Đã nhiều năm trôi qua, hình ảnh về những ngày tháng làm thầy giáo mặc áo lính vẫn hằn in trong ký ức tôi.
Thứ Ba, 31 tháng 10, 2023
ĐỒNG ĐỘI TÔI - NHỮNG THẦY GIÁO MẶC ÁO LÍNH
KHIÊM NHƯỜNG MỘT PHÂN, TÔN QUÝ VẠN PHẦN
Có một số người khi được giao quản lý một nguồn lực nào đó của cơ quan, thay vì hiểu rằng bổn phận của mình là giúp cơ quan bảo quản, vận hành và khai thác tốt nguồn lực tài sản, thì họ lại “tự tung tự tác”, tự cho mình quyền hạn như là chủ nhân thực sự của nguồn tài sản đó. Thế nên, thay vì khiêm nhường làm việc với đúng chức trách được giao thì họ lại tỏ ra có “quyền sinh quyền sát”, thực hiện nhiệm vụ nhưng lại như “ban phát” quyền lợi, “gia ân” cho người khác. Và đương nhiên những người được lòng hay thân thiết với họ sẽ được ưu ái nhiều hơn, trong khi những người khác sẽ gặp không ít trở ngại mặc dù đó cũng là quyền được thụ hưởng chính đáng của họ.
VẠCH TRẦN BẢN CHẤT CỦA TỔ CHỨC RISE
Đầu năm 2020 một số thành viên cốt cán của tổ chức khủng bố “Việt Tân” công khai xin ra khỏi tổ chức để thành lập cái gọi là tổ chức RISE – đây có thể là một chiêu bài vỏ bọc của Việt Tân. Chúng đăng ký hoạt động dưới danh nghĩa tổ chức phi lợi nhuận tại Mỹ.
RISE quy tập toàn các đối tượng chống
đối cực đoan như:
Angelia Trang Huỳnh (Huỳnh Phạm
Phương Trang), sinh năm 1973, trú tại Mỹ – Ủy viên Trung ương “Việt Tân”,
Giám đốc điều hành RISE;
Trinnitry Phạm Hồng Thuận, sinh năm
1988, quốc tịch Mỹ, Thuận được kết nạp vào “Việt Tân” năm 2007, tại buổi
sinh hoạt của cộng đồng người Việt Nam tại Caliphornia năm 2007 Phạm Hồng Thuận
đã đọc bản tuyên bố phản đối Việt Nam trở thành thành viên không thường trực
Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, ngoài ra Thuận còn nhiều lần tố cáo Việt Nam vi
phạm dân chủ, nhân quyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước;
Nguyễn Mạng Hùng cựu phó ban Việt ngữ
đài BBC, cộng tác viên đài VOA; Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ Trúc Hồ, phát
ngôn đài SBTN), ngoài ra RISE còn móc nối, lôi kéo số đối tượng trốn truy
nã như Thái Văn Dung, trú tại xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, (đối
tượng có tiền án về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, hiện đang
bị cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An ra Quyết định truy nã toàn quốc về tội
“không chấp hành án”); Lê Văn Sơn (đối tượng có tiền án về tội
“Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, hiện đang bị cơ quan CSĐT Công an
tỉnh thanh hóa ra Quyết định truy nã toàn quốc về tội “không chấp hành án”)…
tham gia.
Về bản chất RISE được “Việt Tân” thành lập ra nhằm mục đích hoạt động chống Đảng, Nhà nước, ý đồ của chúng là sử dụng vỏ bọc của tổ chức phi chính phủ, “độc lập” với “Việt Tân”, lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân sinh”, “xã hội dân sự” để lồng ghép, lợi dụng các vấn đề môi trường, cuộc sống dân sinh của người dân để thực hiện các hành vi chống đối… nhằm thu hút sự chú ý của người dân, tuyển chọn, huấn luyện, đào tạo các đối tượng người Việt ở trong và ngoài nước, kích động biểu tình, bạo loạn, tiến tới tập hợp lực lượng thành lập tổ chức chính trị đối lập ở trong nước. RISE đã triển khai một số khóa huấn luyện, đào tạo trực tuyến về các kỹ năng về “xây dựng phong trào, đối phó rủi ro”, về “xã hội dân sự” với chủ đề “xây dựng chiến thuật hiệu quả cho phong trào” cho các đối tượng ở trong và ngoài nước, nhằm đẩy mạnh tập hợp lực lượng, tăng cường đưa người, phương tiện vào trong nước xây dựng lực lượng để triển khai các kế hoạch chống phá ở trong nước. Ngoài ra, RISE còn tổ chức các khóa tập huấn cho các cá nhân, nhóm người dưới vỏ bọc thực hiện các dự án, hoạt động có “ý nghĩa xã hội” nhằm tìm kiếm, lôi kéo, tuyển chọn “hạt nhân” , phục vụ cho mục đích, ý đồ chống phá Việt Nam và tìm kiếm các nguồn tài trợ.
Trước thủ đoạn thâm độc của “Việt Tân” dưới vỏ bọc RISE mỗi người dân cần cảnh giác, không để bị móc nối, lôi kéo kích động; đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân, hỗ trợ cơ quan chức năng đấu tranh với âm mưu chống phá của RISE. Góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế – xã hội./.
BẢO VỆ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Văn hóa truyền thống là hồn cốt của dân tộc, được coi như giá trị
thương hiệu, quyền lực mềm, vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển bền
vững ở Việt Nam.
Tuy nhiên, lợi dụng xu thế toàn cầu hóa,
giao lưu, tiếp biến văn hóa của Đảng, Nhà nước, các thế lực thù địch đã và đang
tìm mọi phương thức, thủ đoạn chống phá văn hóa truyền thống, sử dụng không
gian mạng để du nhập, cổ xúy cho văn hóa ngoại lai, độc hại.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước, những tinh hoa, giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã
được hun đúc, vun đắp và trở thành truyền thống quý báu, đó là: “Lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết
cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính
giản dị trong lối sống”. Những giá trị văn hóa truyền thống này đã cố kết những
người dân nước Việt thành một cộng đồng thống nhất trong mọi hoạt động sống,
lao động, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Những năm gần đây, các thế lực thù địch ráo
riết chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có văn hóa truyền thống. Sự chống phá này đã tạo ra hệ lụy không hề
nhỏ, là một thứ “giặc nội xâm” đã và đang làm băng hoại thuần phong mỹ tục, giá
trị truyền thống của dân tộc. Xét về mục tiêu, nội dung và lực lượng tiến hành
của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hóa bao gồm hai điểm chính, đan xen,
hỗ trợ và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là:
Thứ nhất: Truyền bá, tiêm nhiễm các sản phẩm văn hóa ngoại
lai có tính chất xấu độc, làm xói mòn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
để tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích những ham muốn vật chất của mỗi
người dân; từng bước làm thay đổi các thang giá trị xã hội, đạo đức, lối sống,
làm cho một bộ phận nhân dân nhận thức không đầy đủ về trách nhiệm cộng đồng;
chạy theo lợi ích vật chất, chỉ biết đến “cái tôi” mà quên đạo nghĩa, quay lưng
lại với truyền thống và những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Thứ hai: Từng bước phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa là tự do sáng tạo, không cần
tính định hướng và xa rời chính trị; từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang
lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, chống lại chủ
trương, đường lối của Đảng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chúng vừa dùng các lực lượng, phương
tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển các lực lượng và phương tiện ở trong
nước, tạo ra sự chống đối từ xã hội, từng bước làm cho nhân tố chống đối bên
trong phát triển để tập hợp lực lượng phá ta từ bên trong nội bộ Đảng và xã hội
ta. Đối tượng tác động mà chúng hướng tới là quần chúng nhân dân, trước hết là
thế hệ trẻ sinh ra trong thời bình, đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện
nhân cách, dễ dàng chạy theo cái mới, bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, còn ít
kinh nghiệm sống. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu trò thâm hiểm; đặc
biệt là chiến thuật “tâm công” theo phương châm “mưa dầm thấm lâu” để đánh vào
lòng người.
Về hình thức và thủ đoạn tiến hành: Trên
nền tảng của mạng xã hội, các thế lực thù địch đã thành lập các website, nhiều
chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Việt; lập hàng nghìn blog,
trang Facebook, Twitter, YouTube, Zalo... để livestream, tung clip, đăng tải
những nội dung xuyên tạc, bài xích; tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm trực
tuyến hoặc qua tiếp xúc với các cá nhân, cơ quan trong nước. Các kênh phát
thanh, truyền hình trên không gian mạng được chúng tạo giao diện như thật, mô
phỏng theo các kênh chính thống của Đảng, Nhà nước nhằm lập lờ, lộn sòng đen
trắng, nhào nặn trộn lẫn những thông tin đúng-sai, thật-giả, đưa thông tin giật
gân, lấp lửng giật tít, “câu view” nhằm đánh trúng tâm lý tò mò của nhiều
người, gây tâm lý bi quan, hoài nghi, hoang mang trong dư luận.
Trong tập hợp lực lượng, các thế lực thù
địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị thường dùng nhiều thủ đoạn
rất nham hiểm, thường qua 4 bước gồm: 1. Đồng cảm: Chúng đóng vai “một người
lạ” để tiếp xúc với một bộ phận người dân, những người đã từng vi phạm pháp
luật, rồi giả nhân, giả nghĩa, vờ đồng cảm, tự cho mình “đại diện” để nói lên
tiếng nói cho họ, rồi kích động người dân đấu tranh với chính quyền để đòi công
bằng. 2. Tôn vinh: Chúng vờ coi những người có tư tưởng bất mãn, chống đối ở
lĩnh vực văn hóa là những người đúng đắn, cấp tiến, đại diện của nền văn hóa
hiện đại, rồi tổ chức tọa đàm, livestream để tôn vinh hoặc trao những “giải
thưởng”. 3. Dụ dỗ, mua chuộc: Sau khi vờ đồng cảm và tôn vinh, các thế lực thù
địch sẽ tìm mọi cách để dụ dỗ, mua chuộc đối tượng mà chúng hướng tới. Sự dụ
dỗ, mua chuộc được thực hiện bằng cả vật chất, tinh thần cũng như những viễn
cảnh tốt đẹp do chúng tạo dựng lên. 4. Khống chế: Sau khi bị dụ dỗ, mua chuộc,
những đối tượng này sẽ bị các phần tử phản động từng bước khống chế, nói và làm
theo ý muốn của chúng.
Để góp phần đấu tranh, ngăn chặn âm mưu,
thủ đoạn và luận điệu xuyên tạc, bài xích văn hóa truyền thống dân tộc trên
không gian mạng, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân về mục tiêu, định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện tốt biện pháp này, trước hết cần nâng cao
nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý của
các cơ quan, tổ chức trên lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển văn
hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Cấp ủy, tổ chức đảng và tổ chức hành chính các cấp cần xây dựng và ban
hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa,
nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ các nguồn lực cho phát triển văn
hóa, chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và
dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình
cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.
Hai là, thực hiện có hiệu quả các giải
pháp công nghệ, giáo dục ý thức sử dụng và xử lý nghiêm các vi phạm trên không
gian mạng. Phát triển và ứng dụng dịch vụ internet, không gian mạng vào
các lĩnh vực của đời sống xã hội ở Việt Nam là một xu thế tất yếu, mang lại
nhiều giá trị đích thực. Song, những mặt trái, tiêu cực của không gian mạng
cũng đặt ra yêu cầu và thách thức không nhỏ cho công tác quản lý; đòi hỏi cần
đẩy mạnh thực hiện những giải pháp công nghệ như: Cung cấp thông tin chính
thống; bảo vệ thông tin cá nhân; kỹ thuật dự báo, phân tích điều tra, ngăn
chặn, bóc gỡ, khóa tài khoản của đối phương. Kiên quyết xử lý nghiêm minh, hiệu
quả, có tính răn đe cao đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật khi tham
gia mạng xã hội. Cấp ủy, tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ
luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những
thông tin sai lệch hoặc tán phát những nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích
động trên không gian mạng.
Ba là, chủ động hợp tác quốc tế, thường xuyên trao đổi, học tập kinh nghiệm quản lý mạng xã hội với các nước trên thế giới. Cơ quan chức năng cần chủ động hợp tác quốc tế, nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá trên mạng xã hội của các tài khoản, máy chủ ở nước ngoài để đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam trên mạng xã hội như: Phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá; kịp thời nhận diện những phương thức, thủ đoạn mới. Chủ động hợp tác, nắm bắt và yêu cầu các tập đoàn truyền thông như: Google, YouTube, Facebook, Twitter... cần tuân thủ pháp luật Việt Nam khi tham gia hoạt động trên đất nước ta. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các dịch vụ mạng xã hội để gỡ bỏ các clip, bài viết với nội dung xuyên tạc, bài xích văn hóa truyền thống Việt Nam trên không gian mạng.
Văn hóa là sản phẩm của lịch sử và là phương thức tồn tại của một dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam luôn mang trong mình những yếu tố lịch sử, truyền thống, tâm lý gắn với các biểu tượng, phong tục, tập quán của một cộng đồng dân tộc. Nhận diện những luận điệu xuyên tạc, bài xích văn hóa truyền thống do các thế lực thù địch tiến hành trên không gian mạng là hết sức cần thiết, góp phần giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo ra sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, đất nước ta ngày càng phồn vinh.
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI QUY LUẬT PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã khẳng định một chân lý: Đi theo con đường cách mạng XHCN và đi lên CNXH là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, phù hợp với khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã luận giải khoa
học về sự thay thế của những hình thái KT-XH từ thấp đến cao là quá
trình lịch sử-tự nhiên, là do vận động của những quy luật KT-XH khách
quan. Với quan điểm duy vật biện chứng khoa học, các nhà kinh điển Mác-xít đã
chỉ ra hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa tất yếu ra đời và thay thế
hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa. Nó phải trải qua “một thời kỳ và
hai giai đoạn”, đó là thời kỳ quá độ, giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn cao là
cộng sản chủ nghĩa. Hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển
cao hơn và khác về chất so với hình thái KT-XH TBCN nên phải trải qua quá
trình cải biến cách mạng lâu dài; không bao giờ tự phát hình thành mà thông qua
vận động của các quy luật về KT-XH, con đường đấu tranh cách mạng để xóa
bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Hệ thống lý luận
cơ bản đó của Chủ nghĩa Mác-Lênin là cách mạng, khoa học, được vận dụng thành
công ở nước Nga từ năm 1917. CNXH từ lý luận trở thành hiện thực, từ một nước
phát triển thành hệ thống chính trị thế giới đối lập với hệ
thống TBCN trong hơn 7 thập niên.
Về thực tiễn, CNXH hiện thực ra đời đã
thể hiện tính ưu việt hơn CNTB. Công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga, sau đó là
Liên Xô có thời gian chưa dài, nhưng đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên
mọi lĩnh vực. Sản lượng công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp thế
giới; sản lượng điện đạt 440 tỷ kWh (gấp hơn 300 lần so với năm 1913; bằng 4
nước lớn là Anh, Pháp, Đức, Italy cộng lại); dầu mỏ đạt 353 triệu tấn, than 624
triệu tấn, thép 121 triệu tấn (vượt sản lượng của Mỹ). Có thể thấy, trong một
thời gian ngắn, CNXH ra đời ở Liên Xô và nhiều nước XHCN tuy chưa hoàn thiện
nhưng đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt, khác hẳn về chất so với CNTB.
Điều đó cho thấy, CNXH là một hiện thực,
hoàn toàn không phải là “giấc mơ”, cũng chẳng phải là “ảo tưởng về một thiên
đường” như các thế lực thù địch rêu rao! Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông
Âu (trước đây) chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan, chứ không phải do Chủ nghĩa Mác-Lênin hay lý tưởng về CNXH
đã lỗi thời, lạc hậu.
Mặc dù CNTB đạt được những thành tựu to
lớn nhưng chủ yếu đem lại lợi ích cho giai cấp tư sản mà không vì lợi ích của
quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Những mâu thuẫn nội tại và đối kháng
trong xã hội TBCN chỉ giải quyết bằng con đường tất yếu là cách mạng
XHCN. Trong bối cảnh hiện nay, CNTB đã có những thích nghi, phát
triển nhất định nhờ tận dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện
đại, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Các nước XHCN đang ở giai đoạn khó khăn
tạm thời, song theo quy luật phát triển khách quan của lịch
sử, CNTB sẽ bị xóa bỏ, chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH ưu
việt hơn sẽ ra đời, tồn tại và phát triển.
Đối với cách mạng Việt Nam, những năm
nửa đầu thế kỷ 20, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có 30 năm bôn ba ở nước ngoài, đến
các nước tư bản phát triển, đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường cách
mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, xâm lược và đô hộ
của chủ nghĩa thực dân và phong kiến. Người khẳng định, muốn giành lại được độc
lập cho dân tộc thì phải tiến hành con đường cách mạng vô sản và xây dựng chế
độ XHCN. Từ năm 1930, “Chánh cương vắn tắt” của Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thảo luận, thông qua đã xác định rõ
đường lối của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Năm 1991, Đảng đã ban hành “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, trong đó chỉ ra 6 đặc trưng
cơ bản của chế độ XHCN ở Việt Nam. Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã phát triển sáng tạo thành 8 đặc trưng của CNXH ở Việt Nam, trong đó
đặc trưng bao trùm là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hơn 90 năm được rèn giũa, tôi luyện, thử
thách trong thực tiễn cách mạng sôi động, phong phú, Đảng Cộng sản Việt Nam có
bản lĩnh chính trị, có trí tuệ, có khả năng lãnh đạo thành công công cuộc xây
dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng
chiến chống thực dân, đế quốc lớn trong thế kỷ 20, thực hiện mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH. Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây) bị
khủng hoảng, sụp đổ thì Đảng ta vẫn kiên định con đường đi lên CNXH, kiên trì đường
lối đổi mới, giữ vững nguyên tắc “đổi mới nhưng không đổi màu”. Trải qua gần 40
năm tiến hành đổi mới, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta đã đạt được thành tựu rất
to lớn, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội
XIII của Đảng đánh giá khái quát: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay... Tiếp tục khẳng định con đường đi
lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.
Trong những chặng đường tới, Đảng ta đã có dự báo khoa học về 4 nguy cơ, những thách thức không nhỏ từ bên ngoài và ở trong nước đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với phương châm vượt qua thách thức, tận dụng những cơ hội, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam phát triển nhanh và bền vững hơn, Đảng ta đặt ra mốc: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN” là hoàn toàn có cơ sở khoa học đúng đắn và có tính khả thi.
Với trí tuệ, khả năng và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng, được sự ủng hộ của nhân dân thì việc kiên định lựa chọn con đường đi lên CNXH cũng không ngoài mục đích nhân văn cao đẹp là tiếp nối truyền thống, xứng đáng với các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; đồng thời đáp ứng lòng mong đợi và phù hợp với khát vọng, mong muốn của gần 100 triệu người dân Việt Nam.
NÓI VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN MẠNG XÃ HỘI
Đảng,
Nhà nước tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do ngôn luận của công
dân. Tuy nhiên, đối với việc sử dụng mạng xã hội để dàn dựng, xuyên tạc sự
thật, tung tin sai trái, thất thiệt với ngôn ngữ, nội dung phản cảm, thô tục,
xuyên tạc, xúc phạm danh dự, nhân phẩm đến các tổ chức, cá nhân, xâm phạm đến
lợi ích quốc gia, dân tộc thì phải chấn chỉnh, xử lý để răn đe người vi phạm và
phòng ngừa chung.
Không
chỉ riêng Việt Nam, mà nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều có các
biện pháp khuyến khích công dân ứng xử có văn minh trên mạng xã hội, bảo đảm
cho tự do ngôn luận đi theo chiều hướng tích cực, có lợi, đáp ứng được những
yêu cầu, đòi hỏi khách quan. Việc xây dựng các quy định luật pháp về tự do ngôn
luận của mỗi quốc gia đều căn cứ truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán,
những điều kiện, bối cảnh lịch sử cụ thể… Như tại Singapore, luật pháp quy định
phạt đến 100.000 đôla Singapore hoặc phạt tù tới 3 năm với hành vi nói xấu, phỉ
báng, vu khống trong sinh hoạt hằng ngày và trên mạng xã hội; nếu bị phát hiện
đưa tin giả lên mạng xã hội, khi nhà chức trách yêu cầu cải chính mà không chấp
hành, có thể sẽ bị phạt đến 20.000 đôla Singapore hoặc 12 tháng tù. Luật pháp
nước này nghiêm cấm các hành vi đi ngược lợi ích và ổn định cộng đồng, làm tổn
hại an ninh và an toàn cộng đồng, làm tổn hại sức khỏe, kích động sự hận thù
giữa các nhóm xã hội, suy giảm niềm tin vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
nhà nước, làm tổn hại quan hệ giữa Singapore với các quốc gia khác
Ngay
như ở một số nước tư bản phát triển, quyền tự do ngôn luận không thể bất tuân
pháp luật. Như ở Mỹ, Tối cao pháp viện nước này đã khẳng định, tự do ngôn luận
không có nghĩa là có quyền bịa chuyện vu khống, phỉ báng cá nhân; giới hạn về
tự do ngôn luận thể hiện qua án lệ của tòa án, cho phép chính quyền có quyền
ngăn chặn, trừng phạt phát ngôn có tính khiêu dâm, phỉ báng, tục tĩu, xúc phạm,
gây hấn. Ở Pháp, pháp luật cũng quy định những giới hạn, có các chế tài nghiêm
khắc đối với hành vi lạm dụng tự do ngôn luận xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác, đồng thời chống lại việc vu khống, bôi nhọ, phân biệt
chủng tộc, tôn giáo, kích động bạo lực, gây hận thù. Bộ luật Dân sự của Pháp
cấm xâm phạm đời tư cá nhân; Luật Hình sự nước này cấm xuất bản một số tài liệu
liên quan đến an ninh quốc gia; Luật Tự do báo chí điều chỉnh hành vi tổ chức,
cá nhân trên mạng internet. Ở Anh ban hành “Quy tắc hành nghề cho các nhà cung
cấp nền tảng truyền thông xã hội trực tuyến” hay ở Australia cũng ra “Bộ Quy
tắc ứng xử trên truyền thông xã hội và bình luận trực tuyến”, điều này cho phép
các quốc gia này kiểm soát vấn đề ngôn luận trên nền tảng mạng xã hội, truyền
thông.
Không
chỉ mỗi quốc gia riêng biệt, Liên minh châu Âu (EU) cũng ban hành Bộ Quy tắc
ứng xử trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Twitter, Google, TikTok; cam
kết bảo đảm các công ty, tổ chức, cá nhân tiếp cận nhanh chóng, đánh dấu và gỡ
bỏ các phát ngôn thù địch cùng nội dung bất hợp pháp trên các nền tảng của họ.
Việc các nền tảng mạng xã hội chủ động tuân theo bộ quy tắc xuất phát từ việc
EU sẽ trực tiếp giám sát hoạt động này. Báo cáo mới nhất của EU đánh giá kết
quả thực thi của Bộ Quy tắc năm 2020 đã ghi nhận 71% nội dung xác nhận là phát
ngôn thù địch bất hợp pháp đã bị gỡ bỏ, tăng so với con số 26% của năm 2016.
Tự
do ngôn luận là một trong các quyền cơ bản của con người, tuy nhiên quyền này
không thể đặt ngoài khuôn khổ pháp luật. Điều 19 Công ước về các quyền dân sự
và chính trị năm 1966 chỉ rõ: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải
chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp
luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an
ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Điều 19,
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 xác định mọi người đều có quyền
tự do quan niệm, tự do phát biểu quan điểm, tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tin
tức, ý kiến bằng phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. Đồng
thời, Điều 29 Tuyên ngôn cũng bắt buộc mọi người phải tuân thủ những hạn chế do
luật định nhằm bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng quyền của người khác, đáp ứng
các đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung trong một
xã hội dân chủ.
Theo
đó, luật pháp quốc tế khẳng định quyền tự do ngôn luận không phải là tự do vô
hạn, bất tuân pháp luật; trong một số trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh, ở các
quốc gia tự do ngôn luận bị giới hạn. Từ thực tế trên cho thấy, không thể có tự
do ngôn luận tuyệt đối trong bất cứ chế độ chính trị nào, các quốc gia đề cao
tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung; những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận
mà gây hại đến tổ chức, cá nhân, lợi ích quốc gia - dân tộc đều bị xử lý.
Ở
Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người,
trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013
khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định”. Để quyền tự do ngôn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn
diện, các luật, văn bản dưới luật về tự do ngôn luận đã cụ thể hóa Hiến pháp,
ngày càng được hoàn thiện để vừa bảo đảm quyền của công dân, vừa giúp quyền đó
thực hiện trên cơ sở luật pháp. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin
năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự
do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Nghiêm cấm những hành vi đăng tải, phát tán thông
tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang
mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm
dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của
cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin
và Truyền thông có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên
mạng xã hội quy định cho tổ chức, cá nhân khi tham gia mạng xã hội có những ứng
xử phù hợp.
Để
lành mạnh hóa môi trường mạng xã hội, góp phần thúc đẩy, bảo đảm tự do ngôn
luận của các tổ chức, cá nhân, điều cần thiết là mỗi người dân cần nhận thức
đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, nêu cao ý thức trách nhiệm khi ứng xử trên
mạng xã hội, đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh, phản
bác các âm mưu, thủ đoạn sai trái về tự do ngôn luận ở Việt Nam.
NGĂN CHẶN SỰ XÂM LĂNG VĂN HÓA ĐỂ GÓP PHẦN BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Cách đây 10 năm, Nghị
quyết số 28/NQ-TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: “Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải đi đôi với việc kiên quyết ngăn chặn
sự xâm lăng văn hóa, xâm nhập các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai và thông
tin độc hại”.
Vì vậy, có thể khẳng
định rằng, chủ động bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, kiên quyết ngăn chặn,
phòng, chống xâm lăng văn hóa cũng là một trong những giải pháp căn cơ để bảo
vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Âm mưu
thâm độc, hệ lụy khôn lường
Toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện trên mọi lĩnh
vực, trong đó có văn hóa. Mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác nhằm tiếp thu
có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân
loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý của nền văn
hóa Việt Nam.
Văn hóa là cội nguồn, là gốc rễ làm nên sức
mạnh nội sinh của dân tộc. Với âm mưu thâm độc làm suy yếu sức mạnh nội sinh,
thời gian qua, các thế lực thù địch tiến hành nhiều hoạt động xâm lăng văn hóa
vào nước ta. Đây là thủ đoạn tinh vi nhằm triệt tiêu tận gốc những giá trị cốt
lõi, nền tảng của dân tộc Việt Nam, từ đó truyền bá, tiêm nhiễm những sản phẩm
văn hóa xấu độc, lai căng, làm chuyển biến nhận thức, thay đổi hành vi, lối
sống của con người. Từ sự chuyển biến về văn hóa dần lan sang lĩnh vực chính
trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, phá hoại nền tảng tư tưởng của
Đảng, sự tồn vong của chế độ. Sự xâm lăng văn hóa tuy âm thầm nhưng có thể phá
hủy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Các thế lực
thù địch tiến hành xâm lăng văn hóa hướng đến các tầng lớp nhân dân, trước
hết là giới trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, dễ bị
tác động bởi các yếu tố mới lạ, khác biệt.
Trong thời đại thông
tin bùng nổ, các loại thông tin “bẩn” tràn lan cổ vũ, hô hào, kích động bạo
lực, đồi trụy, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc, đạo đức
xã hội, phẩm chất tốt đẹp của con người. Các kênh xâm lăng văn hóa rất đa dạng,
thông qua phát thanh, truyền hình, phim ảnh, xuất bản, quảng cáo... nhằm chiếm
thị trường văn hóa của Việt Nam. Bên cạnh các sản phẩm văn hóa xấu độc xâm
nhập, văn hóa ngoại lai cũng đang tràn vào nước ta một cách ồ ạt, khó kiểm
soát.
Trong hoạt động giải
trí, nhiều người bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước
ngoài như chụp ảnh quái đản, hút bóng cười, nuôi thú độc, hát cùng dao kéo...
Lĩnh vực điện ảnh, truyền hình có tình trạng phim nước ngoài chiếm thời lượng
phát sóng lớn, nhạc ngoại tràn lan ảnh hưởng đến thị hiếu của công chúng, sách
dịch lậu trôi nổi trên thị trường trái với thuần phong mỹ tục dân tộc, dễ làm
cho công chúng, nhất là người trẻ ngộ nhận, mất phương hướng thẩm mỹ tích cực,
thậm chí bị tiêm nhiễm những “virus văn hóa” độc hại mà không hay biết.
Đề cập đến hậu quả
của các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai xâm nhập vào nước ta, Chỉ thị số
46-CT/TW ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Chống sự xâm nhập
của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội” đã cảnh báo:
“Nhiều sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào nước ta bằng nhiều
con đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi
của một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ thanh thiếu niên; làm hủy hoại, xói
mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc”.
Không thờ
ơ với nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc từ gốc rễ
Nghị quyết số
28/NQ-TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải đi đôi với việc kiên quyết ngăn chặn sự
xâm lăng văn hóa, xâm nhập các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai và thông tin
độc hại”.
Điều đó thể hiện rất
rõ quan điểm của Đảng về vấn đề văn hóa là phải kết hợp giữa “xây” và “chống”;
“xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách nhằm giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
trong tình hình mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng từng khẳng định: “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Đại hội XIII nhấn mạnh
một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam”;
đồng thời “bảo vệ nền văn hóa, lợi ích quốc gia-dân tộc; kiên quyết đấu tranh,
loại bỏ các sản phẩm, thông tin xấu độc, các văn hóa phẩm ngoại lai, độc hại,
ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục”.
Để giữ gìn, bảo vệ,
phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, đồng thời đấu tranh
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động
văn hóa-nghệ thuật để xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân ta, cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau.
Một là, giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa.
Bảo đảm các hoạt động
văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị của Đảng, khắc phục tình trạng
buông lỏng sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trên lĩnh vực văn hóa. Các
cấp, các ngành, địa phương cần quan tâm chỉ đạo, giám sát nội dung tư tưởng
chính trị trong các hoạt động văn hóa, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu của các
thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động văn hóa hòng làm thay đổi hệ giá trị
văn hóa Việt Nam.
Cùng với đó, cần quản
lý chặt chẽ lĩnh vực hoạt động báo chí, truyền thông, xuất bản; chủ động ngăn
chặn, thanh lọc, không để các loại ấn phẩm, văn hóa phẩm độc hại từ nước ngoài,
thông tin xấu độc, xuyên tạc thẩm lậu vào Việt Nam.
Hai là,
nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của văn hóa và mối nguy
“xâm lăng văn hóa”.
Đã có lúc lĩnh vực
văn hóa chỉ được nhận thức đơn giản, phiến diện là bề nổi, là “cờ đèn kèn
trống”, mà không phải là nhu cầu thiết yếu của con người và là sức mạnh nội
sinh của sự phát triển bền vững. Do vậy, cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức
đúng đắn về lĩnh vực văn hóa, coi đó vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển kinh tế-xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh
tế, xã hội trong chiến lược phát triển đất nước. Đó là cơ sở để các cấp, các
ngành, các địa phương chú trọng quan tâm chăm lo phát triển lĩnh vực văn hóa
một cách thiết thực, hiệu quả.
Thông qua hệ thống
giáo dục quốc gia, các kênh thông tin để tuyên truyền, nâng cao ý thức trách
nhiệm của mọi công dân đối với mối nguy xâm lăng văn hóa trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay, từ đó nêu cao cảnh giác, nhận diện và kiên quyết đấu tranh
với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, hành vi phản cảm, trái thuần phong
mỹ tục, đi ngược lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Ba là, huy
động sức mạnh của hệ thống chính trị để bảo vệ những giá trị truyền thống tốt
đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc.
UNESCO đã cảnh báo cho cả thế giới, hễ
ở đâu phát triển kinh tế mà không quan tâm tới yếu tố văn hóa thì ở đó phát
triển không bền vững và những hệ lụy đặt ra cho xã hội lớn hơn nhiều so với
kinh tế. Mặc dù được cảnh báo từ lâu nhưng để vượt qua điều này không hề dễ
dàng, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc
rất dễ bị tổn thương.
Muốn giữ được gốc gác
cội nguồn dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam, ngoài trách nhiệm của ngành văn
hóa và những người làm công tác văn hóa, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực
của các cấp, các ngành và cả cộng đồng, xã hội. Vì văn hóa gắn liền với mỗi con
người, mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi địa phương và gắn liền với các hoạt động
chính trị, kinh tế, xã hội, do đó cả hệ thống chính trị phải cùng nêu cao trách
nhiệm trong việc tham gia giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa tốt
đẹp của dân tộc.
Bốn là,
tăng cường sức mạnh nội sinh, tạo “sức đề kháng” để phòng, chống xâm lăng văn
hóa.
“Sức đề kháng” văn
hóa là thứ vaccine để phòng, chống các loại “virus văn hóa” xấu độc.
Sức đề kháng mạnh sẽ là tấm khiên chắn vững vàng trước các luồng văn hóa “đen”,
thông tin “bẩn” xâm nhập vào nước ta. Ngược lại, sức đề kháng yếu kém sẽ là
điều kiện thuận lợi cho các loại “virus văn hóa” độc hại lây lan phát
triển, làm băng hoại các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Một trong những giải
pháp căn cơ trong phòng, chống xâm lăng văn hóa hiện nay là chúng ta phải quan
tâm xây dựng nền công nghiệp văn hóa, coi đây là một trong những lĩnh vực ưu
tiên trong quá trình hội nhập quốc tế. Việc chú trọng xây dựng công nghiệp văn
hóa không những góp phần mang lại nhiều sản phẩm văn hóa tốt đẹp, lành mạnh để
phục vụ, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trong
nước, mà thông qua xuất khẩu những sản phẩm văn hóa đặc trưng của dân tộc ra
thế giới, chúng ta còn thu được nhiều lợi ích kinh tế to lớn. Hơn thế, việc mở
rộng thị trường xuất khẩu văn hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh về văn hóa ra
nước ngoài còn góp phần khẳng định, nâng cao vị thế quốc gia, hình ảnh dân tộc
trên trường quốc tế.
Theo khuyến cáo của
UNESCO, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dù có mang lại nhiều tiện ích văn
minh cho cuộc sống con người và cộng đồng, song cũng dễ làm tâm hồn con người
trở nên xơ cứng, văn hóa các dân tộc trở nên đơn điệu, nghèo nàn, thậm chí có
nguy cơ lụi bại trước sự xâm lăng ngấm ngầm của nền công nghiệp văn hóa nghe
nhìn phương Tây đang “tung hoành” hầu như khắp nơi mọi chốn trên thế giới.
Do đó, điều cốt tử để
bảo tồn được bản sắc dân tộc là phải vừa chú trọng giữ gìn, vừa bồi đắp, nâng
tầm bản lĩnh văn hóa, trí tuệ dân tộc để có đủ khả năng nhận diện, lọc bỏ những
“virus văn hóa” lai căng độc hại đang hằng ngày, hằng giờ tác động, thẩm
thấu vào xã hội. Nói cách khác, để văn hóa dân tộc Việt Nam trường tồn và phát
triển thì vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay là đừng để bị cuốn theo những làn
sóng văn hóa nước ngoài mà thực chất là bị cuốn vào dòng xoáy xâm lăng văn hóa
hết sức tinh vi, nguy hại bởi các thế lực thù địch và những tư tưởng sô vanh,
bá quyền về văn hóa.
Với tư cách là lực
lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và
nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam phải là lực lượng tiên phong, xung kích,
mũi nhọn trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh lực văn hóa,
chủ động ngăn chặn các hiện tượng xâm lăng văn hóa từ sớm, từ xa, góp phần bảo
vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không gian văn hóa, non sông gấm vóc
của tổ tiên để lại, để dân tộc Việt Nam và nền văn hóa Việt Nam mãi trường tồn.
NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CÁC TÀ ĐẠO ĐỘI LỐT TÔN GIÁO HIỆN NAY
Sự xuất hiện những tà đạo đội lốt tôn giáo được lập ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, làm xáo trộn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở một bộ phận nhân dân. Hoạt động của các tà đạo đó đã vi phạm pháp luật, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội... Chính vì vậy, việc nhận diện, đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo là rất cần thiết.
Cảnh giác
với các tà đạo đội lốt tôn giáo
Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các
nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”. Theo Sách trắng “Tôn
giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” của Ban Tôn giáo Chính phủ; hiện nay, ở
nước ta có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn
54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự; có hàng nghìn nhóm
sinh hoạt tôn giáo tập trung (trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung
của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam). Đó là thực tiễn về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam mà tất cả các tổ
chức, quốc gia trên thế giới không thể phủ nhận.
Thời gian qua, về cơ
bản, tình hình tôn giáo, các tổ chức tôn giáo và đại bộ phận chức sắc hoạt động
đúng quy định pháp luật, ổn định, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do mặt trái của toàn cầu hóa và cơ chế thị trường,
âm mưu “chính trị hóa tôn giáo” của các thế lực thù địch đã làm cho đời sống
tôn giáo chịu tác động tiêu cực, tiềm ẩn nhiều nguy cơ; trong đó nổi lên những
vấn đề như: Lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Đảng và Nhà nước; vi phạm pháp
luật, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội; thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ; tổ chức hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã
hội...
Đặc biệt, sự xuất
hiện những tà đạo đội lốt tôn giáo như: Hội Thánh đức Chúa trời mẹ, đạo bà
Điền, đạo Dừa, Thanh Hải vô thượng sư, tà đạo Hà Mòn, Bà cô Dợ, Tin lành Đề ga,
tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình, đạo Ty, đạo Tiên Rồng, Pháp lý vô vi khoa
học huyền bí Phật pháp... được lập ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, làm xáo trộn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ
phận nhân dân. Những tà đạo này được truyền bá, phổ biến theo nhiều hình thức
truyền thông như trên internet, website, Facebook, Zalo, vlog, Twitter,
YouTube... thậm chí hình thành những “thị trường tâm linh”. Hoạt động của những
tà đạo đội lốt tôn giáo không ngừng gia tăng, với nhiều hình thức biến tướng
như: Hiện tượng xem bói online, livestream (phát sóng trực tiếp trên mạng xã
hội), dịch vụ tâm linh, du lịch tâm linh... Cá biệt, xuất hiện tà đạo lợi dụng
chiếm đoạt tài sản cá nhân, công ty, doanh nghiệp; lôi kéo trí thức, học sinh,
sinh viên tham gia bằng nhiều thủ đoạn gây ảnh hưởng tới tư tưởng, tâm lý các
tầng lớp nhân dân (trong đó có cán bộ, đảng viên). Chính vì vậy, việc nhận
diện, đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo là rất cần thiết trên cơ sở
khách quan, khoa học, cách mạng.
Đối chiếu quy định
hiện hành về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, các tà đạo
đội lốt tôn giáo kể trên không có giáo lý, giáo luật, cơ cấu tổ chức riêng. Mục
đích hoạt động chính là vụ lợi, trái pháp luật nên không đủ điều kiện để được cấp
đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Điển hình
là hoạt động của Hội Thánh đức Chúa trời mẹ tại một số địa phương thời gian vừa
qua như: Hà Nội, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc, Quảng Nam, Huế, TP Hồ Chí Minh... đã vi
phạm nghiêm trọng các điều cấm, quy định tại Ðiều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2016 với những nội dung như: Ép buộc, mua chuộc người khác; xâm phạm an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm
thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người
khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; lợi dụng hoạt động tín
ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi... Những gì Hội Thánh đức Chúa trời mẹ
tuyên truyền là hoàn toàn trái ngược với thuần phong mỹ tục cũng như những giá
trị chuẩn mực về đạo đức, văn hóa của người Việt; không được pháp luật Việt Nam
cho phép; hoạt động với các biến thể dị thường núp dưới nhiều danh nghĩa (nhất
là danh nghĩa từ thiện, mở các lớp hướng thiện); những kẻ cầm đầu hầu hết là những
người không bình thường, có quá khứ bất hảo (cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút...);
mục đích chính là vụ lợi.
Hay sự việc xảy ra
vào năm 2017, hàng trăm đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Điện Biên bị tà đạo Bà
cô Dợ mê muội, hoang tưởng, lôi kéo, dụ dỗ, lừa mị “chỉ cần đọc kinh cầu nguyện
sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn, thế giới sẽ công bằng hơn, mình không làm gì cũng
có ăn”, trong khi bản thân họ đều là những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Họ được dặn không nhận sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương,
từ chối chính quyền hỗ trợ làm nhà cho người nghèo. Nguy hại hơn, tà đạo này
còn kích động người dân gây mâu thuẫn trong chính gia đình, dòng họ, đả kích
các tôn giáo khác và gieo rắc tư tưởng thành lập cái gọi là “Nhà nước Mông”.
Từ hai tà đạo Hội
Thánh đức Chúa trời mẹ và Bà cô Dợ, thu thập thông tin và nhận diện có hàng
chục tà đạo đang hoạt động tại 3 khu vực có tính chiến lược, trọng yếu nhất về
quốc phòng, an ninh của đất nước là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; thấy nhiều
yếu tố tiêu cực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội; xâm hại đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đồng thời có biểu hiện của những âm mưu, thủ
đoạn chính trị phản động, những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam. Cụ
thể là:
Về chính trị, các tà
đạo lôi kéo người theo bằng những hoạt động chống lại quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và địa phương; nói xấu
chế độ, nói xấu cán bộ, có thái độ ngăn cản chính quyền triển khai xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới. Về kinh tế, các tà đạo
khuyên con người ta siêng năng cầu cúng, lễ vật càng lớn càng chứng tỏ ngoan
đạo, tốn kém tiền của, bỏ bê lao động sản xuất, ốm đau không đi viện mà chữa
trị bằng phù phép, nước lã, tàn hương... dẫn tới nhiều cái chết thương
tâm. Về văn hóa-xã hội, các tà đạo gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây
mất đoàn kết trong nội bộ gia đình, thôn xóm, giữa người theo và người không
theo, giữa “đạo lạ” này với “đạo lạ” khác. Thường xuyên tổ chức tụ tập đông
người, làm lễ tập thể vào đêm, múa hát, đốt lửa đọc kinh tập thể gây mất an
ninh nông thôn, vi phạm quy chế bảo vệ an ninh trật tự của khu dân cư. Hoạt
động của một số tà đạo ở địa bàn chiến lược, trọng điểm đã bị các thế lực thù
địch lợi dụng vào âm mưu chống phá cách mạng nước ta.
Kiên quyết
đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo
Rõ ràng, ổn định tình
hình tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào
thành công của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế-xã hội, đoàn kết
dân tộc và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Theo đó, công tác quản lý nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo và công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tôn giáo là
những nhiệm vụ quan trọng, vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nâng
cao đời sống tinh thần của người dân, vừa hạn chế sự chống phá của các thế lực
thù địch, góp phần tạo sự ổn định và phát triển bền vững đất nước.
Chúng ta cần tiếp tục
đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về quan điểm, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam; về thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, làm cho người
dân hiểu rõ đâu là chính đạo, đâu là tà đạo, tác hại của các tà đạo đối với đời
sống vật chất, tinh thần của người dân và toàn xã hội. Từ đó vận động cán bộ,
đảng viên và nhân dân tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống
hoạt động của các tà đạo.
Đối với các tà đạo đội lốt tôn giáo thì kiên quyết xử lý, xóa bỏ. Căn cứ vào Điều 5: “Các hành vi bị nghiêm cấm” trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 làm cơ sở giải quyết. Các cơ quan thông tấn, báo chí, các ngành, các địa phương cung cấp thông tin rộng rãi và làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nhận thức đúng, nâng cao tinh thần cảnh giác. Không nghe, không tin, không theo và tích cực tham gia đấu tranh trước luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, những lời xúi giục của nhóm người cầm đầu tà đạo, lợi dụng niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín, trục lợi bất chính, gây mất ổn định xã hội. Đối với những đối tượng chủ mưu, cầm đầu các tà đạo, các cơ quan chức năng phải xử lý kiên quyết, kịp thời, triệt để theo pháp luật; vạch trần bản chất và hành vi vi phạm pháp luật, làm mất ổn định chính trị, xã hội, chia rẽ giữa các dân tộc, tôn giáo, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để hoạt động tà đạo, mê tín dị đoan của số này trước quần chúng nhân dân. Kịp thời định hướng dư luận trước các vấn đề “nổi cộm”, nhất là các vấn đề liên quan đến tôn giáo, thu hút sự quan tâm sâu sắc của chức sắc, tín đồ tôn giáo. Đẩy mạnh đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nêu gương điển hình tiên tiến đối với các cá nhân, tổ chức tôn giáo thực hiện tốt phương hướng hoạt động “sống tốt đời, đẹp đạo”; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương.
Chúng ta cũng cần chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lôi kéo, thu hút người tham gia các hội nhóm tà đạo mới để triển khai những biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Đồng thời theo dõi, quản lý chặt chẽ mọi di biến động của các đối tượng theo tà đạo mới, nhất là các đối tượng từng bị bắt được tha về, hiện đang sinh sống tại địa phương, phòng ngừa họ tái hoạt động. Quản lý chặt chẽ các đối tượng cầm đầu nhóm ngoan cố, có khả năng và điều kiện tập hợp lực lượng để không có những hành vi quá khích, gây phức tạp tình hình an ninh trật tự. Chủ động phát hiện sớm các hoạt động có liên quan tới tà đạo, nhất là hoạt động móc nối với các đối tượng cơ hội chống đối chính trị, các tổ chức phản động ở trong và ngoài nước để ngăn chặn và giải quyết kịp thời, dứt điểm những phức tạp phát sinh ngay từ cơ sở, khi mới manh nha. Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm đối với số đối tượng theo tà đạo ngoan cố, có những hoạt động chống phá chính quyền. Song song với đó là tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo... kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh cho mọi người dân nhằm tạo “sức đề kháng”, “miễn dịch” mạnh mẽ trước hoạt động của các tà đạo.
MINH CHỨNG SINH ĐỘNG PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU BÔI NHỌ VIỆT NAM TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ
Đại hội đồng Liên hợp
quốc (LHQ) ngày 5/9/2023 đã tiến hành các phiên bế mạc Khóa họp lần thứ 77 và
khai mạc Khóa họp lần thứ 78. Với việc kết thúc Khoá 77 Đại hội đồng LHQ, Việt
Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Đại hội đồng từ tháng 9/2022
tới tháng 9/2023.
Qua đó, khẳng định vị
thế và uy tín của nước ta trong khu vực và trên trường quốc tế ngày càng được
nâng cao, đóng góp tích cực, trách nhiệm vào việc giữ gìn hòa bình, hợp tác
phát triển và tiến bộ trên thế giới. Nhìn lại trong quá trình thực hiện vai trò
Phó Chủ tịch Đại hội đồng, các thế lực thù địch, phản động không ngừng chĩa mũi
nhọn tấn công, tuyên truyền xuyên tạc chống phá Việt Nam, phủ nhận những thành
quả mà chúng ta đã đạt được, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Những luận
điệu bịa đặt cũ mòn
Với các sự kiện ngoại
giao quan trọng, nhất là khi Việt Nam trúng cử vào vị trí của các tổ chức thuộc
Đại hội đồng LHQ, các thế lực thù địch, phản động lập tức tổ chức những chiến
dịch chống phá cả trước, trong quá trình Việt Nam thực hiện nhiệm kỳ của mình.
Nghị sĩ cực đoan tại một số nước phương Tây, các tổ chức phản động lưu vong
người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong, ngoài nước bị
các thế lực thù địch mua chuộc, lợi dụng, số này thường núp bóng ngọn cờ dân
chủ, nhân quyền, chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại
Việt Nam. Một số tổ chức phi chính phủ quốc tế như Tổ chức Theo dõi nhân quyền
(HRW), Tổ chức Ân xá quốc tế (AI), Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF), Tổ
chức Ngôi nhà tự do (FH)... thường xuyên đưa ra các bài viết vu cáo, xuyên tạc
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và tự do dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.
Luận điệu này mục
đích gây bất lợi cho Việt Nam trong quá trình thực hiện nhiệm kỳ Phó Chủ tịch
Đại hội đồng LHQ, vu cáo rằng Việt Nam “đàn áp nhân quyền”, “vi phạm quyền tự
do, dân chủ” thì “không đủ tư cách” tham gia vào các tổ chức của LHQ. Đồng
thời, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng
chống phá ở trong, ngoài nước còn tìm cách kêu gọi cộng đồng quốc tế tẩy chay
những hoạt động mà Việt Nam đăng cai, gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị” đến các đoàn,
cơ quan ngoại giao nước ngoài yêu cầu can thiệp những vấn đề trong nước, gây
sức ép đối với chính quyền, triệt để thực hiện phương châm “quốc tế hóa các vấn
đề nội bộ”. Họ dựng lên các “vụ án nhân quyền”, “tiếng nói dân chủ”, “tù nhân
lương tâm”, xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại và quan hệ của
Việt Nam với các nước đối tác; phủ nhận thành tựu trong công tác đối ngoại, hạ
thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...
Với âm mưu chống phá
đến cùng, họ cố tình bôi nhọ, đổi trắng thay đen, cố tình không nhìn thấy sự
thật rằng: Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn
nhất quán chủ trương lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là động lực, là
mục tiêu cao nhất. Ở Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm theo
hiến pháp, pháp luật. Những năm qua, người dân Việt Nam đã và đang được thụ
hưởng ngày càng tốt hơn từ thành tựu phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực về
kinh tế, xã hội. Đảm bảo quyền con người luôn là ưu tiên cao nhất của Đảng và
Nhà nước ta, nhất là dành sự ưu tiên đối với những nhóm yếu thế, dễ bị tổn
thương.
Đương nhiên, trong
quá trình thực hiện, có những chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước chưa
được đảm bảo tại một số lĩnh vực, địa bàn; còn sự nhũng nhiễu, tiêu cực của một
bộ phận cán bộ công quyền, gây khó khăn, phiền hà cho người dân, gây thất thoát
tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân; đời sống đồng bào, nhất là
vùng sâu, vùng xa còn những khó khăn cả về vật chất và tinh thần… Những tồn
tại, hạn chế đó có các nguyên nhân khách quan, chủ quan và trong quá trình phát
triển, Đảng, Nhà nước ta luôn có các tổng kết, đánh giá, đưa ra các giải pháp
khắc phục để đảm bảo đời sống người dân ngày càng được tốt hơn.
Sự nguy hại của những
luận điệu xuyên tạc, bịa đặt là luôn tìm cách quy hiện tượng thành bản chất,
đánh đồng mọi hiện tượng tiêu cực thành bản chất của chế độ. Sự lặp đi lặp lại
các luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc này nhằm gây ra sự hoang mang, dao động, chia
rẽ từ bên trong, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ đối ngoại và vị thế, uy tín của
Việt Nam với các nước, khiến dư luận quốc tế hiểu sai lệch về Việt Nam.
Những
thành tựu góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
Sau 78 năm giành độc
lập, trong đó 37 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ chỗ là một quốc gia thuộc
địa, bị xâm lược và rồi bị chia cắt hai miền, Việt Nam đã giành và bảo vệ vững
chắc độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đạt được những
bước phát triển vượt bậc. Từ tình trạng chậm phát triển và bị tàn phá nặng nề
sau khi thoát khỏi chiến tranh năm 1975, Việt Nam đã trở thành quốc gia thu
nhập trung bình thấp từ năm 2010. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016-2019, Việt
Nam đứng trong tốp 10 nước có tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16
nền kinh tế mới nổi thành công nhất.
Là thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn thực hiện nghiêm túc và đầy đủ
các cam kết quốc tế về quyền con người, nỗ lực thúc đẩy quyền con người. Việt
Nam đã hoàn thành tốt vai trò thành viên một số cơ quan của tổ chức quốc tế
quan trọng như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ (hai nhiệm kỳ
2008-2009 và 2020-2021), thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ (hai nhiệm kỳ
2014-2016 và 2023-2025), thành viên Hội đồng chấp hành Tổ chức Y tế thế giới -
WHO (nhiệm kỳ 2016-2019), thành viên Hội đồng khai thác bưu chính của Liên minh
Bưu chính thế giới - UPU (nhiệm kỳ 2022-2025)...Việt Nam cũng đã hoàn thành Báo
cáo quốc gia theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 2 của Hội đồng
Nhân quyền LHQ và đang tiến hành những khuyến nghị cho UPR chu kỳ 3. Do vậy,
Việt Nam có đủ uy tín, sự minh bạch và kinh nghiệm để hoàn thành tốt vai trò
Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ nhiệm kỳ 2022-2023. Đây là một trong những minh
chứng thuyết phục bác bỏ luận điệu xuyên tạc về tình hình chính trị, kinh tế -
xã hội và nhân quyền ở Việt Nam thời gian qua.
Trong nhiệm kỳ vừa
qua, Việt Nam đã cùng một số nước đề xuất các sáng kiến, giải pháp trên nhiều
vấn đề lớn của LHQ như đề cao luật pháp quốc tế, đại dương và luật biển, an
ninh nguồn nước, trách nhiệm bảo vệ và phòng ngừa tội ác chống lại nhân loại,
tiếp cận công lý bình đẳng, chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao về phòng chống dịch
bệnh, bảo hiểm y tế toàn cầu, bệnh lao, cải tổ hoạt động của Đại hội đồng LHQ,
báo cáo của Tổng Thư ký LHQ về hoạt động của tổ chức, báo cáo của Tòa án Công
lý quốc tế (ICJ), báo cáo của Tòa án Hình sự quốc tế (ICC)…
Nổi bật là Việt Nam
đã chủ trì Đại hội đồng LHQ thảo luận và thông qua Nghị quyết yêu cầu Toà án
Công lý quốc tế (ICJ) đưa ra ý kiến tư vấn đối với vấn đề biến đổi khí hậu, các
nghị quyết về việc tổ chức phiên họp cấp cao về sẵn sàng phòng chống và ứng phó
với dịch bệnh, bao phủ bảo hiểm y tế toàn cầu, bệnh lao, thúc đẩy các nội dung
thảo luận tại Hội nghị của LHQ về nước… Sự tham gia chủ động và tích cực của ta
đều nhằm đóng góp một cách cụ thể, thực chất vào công việc chung và các ưu tiên
lớn của LHQ và cộng đồng quốc tế; đóng góp vào thúc đẩy hợp tác, đoàn kết quốc
tế và tăng cường chủ nghĩa đa phương để ứng phó hiệu quả trước các thành thức
toàn cầu nổi lên ngày càng gay gắt.
Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng đã hỗ trợ Chủ tịch Đại hội đồng điều hành suôn sẻ và hiệu quả các công
việc chung của LHQ, trong đó có các sự kiện lớn cấp cao và các phiên họp quan
trọng của Đại hội đồng cũng như trong điều phối và dẫn dắt quá trình thảo luận,
thương lượng xây dựng các văn kiện, tiến trình mang tính định hướng chiến lược
lâu dài của LHQ cho các năm tiếp theo. Việt Nam là nước được Chủ tịch Đại hội
đồng LHQ Khoá 77 tín nhiệm, giao chủ trì điều hành nhiều cuộc họp của Đại hội
đồng. Có thể nói, đất nước ta đã khẳng định được vị thế và chủ động có nhiều
đóng góp quan trọng tại các tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương. Việt Nam trở
thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu,
đồng thời tích cực tham gia giải quyết các vấn đề khu vực, toàn cầu thông qua
đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương.
Trong 46 năm là thành
viên của LHQ, Việt Nam đã gánh vác nhiều trọng trách lớn, có nhiều đóng góp
thực chất và hiệu quả cho tổ chức đa phương lớn nhất hành tinh. Với đường lối
đối ngoại đa phương đúng đắn, lấy LHQ là trọng tâm, Việt Nam - trên cương vị
mới, sẽ tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa cho những mục tiêu cao cả của LHQ, đó
là giải quyết xung đột, duy trì hòa bình, ổn định cho tất cả người dân trên thế
giới.
Sự kiện Việt Nam hoàn
thành nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ với nhiều đóng góp thiết thực cho
nhân loại một lần nữa khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế, đồng thời cho thấy sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với
những thành tựu và nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy bảo vệ quyền con
người trên tất cả các lĩnh vực. Đây là minh chứng sinh động, đầy sức thuyết
phục để phản bác những luận điệu xuyên tạc, cố tình phủ nhận những tiến bộ và
thành tựu kinh tế, xã hội, đối ngoại nước ta.
ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
Sự kiện Tổng thống
Hoa Kỳ Joe Biden có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 10 - 11/9
theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được báo chí trong nước và quốc
tế phản ánh đậm nét. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên ra Tuyên bố chung,
nâng cấp mối quan hệ Đối tác toàn diện lên Đối tác chiến lược toàn diện, vì hòa
bình, hợp tác và phát triển bền vững. Lợi dụng sự kiện này, các thế lực thù
địch, phản động tung ra những luận điệu đả phá, xuyên tạc mối quan hệ hợp tác,
ngoại giao giữa hai nước.
Chiêu trò
gian xảo
Xuyên tạc đường lối
đối ngoại, chính sách ngoại giao của nước ta là một trong những âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội. Các đối tượng vẽ
ra câu chuyện Việt Nam nâng cấp quan hệ vì trước những diễn biến phức tạp,
tranh chấp trên Biển Đông; họ dựng lên việc Việt Nam cần phải dựa vào Hoa Kỳ
mới thoát khỏi ảnh hưởng nước khác, mới phát triển được đất nước, bảo vệ được
lãnh thổ.
Trước chuyến thăm của
Tổng thống Joe Biden, các tổ chức phản động sống lưu vong, các hãng truyền
thông định kiến với Việt Nam ở hải ngoại phát tán nhiều bài viết với nội dung
xấu độc để kêu gọi Chính phủ Hoa Kỳ gây sức ép vấn đề dân chủ, nhân quyền với
Việt Nam; cho rằng quan hệ Việt – Mỹ sẽ không phát triển nếu dân chủ, nhân
quyền ở Việt Nam không được cải thiện, nếu còn chế độ cộng sản, “đảng cai trị”.
Sau khi nước ta nâng cấp quan hệ thì họ bôi nhọ mối quan hệ này “không thực
chất”, có những bài viết, bình luận miệt thị, cho rằng mối quan hệ chỉ “theo
chiều hướng tiêu cực”. Mặt khác, các thế lực thù địch còn tỏ vẻ “lo lắng”, bày
trò “tư vấn vạch hướng đi” cho Việt Nam để “mối quan hệ đi vào thực chất”!
Mục đích của các thế
lực thù địch nhằm xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam, trong đó xuyên
tạc mối quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ, Việt Nam với Trung Quốc và một số nước
khác. Các luận điệu xuyên tạc nhằm tìm cách cô lập, hạ thấp vị thế, uy tín Việt
Nam trên trường quốc tế; phá hoại mối quan hệ nước ta với các nước, chia rẽ
tinh thần đoàn kết, hợp tác, hữu nghị của Việt Nam với các nước. Đó là những âm
mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, cần phải nhận diện, đấu tranh.
Phát huy
truyền thống tự lực, tự cường, không ngừng mở rộng, hợp tác quốc tế
Từ khi Đảng, Nhà nước
ta ra đời cho đến nay, thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc trước
đây, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay khẳng định rõ, dân tộc ta luôn nhất
quán thực hiện phương châm lấy nội lực, tự lực cánh sinh là chính, là quyết
định, đồng thời coi trọng tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế. Dựa vào nước
này để chống lại nước kia hoàn toàn không có trong đường lối, chính sách và
thực tiễn đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Tinh thần tự lực, tự cường đã trở
thành truyền thống quý báu của dân tộc ta, là nhân tố quan trọng để đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hiện nay, xu thế hợp tác và
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng song tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường vẫn là yếu tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của dân tộc ta.
Đối với nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy cao nhất sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời
đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân
tộc...”.
Điều
4, Luật Quốc phòng năm 2018 nêu rõ, Việt Nam “thực hiện đối ngoại quốc phòng
phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội
nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng,
liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ
quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa
hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp
bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi; phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc
tế có liên quan mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên”.
Vì vậy, bên cạnh mở
rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và
là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát
huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực
hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Đối với vấn đề Biển
Đông, nước ta chủ trương thực hiện tốt phương châm: bốn không, bốn tránh; chín
K; bốn giữ vững. Bốn không gồm: không tham gia liên minh quân sự, không liên
kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự
hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực
hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bốn tránh: tránh xung đột,
tránh đối đầu, tránh bị cô lập về chính trị, tránh bị lệ thuộc về chính trị.
Chín K: kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu
khích, kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và không để xảy ra xung đột,
đụng độ, không nổ súng trước. Bốn giữ vững: giữ vững chủ quyền quốc gia; giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển; giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp
tác; giữ vững ổn định chính trị trong nước.
Đối với Trung Quốc,
ngày 18/1/1950 đã đi vào lịch sử quan hệ hai nước Việt Nam - Trung Quốc, một
mốc son quan trọng khi nước bạn là nước đầu tiên thiết lập ngoại giao với nước
ta. Trải qua những khó khăn trong lịch sử, hai Đảng và nhân dân hai nước đã kề
vai sát cánh, dành cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, quý báu, góp phần vào
thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở mỗi
nước.
Đến năm 2008, hai
nước thiết lập khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện. Nước ta và nước bạn đã
bàn và xây dựng thẳng thắn về những vấn đề còn chưa thống nhất giữa hai nước,
nhất trí giải quyết những bất đồng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau;
thông qua thương lượng, hòa bình, giải quyết các mâu thuẫn trên cơ sở luật pháp
quốc tế, trong đó có công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, không làm
phức tạp thêm tình hình, không mở rộng thêm tranh chấp, bất đồng. Tăng cường
hợp tác trên biển, hợp tác để khu vực biển Đông là khu vực hòa bình, hợp tác,
hữu nghị; lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến
lược và toàn cục…
Kiên trì thông qua
hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển; trên tinh
thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như
lịch sử, mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng. Hai nước tiếp tục củng cố
và phát triển quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung
Quốc theo phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần bốn tốt “láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Đối với Hoa Kỳ, Việt
Nam – Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ năm 1995 cách đây 28 năm. Hai nước thiết
lập và triển khai mối quan hệ Đối tác toàn diện năm 2013 với nhiều nỗ lực vun
đắp và xây dựng lòng tin, cùng hướng về phía trước, đến nay đã nâng cấp
lên Đối tác chiến lược toàn diện. Đặc biệt, 10 năm qua, lòng tin ngày càng củng
cố và tăng cường góp phần đưa quan hệ hai nước tiếp đà phát triển hiệu quả,
trên cả bình diện song phương, khu vực và quốc tế, phù hợp nguyện vọng của nhân
dân hai nước.
Nhiều năm qua, Hoa Kỳ
luôn là một trong những đối tác có đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với gần 1.150
dự án đang hoạt động, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 10,3 tỷ USD. Việt Nam đã vươn
lên vị trí đối tác thương mại lớn thứ 7 của Hoa Kỳ trên toàn thế giới, đầu tư
của các doanh nghiệp Việt Nam vào Hoa Kỳ ngày càng lớn mạnh.
Như vậy, thực tế sự
phát triển mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Hoa Kỳ là tất yếu
khách quan, xu thế chung của thời đại. Đồng thời, đã chứng minh đường lối,
chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây
tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác,
phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên
này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa
đặt.
Tống thống Joe Biden
khẳng định với báo chí quốc tế ngay sau cuộc hội đàm cấp cao vào chiều tối 10/9
rằng: “Ngày hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại chặng đường quan hệ giữa hai
nước, từ xung đột tới bình thường hóa và việc nâng cấp mối quan hệ đó lên tầm
cao mới sẽ là một động lực cho thịnh vượng và an ninh tại một trong những khu
vực quan trọng nhất trên thế giới”.
Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng nêu rõ: “Quan hệ đối tác đó tiếp tục dựa trên cơ sở tôn trọng đầy đủ
những nguyên tắc cơ bản định hướng cho quan hệ hai nước trong thời gian qua,
trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và thể chế
chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Chúng tôi cũng đã
nhấn mạnh rằng, sự hiểu biết lẫn nhau, hoàn cảnh của nhau, tôn trọng các lợi
ích chính đáng của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau luôn
có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam đánh giá cao và coi trọng khẳng định của Hoa Kỳ
ủng hộ một nước Việt Nam “mạnh, độc lập, tự cường và thịnh vượng””.