình trạng bất cân bằng về thu nhập gia tăng trên toàn cầu.
Yêu nước ST.

ĐẤU TRANH PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM: NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ LÀ SỰ ÁP ĐẶT !

 

        Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, chống phá của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đồng thời là nhiệm vụ và trách nhiệm thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên vì đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Nhằm tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; xây dựng Đảng, xây dựng xã hội trong sạch, vững mạnh, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” với nhiều nội dung quan trọng. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng xác định: Thay đổi toàn diện về cơ cấu kinh tế, dứt khoát xóa bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện chính sách nhiều thành phần kinh tế, thực hiện lưu thông hàng hoá tự do, mở rộng hợp tác và đầu tư quốc tế. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta lần đầu tiên xác định: Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

        Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) đến nay chính thức xác định nền kinh tế nước ta là tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung thường xuyên bị các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị xuyên tạc, phê phán, bóp méo. Các thế lực thù địch cho rằng: không có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ trương gắn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không có cơ sở; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; Việt Nam xây dựng một nền kinh tế thị trường méo mó, không giống ai.

        Chúng ta biết rằng mặc dù kinh tế thị trường vốn dĩ là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định. Theo Adam Smith, với lí thuyết “bàn tay vô hình" thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết, vận động theo quy luật của thị trường, hầu như không có sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên ngày nay nền kinh tế thị trường hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi “bàn tay hữu hình”.Các quốc gia phát triển nền kinh tế thị trường đều có sự định hướng quản lý của nhà nước. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung định hướng can thiệp của nhà nước.

        Hơn nữa kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, dù do quốc gia nào xây dựng trước đó cũng là giá trị của nhân loại, không phải là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là khái niệm mới và là mô hình mới, cách thức mới sự lựa chọn cần có trong xây dựng kinh tế cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước Việt Nam. Mô hình này là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn đối lập nhau, loại trừ nhau. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhà nước vận dụng quy luật giá trị thông qua việc tạo khung khổ pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và điều kiện thuận lợi cho quy luật giá trị vận động để phát huy mặt tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực.

        Thực tiễn gần 40 năm đổi mới, phát triển nền kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước xây dựng được cơ đồ vững chắc, có tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế to lớn như ngày nay. Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, là điểm sáng trên toàn cầu trong việc thực hiện thành công “mục tiêu kép”, vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân.

        Trong những năm gần đây là một quốc gia bước ra từ trong chiến tranh, dựng xây đất nước từ sự quyết tâm của mỗi người dân. Việt Nam trên bản đồ thế giới là quốc gia có thể chế chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng tốt, văn hóa, giáo dục, đạo đức, môi trường, quan hệ quốc tế tốt là minh chứng thuyết phục, tự nó đanh thép phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta./.

XÂY DỰNG VĂN HÓA "MẠNG"

 

    Trong thời đại 4.0, mạng xã hội dần trở nên gần gũi và phổ biến, thậm chí đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống của hết thảy người dân hầu như trên toàn thế giới. Nó đã làm thay đổi thế giới một cách sâu sắc. Các mối quan hệ xã hội từ chính trị đến kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá, nghệ thuật đều được tác động, thúc đẩy.

    Sự thay đổi có mặt thuận và mặt không thuận, nếu biết khai thác, phát huy những lợi thế ưu việt của thông tin từ mạng xã hội này thì người dân và quốc gia có thêm điều kiện hội nhập, phát triển, nếu không sẽ có những tác động tiêu cực và để lại nhiều hệ lụy khôn lường.

    Trên thế giới hiện đang tồn tại hàng triệu website có nội dung không lành mạnh, thậm chí độc hại ảnh hưởng rất xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của mỗi người và cả cộng đồng, đã gây ra nhiều hệ lụy cho đời sống văn hóa, xã hội khi cộng đồng mạng sử dụng trang cá nhân như một thế giới tự do phát ngôn, tự do cung cấp thông tin, hình ảnh không được kiểm soát, cả những phát ngôn bốc đồng nông nổi bất chấp hậu quả. Từ đó, đạo đức bị băng hoại, văn hoá bị tầm thường hoá, méo mó, an toàn xã hội bị đổ vỡ… Đó là chưa nói đến những ảnh hưởng bất lợi khác về chính trị, kinh tế do một số website cố tình hay vô tình gây ra.

    Đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các website xấu chủ yếu là thanh, thiếu niên, vì họ chưa được trang bị đầy đủ tri thức và kinh nghiệm về cuộc sống, xã hội. Sự ham hiểu biết của tuổi trẻ nếu không được hướng dẫn sẽ bị các thông tin từ trang "website đen" đánh lừa, chinh phục.Rất nhiều vụ việc, vụ án đã có căn nguyên từ ảnh hưởng của lối sống buông thả và bạo lực trên các website.

    Đây là điều chúng ta đã biết từ lâu. Để góp phần bảo vệ thế hệ trẻ và toàn xã hội khỏi bị ảnh hưởng xấu từ mạng xã hội, ngày 17-6-2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT về việc ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội nhằm tạo điều kiện lành mạnh mạng xã hội tại Việt Nam, đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền tự do kinh doanh, không phân biệt đối xử nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước, phù hợp với chuẩn mực, thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Mỗi người phải hiểu rằng một khi đã mở lòng mình ra trên thế giới ảo thì cũng phải đến với mọi người bằng tâm thế thiện chí, chân thật; phê phán vấn đề, hiện tượng cũng cần mang tính phản biện, xây dựng chứ không phải buông tuồng tùy tiện, nói gì thì nói. Không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ quốc gia, dân tộc nào đều có một điểm chung bắt buộc là các quyền tự do ngôn luận phải trong khuôn khổ pháp luật, những ý kiến phát biểu có trách nhiệm và đúng sự thật.

    Nhiều nước trên thế giới, chỉ cần bôi bác, vu khống người khác trên mạng là có thể bị ra tòa. Tất nhiên, ai cũng có quyền bày tỏ chính kiến nhưng mọi thứ đều phải dựa trên nguyên tắc xây dựng, tự do nhưng cũng phải trong vòng kiểm soát của pháp luật. Một khi những quy định của phát luật không điều chỉnh theo kịp với sự phát triển của xã hội, không thay đổi cách thức quản lý thì tất yếu sẽ có những rối loạn.

    Chúng ta rất cần hình thành một văn hoá cộng đồng mạng, xác lập được những chuẩn mực, giá trị trong quá trình sử dụng internet, bao gồm cả mục đích, lợi ích, hiệu quả thiết lập mạng và khai thác, các quan hệ ứng xử… Đây là phương tiện hữu ích để mỗi người dân có thể bày tỏ quan điểm cá nhân, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm sống, nêu gương người tốt, việc tốt để mọi người học tập và làm theo; hoặc phản ánh những tiêu cực, bất hợp lý, những hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân để cơ quan chức năng của Nhà nước xử lý theo quy định pháp luật.

    Mỗi người dân chúng ta cần phải sáng suốt nhận biết và hiểu đúng về "tự do ngôn luận" và "ngôn luận tự do" để không rơi vào "bẫy" của những kẻ bất mãn, có quan điểm thù địch, vô tình tiếp tay cho các hoạt động chống phá; cảnh giác với những thông tin xấu độc, không chia sẻ bừa bãi trên mạng xã hội một cách vô cảm, để rồi có các hành vi tiêu cực, phản cảm, thiếu văn hóa, thậm chí vô tình vi phạm pháp luật.

    Hướng đến xây dựng chuẩn mực đạo đức về hành vi ứng xử trên mạng xã hội, giáo dục ý thức, tạo thói quen tích cực trong các hành vi ứng xử của người dùng trên mạng xã hội, góp phần xây dựng mạng an toàn, lành mạnh tại Việt Nam, trước nhất vẫn là cần ở ý thức cá nhân của mỗi người. Những ý kiến đóng góp, phản ánh của cộng đồng mạng phải đúng, chân thành, mang tinh thần xây dựng, vì lợi ích chính đáng của đất nước, của người dân, dần hình thành những tập quán mới, đúng đắn, phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc hướng đến chân, thiện, mỹ trong việc khai thác, sử dụng hiệu quả những thông tin từ internet./.

KHẮC PHỤC BỆNH GIÁO ĐIỀU TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ NHÂN DÂN

 

        Muốn chống được giáo điều phải hết sức chú trọng giáo dục tư duy khoa học, tư duy lý luận, thấm nhuần để thực hành phép biện chứng duy vật, thống nhất hữu cơ với quan điểm duy vật biện chứng.

    1. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh trong chủ đề Đại hội, tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để dân tộc cường thịnh, trường tồn. Nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hướng tới mục tiêu đến năm 2045, vào giữa thế kỷ XXI, Việt Nam phải trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

    Muốn đổi mới sáng tạo, muốn đạt tới mục tiêu tổng quát nêu trên, trước hết phải khắc phục triệt để bệnh giáo điều, từ nhận thức đến hành động, từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, các ngành, ở trung ương, địa phương và cơ sở đến các cộng đồng dân cư trong xã hội, đến từng người. Bệnh giáo điều là một căn bệnh đã có từ lâu, tồn tại dai dẳng, bám sâu vào tư duy, vào cách ứng xử, vào các thói quen xấu trong nếp nghĩ, thâm nhập vào trong lối sống hằng ngày, vào các mối quan hệ: với mình, với người, với công việc và tổ chức bộ máy. Cùng với các bệnh khác, bệnh giáo điều gây ra những hậu quả tiêu cực, những hệ lụy xã hội phức tạp, thực sự là một lực cản xã hội ngăn trở chúng ta phát triển tới trình độ hiện đại.

    Giáo điều là bệnh thuộc về tư duy, ý thức, nhận thức. Đó là lối suy nghĩ cứng nhắc, máy móc, rập khuôn theo những công thức đã có sẵn, không thích ứng với biến đổi mau lẹ trong thực tiễn cuộc sống, thoát ly khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Do nhận thức giáo điều, dựa trên những phạm trù tĩnh nên hành động và ứng xử thường cứng nhắc, lệ thuộc vào những kết luận có sẵn trong sách vở, coi nó như một cái tuyệt đối, không thay đổi. Người mang bệnh giáo điều không thể linh hoạt, cản trở sự tìm tòi sáng tạo, không thích ứng với cái mới, ngại đổi mới thậm chí còn cố níu kéo cái cũ, dù đã tỏ ra lỗi thời, bị thực tiễn cuộc sống vượt qua từ lâu, sinh ra trì trệ, bảo thủ, chống lại cái mới và sự đổi mới, dù là không tự giác.

    Bệnh giáo điều thường đi liền với bệnh giản đơn, hình thức, chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng, tư duy siêu hình.

    Giáo đều có nguồn gốc nhận thức từ thế giới quan duy tâm chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình. Biểu hiện về mặt nhận thức là tách rời lý luận với thực tiễn, rơi vào “bệnh sách vở” mà thực chất là yếu kém về lý luận nhưng lại coi thường (“coi khinh” - chữ dùng của Hồ Chí Minh) lý luận, thường tuyệt đối hóa kinh nghiệm và bị chủ nghĩa kinh nghiệm trói buộc. Trong mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù, người mắc bệnh giáo điều thường tuyệt đối hóa cái phổ biến, phủ nhận cái đặc thù. Ngược lại thì rơi vào chủ nghĩa xét lại như Hồ Chí Minh giải thích.

    Tóm lại, đã giáo điều thì tất sẽ chủ quan, phiến diện và siêu hình. Nó xa lạ với tư duy biện chứng, phép biện chứng duy vật vốn là khoa học về phát triển, xử lý một cách biện chứng, khách quan, khoa học giữa cái khách quan và cái chủ quan. Biểu hiện trong thực tiễn, nhất là qua thái độ và sự ứng xử, người giáo điều, nhất là giáo điều tới mức cực đoan thì thường hay phản đối một cách cảm tính những ai có tư duy độc lập sáng tạo, hay quy kết, chụp mũ về lập trường quan điểm, hay “đao to búa lớn”, “đại ngôn”, từ những khác biệt trong nhận thức, mà họ không có khả năng thuyết phục người khác về mặt lý luận, khoa học thì chuyển ngay sang những nhận định, đánh giá, phê phán về lập trường, quan điểm, rất có hại cả về nhận thức khoa học và hành động chính trị.

    Người giáo điều rất hay có thói quen “chính trị hóa” mọi vấn đề, kể cả trong khoa học, dị ứng với những phê phán khoa học, hay định kiến đối với những ai và những gì khác mình. Cách nghĩ và hành xử như vậy là ở bên ngoài chân lý khoa học, ở bên ngoài dân chủ, xa lạ với văn hóa, bởi “văn hóa là biết lắng nghe”, bởi “văn hóa là thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm những khác biệt”, “văn hóa trong bản chất của nó là khoan dung”, (chấp nhận, thừa nhận cái khác mình, không tự lấy mình làm chuẩn để áp đặt người khác…)

    Xét về mặt văn hóa dân chủ, người giáo điều thường hành động xa lạ với dân chủ (không quen đối thoại, thảo luận, tranh luận, phản biện) để cùng tìm tòi chân lý.

    Xét về mặt đạo đức, người giáo điều dễ rơi vào hẹp hòi, đố kỵ, nhất là khi người đó lại có quyền hành và quyền uy, nếu mất bình tĩnh sáng suốt, thiếu tinh thần khách quan, tôn trọng khoa học và thực tiễn thì họ rất dễ mắc sai lầm về việc đàn áp tư tưởng, nhất là với giới trí thức sáng tạo. Xét về lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, văn nghệ sĩ, lãnh đạo phải hiểu trí thức, nhất là với trí thức khoa học và nghệ thuật vì họ có cá tính mạnh, có nhu cầu lớn về tự do và sáng tạo, coi trọng khẳng định cái tôi - bản ngã độc lập nên khi dân chủ bị vi phạm, trí thức rất dễ tổn thương về tinh thần và các giá trị tinh thần. Lãnh đạo trí thức mà không dân chủ, không đủ sức thuyết phục họ về học thuật, tư tưởng và đạo đức thì tự nó tạo ra rào cản, thiếu sự đồng cảm, hợp tác và tin cậy lẫn nhau, khoa học thì thiếu động lực để phát triển và chính trị cũng không tiếp nhận được xung lực từ khoa học để “khoa học hóa” chính mình.

    Bệnh giáo điều giản đơn thường đồng nhất hóa nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, hiện tượng vốn chỉ thống nhất (bao hàm khác biệt) chứ không đồng nhất.

    Trong đời sống, giải quyết mối quan hệ giữa khoa học và chính trị, giữa chân lý và quyền uy (quyền lực chính trị), giữa nhà khoa học và nhà chính trị, “con người khoa học” và “con người chính trị” vốn không đơn giản. Mối quan hệ phức tạp này sẽ được giải quyết bằng văn hóa, bằng ứng xử văn hóa tinh tế, bao dung của các nhà lãnh đạo mà Mác, Ăng ghen, Lênin, Hồ Chí Minh là những mẫu mực. Các ông là các nhà tư tưởng, đồng thời là những nhà bác học, nhuần nhuyễn giữa quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng, sáng tạo chứ không giáo điều, linh hoạt uyển chuyển chứ không cứng nhắc, biết lắng nghe, biết đối thoại, biết thuyết phục. Hồ Chí Minh còn là bậc thầy về sự cảm hóa, thu phục nhân tâm, trọng dụng nhân tài, trọng đãi hiền tài một cách biện chứng chứ không siêu hình, một cách chân thành, tin cậy.

    Một trong những tác hại của bệnh giáo điều, ở những người giáo điều là, dù không tự giác, không cố ý, họ cũng rơi vào sự kìm hãm dân chủ và tự do tư tưởng, có nguy cơ trở thành độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ và làm phương hại tới sự trong sạch, trong sáng của môi trường đạo đức, văn hóa đạo đức. Hệ lụy của nó là tạo ra những kẻ hở, những mảnh đất dung dưỡng cho thói dân chủ hình thức, đoàn kết hình thức, “giả đạo đức” và “giả khoa học”, “giả chính trị”, “giả cách mạng”. Kẻ cơ hội và chủ nghĩa cơ hội sẽ lợi dụng triệt để tình trạng này để thực hiện những ý đồ, những hành vi bất minh, bất chính để vụ lợi và trục lợi.

    Đủ thấy vấn đề đặt ra phức tạp như thế nào và phải tìm tòi như thế nào để có một hệ giải pháp đồng bộ nhằm thanh toán triệt để bệnh giáo điều, từ nhận thức đến hành động trong cán bộ đảng viên và nhân dân.

    2. Một cách cụ thể và trực tiếp, muốn chống được giáo điều phải hết sức chú trọng giáo dục tư duy khoa học, tư duy lý luận, thấm nhuần để thực hành phép biện chứng duy vật, thống nhất hữu cơ với quan điểm duy vật biện chứng. Đây là giải pháp cơ bản, hàng đầu. Nói một cách khác, phải khắc phục thế giới quan duy tâm (cả chủ quan lẫn khách quan) cùng với phép siêu hình. Phải trau dồi năng lực tư duy triết học - ở đây cái cốt lõi là triết học Mác-Lênin đồng thời với trang bị hệ thống tri thức về lịch sử tư tưởng triết học. Các tri thức triết học và tư tưởng trong lịch sử triết học phải được dạy và học trên tinh thần và phương pháp khoa học như những môn khoa học cơ bản nghiêm túc nhất. Đang có một mâu thuẫn giữa tinh giản chương trình, thu hẹp hay lồng ghép các loại hình tri thức với khuynh hướng giản lược hóa các tri thức mà người học phải được lĩnh hội. Phải khắc phục tình trạng người học “dường như cái gì cũng biết” nhưng trên thực tế thì không biết thấu đáo, ngọn ngành tri thức nào. Hiểu biết hời hợt là đồng minh của giáo điều. Cần làm cho người học, nhất là sinh viên chuyên ngành có ý thức và nhu cầu tự trau dồi trí thức triết học, không chỉ tồn tại ở các nguyên lý như cái kết luận được thừa nhận mà phải biết, phải hiểu “cái lịch sử” để nắm vững thực chất của “cái lô gích”. Phải khắc phục định kiến của không ít người trong chúng ta về “tri thức hàn lâm”, do đó dẫn đến sự hiểu biết hời hợt, thậm chí tầm thường hóa thực tiễn ứng dụng, tách rời thực tiễn với lý luận. Không hiểu lý luận, không trọng lý luận thì không thể tiếp cận thực tiễn một cách khoa học, không phải là mô tả cái bề ngoài của thực tiễn mà cái chính là đem lý luận soi sáng cho thực tiễn, là “lý luận hóa” chứ không phải “kinh nghiệm hóa” nó.

    Giáo điều tất yếu sẽ biệt phái, chỉ thấy “cái một” - cái duy nhất mà không thấy sự muôn vẻ, sự đa dạng của trí thức, khoa học là phản ánh tính đa dạng của thực tiễn được khái quát hóa, lý luận hóa kinh nghiệm thực tiễn để vượt lên chủ nghĩa kinh nghiệm, tự giải phóng mình khỏi tình trạng biệt phái, giáo điều.

    Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng biện chứng của các nhà kinh điển và thực hành xuất sắc phép biện chứng đó. Người không chỉ giác ngộ và tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trung thành một cách sáng tạo bằng cách phát triển sáng tạo chủ nghĩa, học thuyết đó. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin là quan trọng và quyết định nhất trong ý thức hệ của mình, nhưng Người không xem đó là cái duy nhất. Người tiếp thu nhiều nguồn tri thức khác của văn hóa phương Đông và phương Tây, nhờ đó mà càng hiểu biết sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác-Lênin, thấy ở đó cả tinh thần và phương pháp, hiểu thực chất để thực hành sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn khoa học với chính trị và đạo đức, tổng hợp lại đó là văn hóa. Ta phải học và làm theo Người cả về quan điểm và phương pháp là vì vậy. Để chống giáo điều biệt phái, kinh nghiệm và siêu hình, cần ghi nhớ và thực hành chỉ dẫn của Người qua các luận điểm điển hình:

    + “Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là bản chất, là nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa Mác-Lênin”.

    + “Thực hành sinh ra hiểu biết

    Hiểu biết tiến lên lý luận

    Lý luận lãnh đạo thực hành”.

    + Nghiên cứu, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là thuộc lòng từng câu từng chữ như một con vẹt mà phải nắm lấy thực chất, tiếp thu tinh thần và phương pháp Mác-Lênin để độc lập sáng tạo giải quyết những vấn đề đặt ra, để ứng xử với con người và công việc cho đúng.

    + Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là khoa học mà còn là đạo đức. Đọc hàng trăm hàng nghìn quyển sách Mác-Lênin mà ăn ở với nhau không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu Mác-Lênin được.

    + Phương Tây có gì hay cũng học. Phương Đông có gì hay cũng học. Học để làm phong phú chính mình. Học để biết, để hành cho đúng, cho sáng tạo. Tiếp thu có chọn lọc với tinh thần phê phán, không bắt chước, không sao chép máy móc… Ta và Liên Xô rất khác nhau... Ta có thể đi con đường khác với Liên Xô để tiến tới chủ nghĩa xã hội… Phải thấy đặc điểm to nhất của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội…

    Đó là những chỉ dẫn quý báu của Người, cần hiểu đúng, làm đúng.

    Thứ hai, phải hiểu đúng “bệnh sách vở” và xử lý đúng căn bệnh sinh ra giáo điều này và vượt qua nó. Bệnh sách vở như chúng ta thường gọi có biểu hiện là lệ thuộc hoàn toàn vào sách, nhất nhất tuân theo như những giáo điều. những tín điều, sinh ra mù quáng, không có khả năng phê phán, tiếp thu cái gì, sàng lọc và từ bỏ cái gì (cái sai, cái lỗi thời) và phải đối xử với sách, với tri thức sao cho đúng, không rơi vào tư biện, không “coi khinh lý luận”, không “lý luận suông”. Bệnh sách vở thật ra là bệnh ở những người “đọc sách mà không hiểu sách”, thành con mọt sách đọc quá ít sách nên tri thức hạn hẹp, hời hợt, không có khả năng phân tích, phê phán để vận dụng cho đúng. Để chống bệnh sách vở mà thực chất là chống giáo điều thì không phải máy móc phê phán sách, coi thường sách, vứt bỏ sách mà trái lại phải quý trọng sách vở, đọc nhiều sách hơn, tích lũy nhiều trí thức hơn, “không có sách thì không có tri thức. Không có tri thức thì không có chủ nghĩa cộng sản”, “không làm giàu tri thức của mình bằng tất cả kho tàng tri thức nhân loại, thì chủ nghĩa cộng sản chỉ dừng lại là nguyện vọng mà thôi” .

    Điều quan trọng là đọc sách, tiếp thu tri thức sách vở bằng phương pháp khoa học, có mục đích đúng khi đọc sách, tránh bệnh hình thức, phô trương, “đọc dăm ba quyển sách, biết được dăm ba điều để khoe khoang, để loè thiên hạ”. Không để sách vở che lấp cuộc sống, rơi vào chủ quan, tư biện, thoát ly thực tiễn.

    Thứ ba, phải có tinh thần dân chủ, khiêm tốn, thực sự cầu thị, rèn luyện, tu dưỡng thường xuyên cả về tri thức (học vấn, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ), về tình cảm và đạo đức cách mạng, bồi dưỡng niềm tin khoa học, kỹ năng thực hành và văn hóa giao tiếp ứng xử. Theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, phải ra sức “phê bình và sửa chữa” bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và thói ba hoa được nêu trong “Sửa đổi lối làm việc” . Thói “coi khinh lý luận” lại “coi khinh dân vận” mà cán bộ đảng viên mắc phải là do cái bệnh này gây ra, phải ra sức sửa chữa. Biết lắng nghe, biết thảo luận, tranh luận, biết phân biệt đúng - sai, thật - giả, xấu - tốt, biết học hỏi từ trong sách vở nhà trường đến cuộc sống, học dân, hỏi dân, học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn, nêu cao đức trung thực trong tự phê bình và phê bình, tự học, tự đào tạo suốt đời… Đó là những phẩm chất cần có của những người giác ngộ, những người cộng sản có trí tuệ, khác với người cộng sản tuy nhiệt thành nhưng thiếu hiểu biết, không đáp ứng được đòi hỏi ngày một cao của tình hình, nhiệm vụ mới. Lênin đã từng cảnh báo “nhiệt tình mà không có hiểu biết, rốt cuộc có thể dẫn đến phá hoại một cách vô ý thức”. Lênin cũng đòi hỏi học “Học nữa, học mãi” và Hồ Chí Minh nhấn mạnh “đường đời là một chiếc thang không có nước chót, học tập là một quyển vở không có trang cuối cùng”.

    Thứ tư, tiếp tục đổi mới sáng tạo, nuôi dưỡng tinh thần cống hiến, để thực hiện khát vọng phát triển bằng ý chí và hành động sáng tạo thực sự có hiệu quả thì phải tiếp tục đề cao, coi trọng “đổi mới tư duy”. Phải đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý và quản trị sao cho phù hợp với yêu cầu đặt ra của thời đại đang bùng nổ thông tin, xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ sang “xã hội số”, “kinh tế số”, “chính phủ điện tử”, “trí tuệ nhân tạo”, “thế giới phẳng” và “công dân toàn cầu” ... với không ít điều mới lạ, tác động tới tâm lý, ý thức, lối sống, lựa chọn giá trị mới…Xã hội hiện đại mà chúng ta đang sống, đang vươn tới vừa đòi hỏi phải khắc phục căn bản lối tư duy giáo điều, trì trệ, bảo thủ… lại vừa tạo ra tiền đề, điều kiện và môi trường để thanh toán giáo điều, định hình cả trình độ, phương pháp và phong cách của tư duy hiện đại. Khi Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành nước công nghiệp hiện đại thì môi trường xã hội ấy, cái cốt vật chất kỹ thuật - công nghệ hiện đại ấy sẽ dọn sạch mảnh đất sinh ra và nuôi dưỡng giáo điều, kinh nghiệm, siêu hình, biệt phái như đã nói.

    Thứ năm, phải đổi mới thật sự triệt để, toàn diện, đồng bộ mọi lĩnh vực công tác và hoạt động của ngành Tuyên giáo, giáo dục và văn hóa, thông tin truyền thông. Đây là lĩnh vực cần có những cải biến cách mạng sâu sắc, mang tầm vóc một cuộc cách mạng trong lĩnh vực ý thức, tinh thần. Từ quan niệm đến nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo - tuyên truyền đến phong cách, đến đội ngũ cán bộ, đào tạo chuyên gia, tạo hiệu ứng xã hội rộng lớn, có sức truyền cảm hứng mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân. Hồ Chí Minh là bậc thầy trong lĩnh vực này mà ta cần học tập, làm theo. Càng không thể quên lời cảnh báo phê phán nghiêm khắc của Lênin về công tác này. Ông nói tới tác hại của giáo điều, sự xuyên tạc làm mất tín nhiệm của chủ nghĩa Mác cần phải thanh toán. Trong việc gây ra tội ác này, “những người Mác xít có môn bài” phải chịu phần trách nhiệm và ra sức sửa chữa./.