Thứ Ba, 31 tháng 10, 2023

ĐỒNG ĐỘI TÔI - NHỮNG THẦY GIÁO MẶC ÁO LÍNH

 Đã nhiều năm trôi qua, hình ảnh về những ngày tháng làm thầy giáo mặc áo lính vẫn hằn in trong ký ức tôi.

“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”! (Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy). Cha ông chúng ta đã luôn dạy con cháu phải biết tôn sư trọng đạo là vậy!.
Hôm nay, tôi nhớ về các đồng đội tôi. Họ là những giảng viên giảng dạy trong hệ thống các nhà trường quân đội những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bài giảng của họ là các kỹ thuật sử dụng hiệu quả những loại vũ khí để bảo vệ Tổ quốc. Học viên tốt nghiệp ra trường sẽ nhận nhiệm vụ chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu. Phải nói đây là những ngày tháng thật khó có điều kiện để thực hiện các hành động lãng mạn. Muốn mua một bó hoa tặng thầy dạy mình ư? Điều kiện sinh hoạt và chiến đấu không cho phép! Tất cả những kỷ niệm về người thầy của mình được các anh gói ghém chặt trong lòng.
Thời gian trong quân ngũ, tôi cũng từng làm giáo viên dạy bắn pháo nòng dài ở trường đào tạo hạ sĩ quan của Quân đoàn 1, năm 1974. Phân đội tôi đảm trách huấn luyện, giảng dạy cho 50 học viên, vừa từ các đơn vị chiến đấu được tuyển chọn về đây. Sau một năm học tập cùng nhau, các anh tốt nghiệp, trở về các sư đoàn quân chủ lực. Và ngay lập tức được tung vào trận đánh cuối cùng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 4 - 1975.
Chúng tôi, những giảng viên tương lai được đưa ra Sơn Tây, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội) tập huấn hai tháng. Do có thời gian làm pháo thủ số 1 pháo nòng dài 130mm nên tôi tiếp thu khá nhanh loại pháo tép này. Việc chủ yếu của tôi là tìm đọc tài liệu để khi giảng cho học viên sao cho dễ hiểu, dễ thao tác nhất.
Thế là tôi đã trở thành giáo viên! Một người giáo viên đặc biệt: Dạy cách sử dụng v.ũ kh.í!
Chúng tôi về tới Thanh Hóa thì học viên đã ùn ùn kéo đến. Tôi được phong quân hàm Trung sĩ và nhận chức giáo viên kiêm Trung đội trưởng ở một tiểu đoàn mới thành lập - Tiểu đoàn 5. Trung đội tôi phụ trách là trung đội pháo nòng dài 85mm. Biên chế của trung đội có 4 tiểu đội, tổng cộng 50 chiến sĩ là học viên và tôi là 51, trung đội không có biên chế trung đội phó. Mỗi học viên được trang bị 1 khẩu súng AK và 30 viên đạn, toàn trung đội có một khẩu pháo 85mm để làm giáo cụ trực quan. Thời gian học tập là 12 tháng với nhiều nội dung quân sự và chính trị khác nhau nhằm đào tạo lớp cán bộ cơ sở có trình độ chỉ huy phù hợp với yêu cầu phát triển mới của chiến trường: Tác chiến hiệp đồng binh chủng.
Tiểu đoàn 5 đóng quân ngay ở đầu làng, trên một quả đồi trồng bạch đàn, phía trước mặt nhìn xuống là một hồ sen rộng chừng vài hécta. Mùa sen trổ hoa, hương sen thơm ngan ngát lan tỏa khắp một vùng quê êm ả. Tiểu đoàn trưởng là Đại úy Nguyễn Đán, Chính trị viên tiểu đoàn là Thượng úy Lê Mậu. Tiểu đoàn chỉ có 2 đại đội: Đại đội Trinh sát và Đại đội Xạ kích. Tôi thuộc biên chế của Đại đội Xạ kích.
Đại đội trưởng Đại đội Xạ kích tên Bẩy quê Hà Tây. Anh Bẩy sau vài tháng huấn luyện thì được điều chuyển sang đơn vị khác. Thay anh Bẩy là anh Nam người Nghệ An, người nhỏ con, da đen, mắt lúc nào cũng mòng mọng nước.
Chính trị viên tên Ngữ người Hải Phòng trông cao ráo, phong nho nhưng hay nói ngọng chữ N - L và ngược lại. Anh Ngữ nói năng kín đáo đúng theo kiểu cán bộ chính trị. Anh có suy nghĩ của người trí thức cầm súng. Ở đơn vị, anh thân với tôi, hai anh em hay trao đổi công việc và tâm sự với nhau.
Đại đội phó tên Kê, quê huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, người thấp đậm và hay quan trọng hóa mọi việc. Anh hay bắt bẻ theo kiểu máy móc để chứng tỏ mình rất quan trọng, nhưng trong thâm tâm thì không có gì. Chỉ làm oai vậy thôi!.
Bốn trung đội trưởng gồm có Nhiên, Ngoạn quê Hải Dương, Thảo quê Vĩnh Phú và tôi quê Thanh Hóa. Chúng tôi làm việc, sinh hoạt trên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Nhiên là Chuẩn úy, Ngoạn là Thượng sĩ, hai anh cùng nhập ngũ một ngày với Đại đội phó Kê. Tôi và Thảo quân hàm Trung sĩ.
Chức vụ cao nhất của tôi trước đó là Đài trưởng Trinh sát, chỉ huy một nhóm 5 người luồn sâu sát địch để sửa bắn… Bây giờ nhiệm vụ đã khác, số quân gấp lên 10 lần, vì vậy nhiệm vụ chỉ huy cũng không đơn giản chút nào.
Quan điểm của tôi là “Quân lệnh như sơn”. Đó là điều bất di bất dịch, để bảo đảm chiến đấu và chiến thắng, chúng ta phải được tổ chức, có trên, có dưới, kỷ luật quân đội rất nghiêm minh, không ai có quyền vượt qua. Nhưng tôi luôn đối xử với chiến sĩ của mình bằng tất cả sự chân thành, bằng tình anh em thân thiết… Vì vậy luôn được anh em tin yêu, nể phục.
Trong trung đội, có người cũng mang cấp bậc Trung sĩ như tôi, phần lớn các anh đã trải qua trận mạc, một số đã có gia đình vợ con…, trừ một số ít anh em quê Thái Bình là mới qua huấn luyện tân binh, chưa kịp tham chiến. Tất cả đều là những nhân tố tích cực được lựa chọn gửi lên từ các đơn vị. Tôi đã từng nói với họ rằng: “Chúng ta đều là người lính như nhau, có điều đang được tổ chức phân công những nhiệm vụ khác nhau mà thôi. Về quyền lợi bổng lộc, tôi không hơn anh em chút nào, có khác chỉ là trách nhiệm của tôi nặng hơn các anh mà thôi!”.
Khóa huấn luyện hạ sĩ quan của chúng tôi kết thúc bằng một cuộc diễn tập bắn đạn thật ở chân núi Nưa (Thanh Hóa). Kết quả toàn trung đội hoàn thành mục tiêu, được xếp loại giỏi, mọi người ai cũng phấn khởi.
Rồi chúng tôi chia tay nhau mỗi người mỗi ngả để trở về các đơn vị chiến đấu, tham gia trực tiếp Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Một năm vừa trên cương vị cán bộ chỉ huy vừa là giáo viên, tuy ngắn ngủi nhưng đã giúp tôi bồi bổ thêm phong cách lãnh đạo, chỉ huy, giúp tôi vững vàng hơn trong những nhiệm vụ sau này.
Năm 1976, tôi xuất ngũ, về học tập tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội). Cho đến bây giờ, khi rời xa quân ngũ đã lâu, tôi vẫn giữ được mối liên hệ với một vài người trong số 50 chiến sĩ của tôi ngày đó. Hôm nay, trong số họ, nhiều người đã là cán bộ cao cấp trong quân đội. Còn tôi, vẫn là người chỉ huy năm nào: Giáo viên kiêm Trung đội trưởng của họ. Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi lại vui như Tết, hồ hởi ôn lại những ngày huấn luyện ở “lò” đào tạo hạ sĩ quan đầu tiên của quân đoàn./.
Báo QĐND

KHIÊM NHƯỜNG MỘT PHÂN, TÔN QUÝ VẠN PHẦN

 Có một số người khi được giao quản lý một nguồn lực nào đó của cơ quan, thay vì hiểu rằng bổn phận của mình là giúp cơ quan bảo quản, vận hành và khai thác tốt nguồn lực tài sản, thì họ lại “tự tung tự tác”, tự cho mình quyền hạn như là chủ nhân thực sự của nguồn tài sản đó. Thế nên, thay vì khiêm nhường làm việc với đúng chức trách được giao thì họ lại tỏ ra có “quyền sinh quyền sát”, thực hiện nhiệm vụ nhưng lại như “ban phát” quyền lợi, “gia ân” cho người khác. Và đương nhiên những người được lòng hay thân thiết với họ sẽ được ưu ái nhiều hơn, trong khi những người khác sẽ gặp không ít trở ngại mặc dù đó cũng là quyền được thụ hưởng chính đáng của họ.

Câu chuyện này nghe có vẻ rất vô lý, nhưng lại là sự thực hiện hữu ở không ít công sở và được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau.
Khi đến giao dịch ở một cơ quan nào đó, nhiều người không khỏi ngán ngẩm khi phải qua “cửa ải” đầu tiên là “ông” bảo vệ. Với nhiệm vụ “trấn giữ biên cương”, với tính chất đặc thù và phức tạp, bởi chỉ sơ sẩy một chút là có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, người bảo vệ phải kỹ lưỡng rà xét tất cả mọi người ra vào cơ quan mỗi ngày. Chuyện chẳng có gì đáng đưa ra bàn ở đây, nếu như bên cạnh những người bảo vệ có tâm, luôn “cần mẫn” thực hiện đầy đủ chức phận của mình với sự khiêm tốn, đúng mực, thì có những người nghĩ mình có quyền hành không giới hạn nên hạch sách tất cả mọi người, không chừa một ai, với một thái độ trịnh thượng, cửa quyền, thậm chí có lúc còn có biểu hiện thiếu văn hóa. Những người “không biết mình là ai” như vậy tuy chỉ là thiểu số, nhưng lại có ảnh hưởng không nhỏ tới không khí và tinh thần làm việc chung, vi phạm đạo đức công vụ, là những “con sâu làm rầu nồi canh” trong môi trường văn hóa công sở.
“Khiêm nhường một phân, tôn quý vạn phần”!
Nghịch lý là, trong khi đa số người đứng đầu cơ quan rất chuẩn mực, gần gũi, khiêm nhường, thì một vài thành viên có chức trách, nhiệm vụ khiêm tốn lại hay tự cho mình là quan trọng, có thái độ hách dịch vượt khỏi chức trách cho phép. Cổ nhân từng đúc kết: “Sông sâu tĩnh lặng, lúa chín cúi đầu”… Thực tế, tài giỏi là yếu tố khiến người khác nể nang nhưng khiêm nhường mới là đức tính khiến người ta trở nên cao quý. Khiêm nhường là cái gốc của “sức mạnh mềm”, vì thế, con người càng khiêm nhường bao nhiêu càng được trân quý bấy nhiêu.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là mẫu mực của đức khiêm nhường, đồng thời Người rất quan tâm giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên về đức khiêm nhường. Người phê bình thái độ của một số cán bộ “cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân”. Người căn dặn: “Cán bộ đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật... Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.
Học tập và làm theo đức tính khiêm nhường của Bác chính là xây dựng cho mình một bản lĩnh, trí tuệ, tình yêu thương với đồng nghiệp, đồng chí, với quần chúng, bạn bè; là đức khiêm tốn, sự cầu thị tiến bộ, ý chí quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là người “đầy tớ” trung thành và tận tụy của nhân dân. Mỗi một cá nhân trong một tập thể đều có vai trò như “một cánh én nhỏ” để “làm nên mùa xuân”, do đó, dù ở vị trí, cương vị nào cũng cần làm tròn bổn phận của mình với một thái độ gương mẫu, chính trực và khiêm nhường./.
Tạp chí Cộng sản

VẠCH TRẦN BẢN CHẤT CỦA TỔ CHỨC RISE


         Đầu năm 2020 một số thành viên cốt cán của tổ chức khủng bố “Việt Tân” công khai xin ra khỏi tổ chức để thành lập cái gọi là tổ chức RISE – đây có thể là một chiêu bài vỏ bọc của Việt Tân. Chúng đăng ký hoạt động dưới danh nghĩa tổ chức phi lợi nhuận tại Mỹ.

RISE quy tập toàn các đối tượng chống đối cực đoan như:

Angelia Trang Huỳnh (Huỳnh Phạm Phương Trang), sinh năm 1973, trú tại Mỹ – Ủy viên Trung ương “Việt Tân”, Giám đốc điều hành RISE;

Trinnitry Phạm Hồng Thuận, sinh năm 1988, quốc tịch Mỹ, Thuận được kết nạp vào “Việt Tân” năm 2007, tại buổi sinh hoạt của cộng đồng người Việt Nam tại Caliphornia năm 2007 Phạm Hồng Thuận đã đọc bản tuyên bố phản đối Việt Nam trở thành thành viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, ngoài ra Thuận còn nhiều lần tố cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

Nguyễn Mạng Hùng cựu phó ban Việt ngữ đài BBC, cộng tác viên đài VOA; Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ Trúc Hồ, phát ngôn đài SBTN), ngoài ra RISE còn móc nối, lôi kéo số đối tượng trốn truy nã như Thái Văn Dung, trú tại xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, (đối tượng có tiền án về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, hiện đang bị cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An ra Quyết định truy nã toàn quốc về tội “không chấp hành án”);  Lê Văn Sơn (đối tượng có tiền án về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, hiện đang bị cơ quan CSĐT Công an tỉnh thanh hóa ra Quyết định truy nã toàn quốc về tội “không chấp hành án”)… tham gia.

Về bản chất RISE được “Việt Tân” thành lập ra nhằm mục đích hoạt động chống Đảng, Nhà nước, ý đồ của chúng là sử dụng vỏ bọc của tổ chức phi chính phủ, “độc lập” với “Việt Tân”, lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân sinh”, “xã hội dân sự” để lồng ghép, lợi dụng các vấn đề môi trường, cuộc sống dân sinh của người dân để thực hiện các hành vi chống đối… nhằm thu hút sự chú ý của người dân, tuyển chọn, huấn luyện, đào tạo các đối tượng người Việt ở trong và ngoài nước, kích động biểu tình, bạo loạn, tiến tới tập hợp lực lượng thành lập tổ chức chính trị đối lập ở trong nước. RISE đã triển khai một số khóa huấn luyện, đào tạo trực tuyến về các kỹ năng về “xây dựng phong trào, đối phó rủi ro”, về “xã hội dân sự” với chủ đề “xây dựng chiến thuật hiệu quả cho phong trào” cho các đối tượng ở trong và ngoài nước, nhằm đẩy mạnh tập hợp lực lượng, tăng cường đưa người, phương tiện vào trong nước xây dựng lực lượng để triển khai các kế hoạch chống phá ở trong nước. Ngoài ra, RISE còn tổ chức các khóa tập huấn cho các cá nhân, nhóm người dưới vỏ bọc thực hiện các dự án, hoạt động có “ý nghĩa xã hội” nhằm tìm kiếm, lôi kéo, tuyển chọn “hạt nhân” , phục vụ cho mục đích, ý đồ chống phá Việt Nam và tìm kiếm các nguồn tài trợ. 

Trước thủ đoạn thâm độc của “Việt Tân” dưới vỏ bọc RISE mỗi người dân cần cảnh giác, không để bị móc nối, lôi kéo kích động; đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân, hỗ trợ cơ quan chức năng đấu tranh với âm mưu chống phá của RISE. Góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế – xã hội./.

BẢO VỆ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG


Văn hóa truyền thống là hồn cốt của dân tộc, được coi như giá trị thương hiệu, quyền lực mềm, vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam.

Tuy nhiên, lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, giao lưu, tiếp biến văn hóa của Đảng, Nhà nước, các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi phương thức, thủ đoạn chống phá văn hóa truyền thống, sử dụng không gian mạng để du nhập, cổ xúy cho văn hóa ngoại lai, độc hại. 

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, những tinh hoa, giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã được hun đúc, vun đắp và trở thành truyền thống quý báu, đó là: “Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Những giá trị văn hóa truyền thống này đã cố kết những người dân nước Việt thành một cộng đồng thống nhất trong mọi hoạt động sống, lao động, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

 Những năm gần đây, các thế lực thù địch ráo riết chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa truyền thống. Sự chống phá này đã tạo ra hệ lụy không hề nhỏ, là một thứ “giặc nội xâm” đã và đang làm băng hoại thuần phong mỹ tục, giá trị truyền thống của dân tộc. Xét về mục tiêu, nội dung và lực lượng tiến hành của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hóa bao gồm hai điểm chính, đan xen, hỗ trợ và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là:

Thứ nhất: Truyền bá, tiêm nhiễm các sản phẩm văn hóa ngoại lai có tính chất xấu độc, làm xói mòn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc để tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích những ham muốn vật chất của mỗi người dân; từng bước làm thay đổi các thang giá trị xã hội, đạo đức, lối sống, làm cho một bộ phận nhân dân nhận thức không đầy đủ về trách nhiệm cộng đồng; chạy theo lợi ích vật chất, chỉ biết đến “cái tôi” mà quên đạo nghĩa, quay lưng lại với truyền thống và những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Thứ hai: Từng bước phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa là tự do sáng tạo, không cần tính định hướng và xa rời chính trị; từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chúng vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển các lực lượng và phương tiện ở trong nước, tạo ra sự chống đối từ xã hội, từng bước làm cho nhân tố chống đối bên trong phát triển để tập hợp lực lượng phá ta từ bên trong nội bộ Đảng và xã hội ta. Đối tượng tác động mà chúng hướng tới là quần chúng nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ sinh ra trong thời bình, đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện nhân cách, dễ dàng chạy theo cái mới, bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, còn ít kinh nghiệm sống. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu trò thâm hiểm; đặc biệt là chiến thuật “tâm công” theo phương châm “mưa dầm thấm lâu” để đánh vào lòng người.

Về hình thức và thủ đoạn tiến hành: Trên nền tảng của mạng xã hội, các thế lực thù địch đã thành lập các website, nhiều chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Việt; lập hàng nghìn blog, trang Facebook, Twitter, YouTube, Zalo... để livestream, tung clip, đăng tải những nội dung xuyên tạc, bài xích; tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm trực tuyến hoặc qua tiếp xúc với các cá nhân, cơ quan trong nước. Các kênh phát thanh, truyền hình trên không gian mạng được chúng tạo giao diện như thật, mô phỏng theo các kênh chính thống của Đảng, Nhà nước nhằm lập lờ, lộn sòng đen trắng, nhào nặn trộn lẫn những thông tin đúng-sai, thật-giả, đưa thông tin giật gân, lấp lửng giật tít, “câu view” nhằm đánh trúng tâm lý tò mò của nhiều người, gây tâm lý bi quan, hoài nghi, hoang mang trong dư luận.

Trong tập hợp lực lượng, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị thường dùng nhiều thủ đoạn rất nham hiểm, thường qua 4 bước gồm: 1. Đồng cảm: Chúng đóng vai “một người lạ” để tiếp xúc với một bộ phận người dân, những người đã từng vi phạm pháp luật, rồi giả nhân, giả nghĩa, vờ đồng cảm, tự cho mình “đại diện” để nói lên tiếng nói cho họ, rồi kích động người dân đấu tranh với chính quyền để đòi công bằng. 2. Tôn vinh: Chúng vờ coi những người có tư tưởng bất mãn, chống đối ở lĩnh vực văn hóa là những người đúng đắn, cấp tiến, đại diện của nền văn hóa hiện đại, rồi tổ chức tọa đàm, livestream để tôn vinh hoặc trao những “giải thưởng”. 3. Dụ dỗ, mua chuộc: Sau khi vờ đồng cảm và tôn vinh, các thế lực thù địch sẽ tìm mọi cách để dụ dỗ, mua chuộc đối tượng mà chúng hướng tới. Sự dụ dỗ, mua chuộc được thực hiện bằng cả vật chất, tinh thần cũng như những viễn cảnh tốt đẹp do chúng tạo dựng lên. 4. Khống chế: Sau khi bị dụ dỗ, mua chuộc, những đối tượng này sẽ bị các phần tử phản động từng bước khống chế, nói và làm theo ý muốn của chúng.

Để góp phần đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn và luận điệu xuyên tạc, bài xích văn hóa truyền thống dân tộc trên không gian mạng, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về mục tiêu, định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện tốt biện pháp này, trước hết cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý của các cơ quan, tổ chức trên lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Cấp ủy, tổ chức đảng và tổ chức hành chính các cấp cần xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ các nguồn lực cho phát triển văn hóa, chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Hai là, thực hiện có hiệu quả các giải pháp công nghệ, giáo dục ý thức sử dụng và xử lý nghiêm các vi phạm trên không gian mạng. Phát triển và ứng dụng dịch vụ internet, không gian mạng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội ở Việt Nam là một xu thế tất yếu, mang lại nhiều giá trị đích thực. Song, những mặt trái, tiêu cực của không gian mạng cũng đặt ra yêu cầu và thách thức không nhỏ cho công tác quản lý; đòi hỏi cần đẩy mạnh thực hiện những giải pháp công nghệ như: Cung cấp thông tin chính thống; bảo vệ thông tin cá nhân; kỹ thuật dự báo, phân tích điều tra, ngăn chặn, bóc gỡ, khóa tài khoản của đối phương. Kiên quyết xử lý nghiêm minh, hiệu quả, có tính răn đe cao đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật khi tham gia mạng xã hội. Cấp ủy, tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động trên không gian mạng.

Ba là, chủ động hợp tác quốc tế, thường xuyên trao đổi, học tập kinh nghiệm quản lý mạng xã hội với các nước trên thế giới. Cơ quan chức năng cần chủ động hợp tác quốc tế, nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá trên mạng xã hội của các tài khoản, máy chủ ở nước ngoài để đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam trên mạng xã hội như: Phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá; kịp thời nhận diện những phương thức, thủ đoạn mới. Chủ động hợp tác, nắm bắt và yêu cầu các tập đoàn truyền thông như: Google, YouTube, Facebook, Twitter... cần tuân thủ pháp luật Việt Nam khi tham gia hoạt động trên đất nước ta. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các dịch vụ mạng xã hội để gỡ bỏ các clip, bài viết với nội dung xuyên tạc, bài xích văn hóa truyền thống Việt Nam trên không gian mạng. 

Văn hóa là sản phẩm của lịch sử và là phương thức tồn tại của một dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam luôn mang trong mình những yếu tố lịch sử, truyền thống, tâm lý gắn với các biểu tượng, phong tục, tập quán của một cộng đồng dân tộc. Nhận diện những luận điệu xuyên tạc, bài xích văn hóa truyền thống do các thế lực thù địch tiến hành trên không gian mạng là hết sức cần thiết, góp phần giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo ra sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, đất nước ta ngày càng phồn vinh. 

CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI QUY LUẬT PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ


         Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã khẳng định một chân lý: Đi theo con đường cách mạng XHCN và đi lên CNXH là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, phù hợp với khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã luận giải khoa học về sự thay thế của những hình thái KT-XH từ thấp đến cao là quá trình lịch sử-tự nhiên, là do vận động của những quy luật KT-XH khách quan. Với quan điểm duy vật biện chứng khoa học, các nhà kinh điển Mác-xít đã chỉ ra hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa tất yếu ra đời và thay thế hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa. Nó phải trải qua “một thời kỳ và hai giai đoạn”, đó là thời kỳ quá độ, giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển cao hơn và khác về chất so với hình thái KT-XH TBCN nên phải trải qua quá trình cải biến cách mạng lâu dài; không bao giờ tự phát hình thành mà thông qua vận động của các quy luật về KT-XH, con đường đấu tranh cách mạng để xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Hệ thống lý luận cơ bản đó của Chủ nghĩa Mác-Lênin là cách mạng, khoa học, được vận dụng thành công ở nước Nga từ năm 1917. CNXH từ lý luận trở thành hiện thực, từ một nước phát triển thành hệ thống chính trị thế giới đối lập với hệ thống TBCN trong hơn 7 thập niên.

Về thực tiễn, CNXH hiện thực ra đời đã thể hiện tính ưu việt hơn CNTB. Công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga, sau đó là Liên Xô có thời gian chưa dài, nhưng đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Sản lượng công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới; sản lượng điện đạt 440 tỷ kWh (gấp hơn 300 lần so với năm 1913; bằng 4 nước lớn là Anh, Pháp, Đức, Italy cộng lại); dầu mỏ đạt 353 triệu tấn, than 624 triệu tấn, thép 121 triệu tấn (vượt sản lượng của Mỹ). Có thể thấy, trong một thời gian ngắn, CNXH ra đời ở Liên Xô và nhiều nước XHCN tuy chưa hoàn thiện nhưng đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt, khác hẳn về chất so với CNTB.

Điều đó cho thấy, CNXH là một hiện thực, hoàn toàn không phải là “giấc mơ”, cũng chẳng phải là “ảo tưởng về một thiên đường” như các thế lực thù địch rêu rao! Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, chứ không phải do Chủ nghĩa Mác-Lênin hay lý tưởng về CNXH đã lỗi thời, lạc hậu.

Mặc dù CNTB đạt được những thành tựu to lớn nhưng chủ yếu đem lại lợi ích cho giai cấp tư sản mà không vì lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Những mâu thuẫn nội tại và đối kháng trong xã hội TBCN chỉ giải quyết bằng con đường tất yếu là cách mạng XHCN. Trong bối cảnh hiện nay, CNTB đã có những thích nghi, phát triển nhất định nhờ tận dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Các nước XHCN đang ở giai đoạn khó khăn tạm thời, song theo quy luật phát triển khách quan của lịch sử, CNTB sẽ bị xóa bỏ, chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH ưu việt hơn sẽ ra đời, tồn tại và phát triển.

Đối với cách mạng Việt Nam, những năm nửa đầu thế kỷ 20, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có 30 năm bôn ba ở nước ngoài, đến các nước tư bản phát triển, đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, xâm lược và đô hộ của chủ nghĩa thực dân và phong kiến. Người khẳng định, muốn giành lại được độc lập cho dân tộc thì phải tiến hành con đường cách mạng vô sản và xây dựng chế độ XHCN. Từ năm 1930, “Chánh cương vắn tắt” của Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thảo luận, thông qua đã xác định rõ đường lối của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Năm 1991, Đảng đã ban hành “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, trong đó chỉ ra 6 đặc trưng cơ bản của chế độ XHCN ở Việt Nam. Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển sáng tạo thành 8 đặc trưng của CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc trưng bao trùm là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hơn 90 năm được rèn giũa, tôi luyện, thử thách trong thực tiễn cách mạng sôi động, phong phú, Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị, có trí tuệ, có khả năng lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc lớn trong thế kỷ 20, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây) bị khủng hoảng, sụp đổ thì Đảng ta vẫn kiên định con đường đi lên CNXH, kiên trì đường lối đổi mới, giữ vững nguyên tắc “đổi mới nhưng không đổi màu”. Trải qua gần 40 năm tiến hành đổi mới, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta đã đạt được thành tựu rất to lớn, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đánh giá khái quát: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay... Tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.

Trong những chặng đường tới, Đảng ta đã có dự báo khoa học về 4 nguy cơ, những thách thức không nhỏ từ bên ngoài và ở trong nước đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với phương châm vượt qua thách thức, tận dụng những cơ hội, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam phát triển nhanh và bền vững hơn, Đảng ta đặt ra mốc: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN” là hoàn toàn có cơ sở khoa học đúng đắn và có tính khả thi.  

Với trí tuệ, khả năng và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng, được sự ủng hộ của nhân dân thì việc kiên định lựa chọn con đường đi lên CNXH cũng không ngoài mục đích nhân văn cao đẹp là tiếp nối truyền thống, xứng đáng với các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; đồng thời đáp ứng lòng mong đợi và phù hợp với khát vọng, mong muốn của gần 100 triệu người dân Việt Nam.

NÓI VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 

Đảng, Nhà nước tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do ngôn luận của công dân. Tuy nhiên, đối với việc sử dụng mạng xã hội để dàn dựng, xuyên tạc sự thật, tung tin sai trái, thất thiệt với ngôn ngữ, nội dung phản cảm, thô tục, xuyên tạc, xúc phạm danh dự, nhân phẩm đến các tổ chức, cá nhân, xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc thì phải chấn chỉnh, xử lý để răn đe người vi phạm và phòng ngừa chung.

Không chỉ riêng Việt Nam, mà nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều có các biện pháp khuyến khích công dân ứng xử có văn minh trên mạng xã hội, bảo đảm cho tự do ngôn luận đi theo chiều hướng tích cực, có lợi, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi khách quan. Việc xây dựng các quy định luật pháp về tự do ngôn luận của mỗi quốc gia đều căn cứ truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, những điều kiện, bối cảnh lịch sử cụ thể… Như tại Singapore, luật pháp quy định phạt đến 100.000 đôla Singapore hoặc phạt tù tới 3 năm với hành vi nói xấu, phỉ báng, vu khống trong sinh hoạt hằng ngày và trên mạng xã hội; nếu bị phát hiện đưa tin giả lên mạng xã hội, khi nhà chức trách yêu cầu cải chính mà không chấp hành, có thể sẽ bị phạt đến 20.000 đôla Singapore hoặc 12 tháng tù. Luật pháp nước này nghiêm cấm các hành vi đi ngược lợi ích và ổn định cộng đồng, làm tổn hại an ninh và an toàn cộng đồng, làm tổn hại sức khỏe, kích động sự hận thù giữa các nhóm xã hội, suy giảm niềm tin vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, làm tổn hại quan hệ giữa Singapore với các quốc gia khác

Ngay như ở một số nước tư bản phát triển, quyền tự do ngôn luận không thể bất tuân pháp luật. Như ở Mỹ, Tối cao pháp viện nước này đã khẳng định, tự do ngôn luận không có nghĩa là có quyền bịa chuyện vu khống, phỉ báng cá nhân; giới hạn về tự do ngôn luận thể hiện qua án lệ của tòa án, cho phép chính quyền có quyền ngăn chặn, trừng phạt phát ngôn có tính khiêu dâm, phỉ báng, tục tĩu, xúc phạm, gây hấn. Ở Pháp, pháp luật cũng quy định những giới hạn, có các chế tài nghiêm khắc đối với hành vi lạm dụng tự do ngôn luận xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, đồng thời chống lại việc vu khống, bôi nhọ, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, kích động bạo lực, gây hận thù. Bộ luật Dân sự của Pháp cấm xâm phạm đời tư cá nhân; Luật Hình sự nước này cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia; Luật Tự do báo chí điều chỉnh hành vi tổ chức, cá nhân trên mạng internet. Ở Anh ban hành “Quy tắc hành nghề cho các nhà cung cấp nền tảng truyền thông xã hội trực tuyến” hay ở Australia cũng ra “Bộ Quy tắc ứng xử trên truyền thông xã hội và bình luận trực tuyến”, điều này cho phép các quốc gia này kiểm soát vấn đề ngôn luận trên nền tảng mạng xã hội, truyền thông.

 Không chỉ mỗi quốc gia riêng biệt, Liên minh châu Âu (EU) cũng ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Twitter, Google, TikTok; cam kết bảo đảm các công ty, tổ chức, cá nhân tiếp cận nhanh chóng, đánh dấu và gỡ bỏ các phát ngôn thù địch cùng nội dung bất hợp pháp trên các nền tảng của họ. Việc các nền tảng mạng xã hội chủ động tuân theo bộ quy tắc xuất phát từ việc EU sẽ trực tiếp giám sát hoạt động này. Báo cáo mới nhất của EU đánh giá kết quả thực thi của Bộ Quy tắc năm 2020 đã ghi nhận 71% nội dung xác nhận là phát ngôn thù địch bất hợp pháp đã bị gỡ bỏ, tăng so với con số 26% của năm 2016.

Tự do ngôn luận là một trong các quyền cơ bản của con người, tuy nhiên quyền này không thể đặt ngoài khuôn khổ pháp luật. Điều 19 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 chỉ rõ: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 xác định mọi người đều có quyền tự do quan niệm, tự do phát biểu quan điểm, tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tin tức, ý kiến bằng phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. Đồng thời, Điều 29 Tuyên ngôn cũng bắt buộc mọi người phải tuân thủ những hạn chế do luật định nhằm bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng quyền của người khác, đáp ứng các đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.

Theo đó, luật pháp quốc tế khẳng định quyền tự do ngôn luận không phải là tự do vô hạn, bất tuân pháp luật; trong một số trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh, ở các quốc gia tự do ngôn luận bị giới hạn. Từ thực tế trên cho thấy, không thể có tự do ngôn luận tuyệt đối trong bất cứ chế độ chính trị nào, các quốc gia đề cao tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung; những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận mà gây hại đến tổ chức, cá nhân, lợi ích quốc gia - dân tộc đều bị xử lý.

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Để quyền tự do ngôn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn diện, các luật, văn bản dưới luật về tự do ngôn luận đã cụ thể hóa Hiến pháp, ngày càng được hoàn thiện để vừa bảo đảm quyền của công dân, vừa giúp quyền đó thực hiện trên cơ sở luật pháp. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Nghiêm cấm những hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội quy định cho tổ chức, cá nhân khi tham gia mạng xã hội có những ứng xử phù hợp.

Để lành mạnh hóa môi trường mạng xã hội, góp phần thúc đẩy, bảo đảm tự do ngôn luận của các tổ chức, cá nhân, điều cần thiết là mỗi người dân cần nhận thức đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, nêu cao ý thức trách nhiệm khi ứng xử trên mạng xã hội, đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh, phản bác các âm mưu, thủ đoạn sai trái về tự do ngôn luận ở Việt Nam.

NGĂN CHẶN SỰ XÂM LĂNG VĂN HÓA ĐỂ GÓP PHẦN BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 

Cách đây 10 năm, Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải đi đôi với việc kiên quyết ngăn chặn sự xâm lăng văn hóa, xâm nhập các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai và thông tin độc hại”.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, chủ động bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, kiên quyết ngăn chặn, phòng, chống xâm lăng văn hóa cũng là một trong những giải pháp căn cơ để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Âm mưu thâm độc, hệ lụy khôn lường

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác nhằm tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý của nền văn hóa Việt Nam.

 Văn hóa là cội nguồn, là gốc rễ làm nên sức mạnh nội sinh của dân tộc. Với âm mưu thâm độc làm suy yếu sức mạnh nội sinh, thời gian qua, các thế lực thù địch tiến hành nhiều hoạt động xâm lăng văn hóa vào nước ta. Đây là thủ đoạn tinh vi nhằm triệt tiêu tận gốc những giá trị cốt lõi, nền tảng của dân tộc Việt Nam, từ đó truyền bá, tiêm nhiễm những sản phẩm văn hóa xấu độc, lai căng, làm chuyển biến nhận thức, thay đổi hành vi, lối sống của con người. Từ sự chuyển biến về văn hóa dần lan sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Sự xâm lăng văn hóa tuy âm thầm nhưng có thể phá hủy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Các thế lực thù địch tiến hành xâm lăng văn hóa hướng đến các tầng lớp nhân dân, trước hết là giới trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, dễ bị tác động bởi các yếu tố mới lạ, khác biệt.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, các loại thông tin “bẩn” tràn lan cổ vũ, hô hào, kích động bạo lực, đồi trụy, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, phẩm chất tốt đẹp của con người. Các kênh xâm lăng văn hóa rất đa dạng, thông qua phát thanh, truyền hình, phim ảnh, xuất bản, quảng cáo... nhằm chiếm thị trường văn hóa của Việt Nam. Bên cạnh các sản phẩm văn hóa xấu độc xâm nhập, văn hóa ngoại lai cũng đang tràn vào nước ta một cách ồ ạt, khó kiểm soát.

Trong hoạt động giải trí, nhiều người bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài như chụp ảnh quái đản, hút bóng cười, nuôi thú độc, hát cùng dao kéo... Lĩnh vực điện ảnh, truyền hình có tình trạng phim nước ngoài chiếm thời lượng phát sóng lớn, nhạc ngoại tràn lan ảnh hưởng đến thị hiếu của công chúng, sách dịch lậu trôi nổi trên thị trường trái với thuần phong mỹ tục dân tộc, dễ làm cho công chúng, nhất là người trẻ ngộ nhận, mất phương hướng thẩm mỹ tích cực, thậm chí bị tiêm nhiễm những “virus văn hóa” độc hại mà không hay biết.

Đề cập đến hậu quả của các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai xâm nhập vào nước ta, Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội” đã cảnh báo: “Nhiều sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ thanh thiếu niên; làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc”.

Không thờ ơ với nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc từ gốc rễ

Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải đi đôi với việc kiên quyết ngăn chặn sự xâm lăng văn hóa, xâm nhập các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai và thông tin độc hại”.

Điều đó thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng về vấn đề văn hóa là phải kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhằm giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Đại hội XIII nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam”; đồng thời “bảo vệ nền văn hóa, lợi ích quốc gia-dân tộc; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin xấu độc, các văn hóa phẩm ngoại lai, độc hại, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục”.

Để giữ gìn, bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, đồng thời đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động văn hóa-nghệ thuật để xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau.

Một là, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa.

Bảo đảm các hoạt động văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị của Đảng, khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trên lĩnh vực văn hóa. Các cấp, các ngành, địa phương cần quan tâm chỉ đạo, giám sát nội dung tư tưởng chính trị trong các hoạt động văn hóa, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động văn hóa hòng làm thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam.

Cùng với đó, cần quản lý chặt chẽ lĩnh vực hoạt động báo chí, truyền thông, xuất bản; chủ động ngăn chặn, thanh lọc, không để các loại ấn phẩm, văn hóa phẩm độc hại từ nước ngoài, thông tin xấu độc, xuyên tạc thẩm lậu vào Việt Nam.

Hai là, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của văn hóa và mối nguy “xâm lăng văn hóa”.

Đã có lúc lĩnh vực văn hóa chỉ được nhận thức đơn giản, phiến diện là bề nổi, là “cờ đèn kèn trống”, mà không phải là nhu cầu thiết yếu của con người và là sức mạnh nội sinh của sự phát triển bền vững. Do vậy, cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức đúng đắn về lĩnh vực văn hóa, coi đó vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế-xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội trong chiến lược phát triển đất nước. Đó là cơ sở để các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng quan tâm chăm lo phát triển lĩnh vực văn hóa một cách thiết thực, hiệu quả.

Thông qua hệ thống giáo dục quốc gia, các kênh thông tin để tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi công dân đối với mối nguy xâm lăng văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, từ đó nêu cao cảnh giác, nhận diện và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, hành vi phản cảm, trái thuần phong mỹ tục, đi ngược lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Ba là, huy động sức mạnh của hệ thống chính trị để bảo vệ những giá trị truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc.

UNESCO đã cảnh báo cho cả thế giới, hễ ở đâu phát triển kinh tế mà không quan tâm tới yếu tố văn hóa thì ở đó phát triển không bền vững và những hệ lụy đặt ra cho xã hội lớn hơn nhiều so với kinh tế. Mặc dù được cảnh báo từ lâu nhưng để vượt qua điều này không hề dễ dàng, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc rất dễ bị tổn thương.

Muốn giữ được gốc gác cội nguồn dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam, ngoài trách nhiệm của ngành văn hóa và những người làm công tác văn hóa, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành và cả cộng đồng, xã hội. Vì văn hóa gắn liền với mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi địa phương và gắn liền với các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, do đó cả hệ thống chính trị phải cùng nêu cao trách nhiệm trong việc tham gia giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Bốn là, tăng cường sức mạnh nội sinh, tạo “sức đề kháng” để phòng, chống xâm lăng văn hóa.

“Sức đề kháng” văn hóa là thứ vaccine để phòng, chống các loại “virus văn hóa” xấu độc. Sức đề kháng mạnh sẽ là tấm khiên chắn vững vàng trước các luồng văn hóa “đen”, thông tin “bẩn” xâm nhập vào nước ta. Ngược lại, sức đề kháng yếu kém sẽ là điều kiện thuận lợi cho các loại “virus văn hóa” độc hại lây lan phát triển, làm băng hoại các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Một trong những giải pháp căn cơ trong phòng, chống xâm lăng văn hóa hiện nay là chúng ta phải quan tâm xây dựng nền công nghiệp văn hóa, coi đây là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong quá trình hội nhập quốc tế. Việc chú trọng xây dựng công nghiệp văn hóa không những góp phần mang lại nhiều sản phẩm văn hóa tốt đẹp, lành mạnh để phục vụ, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trong nước, mà thông qua xuất khẩu những sản phẩm văn hóa đặc trưng của dân tộc ra thế giới, chúng ta còn thu được nhiều lợi ích kinh tế to lớn. Hơn thế, việc mở rộng thị trường xuất khẩu văn hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh về văn hóa ra nước ngoài còn góp phần khẳng định, nâng cao vị thế quốc gia, hình ảnh dân tộc trên trường quốc tế.

Theo khuyến cáo của UNESCO, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dù có mang lại nhiều tiện ích văn minh cho cuộc sống con người và cộng đồng, song cũng dễ làm tâm hồn con người trở nên xơ cứng, văn hóa các dân tộc trở nên đơn điệu, nghèo nàn, thậm chí có nguy cơ lụi bại trước sự xâm lăng ngấm ngầm của nền công nghiệp văn hóa nghe nhìn phương Tây đang “tung hoành” hầu như khắp nơi mọi chốn trên thế giới.

Do đó, điều cốt tử để bảo tồn được bản sắc dân tộc là phải vừa chú trọng giữ gìn, vừa bồi đắp, nâng tầm bản lĩnh văn hóa, trí tuệ dân tộc để có đủ khả năng nhận diện, lọc bỏ những “virus văn hóa” lai căng độc hại đang hằng ngày, hằng giờ tác động, thẩm thấu vào xã hội. Nói cách khác, để văn hóa dân tộc Việt Nam trường tồn và phát triển thì vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay là đừng để bị cuốn theo những làn sóng văn hóa nước ngoài mà thực chất là bị cuốn vào dòng xoáy xâm lăng văn hóa hết sức tinh vi, nguy hại bởi các thế lực thù địch và những tư tưởng sô vanh, bá quyền về văn hóa.

Với tư cách là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam phải là lực lượng tiên phong, xung kích, mũi nhọn trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh lực văn hóa, chủ động ngăn chặn các hiện tượng xâm lăng văn hóa từ sớm, từ xa, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không gian văn hóa, non sông gấm vóc của tổ tiên để lại, để dân tộc Việt Nam và nền văn hóa Việt Nam mãi trường tồn.

 

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CÁC TÀ ĐẠO ĐỘI LỐT TÔN GIÁO HIỆN NAY

 

        Sự xuất hiện những tà đạo đội lốt tôn giáo được lập ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, làm xáo trộn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở một bộ phận nhân dân. Hoạt động của các tà đạo đó đã vi phạm pháp luật, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội... Chính vì vậy, việc nhận diện, đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo là rất cần thiết.

Cảnh giác với các tà đạo đội lốt tôn giáo

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”. Theo Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” của Ban Tôn giáo Chính phủ; hiện nay, ở nước ta có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự; có hàng nghìn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung (trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam). Đó là thực tiễn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam mà tất cả các tổ chức, quốc gia trên thế giới không thể phủ nhận.

Thời gian qua, về cơ bản, tình hình tôn giáo, các tổ chức tôn giáo và đại bộ phận chức sắc hoạt động đúng quy định pháp luật, ổn định, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do mặt trái của toàn cầu hóa và cơ chế thị trường, âm mưu “chính trị hóa tôn giáo” của các thế lực thù địch đã làm cho đời sống tôn giáo chịu tác động tiêu cực, tiềm ẩn nhiều nguy cơ; trong đó nổi lên những vấn đề như: Lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Đảng và Nhà nước; vi phạm pháp luật, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ; tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội...

Đặc biệt, sự xuất hiện những tà đạo đội lốt tôn giáo như: Hội Thánh đức Chúa trời mẹ, đạo bà Điền, đạo Dừa, Thanh Hải vô thượng sư, tà đạo Hà Mòn, Bà cô Dợ, Tin lành Đề ga, tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình, đạo Ty, đạo Tiên Rồng, Pháp lý vô vi khoa học huyền bí Phật pháp... được lập ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, làm xáo trộn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận nhân dân. Những tà đạo này được truyền bá, phổ biến theo nhiều hình thức truyền thông như trên internet, website, Facebook, Zalo, vlog, Twitter, YouTube... thậm chí hình thành những “thị trường tâm linh”. Hoạt động của những tà đạo đội lốt tôn giáo không ngừng gia tăng, với nhiều hình thức biến tướng như: Hiện tượng xem bói online, livestream (phát sóng trực tiếp trên mạng xã hội), dịch vụ tâm linh, du lịch tâm linh... Cá biệt, xuất hiện tà đạo lợi dụng chiếm đoạt tài sản cá nhân, công ty, doanh nghiệp; lôi kéo trí thức, học sinh, sinh viên tham gia bằng nhiều thủ đoạn gây ảnh hưởng tới tư tưởng, tâm lý các tầng lớp nhân dân (trong đó có cán bộ, đảng viên). Chính vì vậy, việc nhận diện, đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo là rất cần thiết trên cơ sở khách quan, khoa học, cách mạng.

Đối chiếu quy định hiện hành về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, các tà đạo đội lốt tôn giáo kể trên không có giáo lý, giáo luật, cơ cấu tổ chức riêng. Mục đích hoạt động chính là vụ lợi, trái pháp luật nên không đủ điều kiện để được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Điển hình là hoạt động của Hội Thánh đức Chúa trời mẹ tại một số địa phương thời gian vừa qua như: Hà Nội, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc, Quảng Nam, Huế, TP Hồ Chí Minh... đã vi phạm nghiêm trọng các điều cấm, quy định tại Ðiều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 với những nội dung như: Ép buộc, mua chuộc người khác; xâm phạm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi... Những gì Hội Thánh đức Chúa trời mẹ tuyên truyền là hoàn toàn trái ngược với thuần phong mỹ tục cũng như những giá trị chuẩn mực về đạo đức, văn hóa của người Việt; không được pháp luật Việt Nam cho phép; hoạt động với các biến thể dị thường núp dưới nhiều danh nghĩa (nhất là danh nghĩa từ thiện, mở các lớp hướng thiện); những kẻ cầm đầu hầu hết là những người không bình thường, có quá khứ bất hảo (cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút...); mục đích chính là vụ lợi.

Hay sự việc xảy ra vào năm 2017, hàng trăm đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Điện Biên bị tà đạo Bà cô Dợ mê muội, hoang tưởng, lôi kéo, dụ dỗ, lừa mị “chỉ cần đọc kinh cầu nguyện sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn, thế giới sẽ công bằng hơn, mình không làm gì cũng có ăn”, trong khi bản thân họ đều là những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Họ được dặn không nhận sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, từ chối chính quyền hỗ trợ làm nhà cho người nghèo. Nguy hại hơn, tà đạo này còn kích động người dân gây mâu thuẫn trong chính gia đình, dòng họ, đả kích các tôn giáo khác và gieo rắc tư tưởng thành lập cái gọi là “Nhà nước Mông”.

Từ hai tà đạo Hội Thánh đức Chúa trời mẹ và Bà cô Dợ, thu thập thông tin và nhận diện có hàng chục tà đạo đang hoạt động tại 3 khu vực có tính chiến lược, trọng yếu nhất về quốc phòng, an ninh của đất nước là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; thấy nhiều yếu tố tiêu cực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; xâm hại đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đồng thời có biểu hiện của những âm mưu, thủ đoạn chính trị phản động, những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam. Cụ thể là:

Về chính trị, các tà đạo lôi kéo người theo bằng những hoạt động chống lại quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và địa phương; nói xấu chế độ, nói xấu cán bộ, có thái độ ngăn cản chính quyền triển khai xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới. Về kinh tế, các tà đạo khuyên con người ta siêng năng cầu cúng, lễ vật càng lớn càng chứng tỏ ngoan đạo, tốn kém tiền của, bỏ bê lao động sản xuất, ốm đau không đi viện mà chữa trị bằng phù phép, nước lã, tàn hương... dẫn tới nhiều cái chết thương tâm. Về văn hóa-xã hội, các tà đạo gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây mất đoàn kết trong nội bộ gia đình, thôn xóm, giữa người theo và người không theo, giữa “đạo lạ” này với “đạo lạ” khác. Thường xuyên tổ chức tụ tập đông người, làm lễ tập thể vào đêm, múa hát, đốt lửa đọc kinh tập thể gây mất an ninh nông thôn, vi phạm quy chế bảo vệ an ninh trật tự của khu dân cư. Hoạt động của một số tà đạo ở địa bàn chiến lược, trọng điểm đã bị các thế lực thù địch lợi dụng vào âm mưu chống phá cách mạng nước ta.

Kiên quyết đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo

Rõ ràng, ổn định tình hình tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế-xã hội, đoàn kết dân tộc và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Theo đó, công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tôn giáo là những nhiệm vụ quan trọng, vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nâng cao đời sống tinh thần của người dân, vừa hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch, góp phần tạo sự ổn định và phát triển bền vững đất nước.

Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; về thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, làm cho người dân hiểu rõ đâu là chính đạo, đâu là tà đạo, tác hại của các tà đạo đối với đời sống vật chất, tinh thần của người dân và toàn xã hội. Từ đó vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động của các tà đạo.

Đối với các tà đạo đội lốt tôn giáo thì kiên quyết xử lý, xóa bỏ. Căn cứ vào Điều 5: “Các hành vi bị nghiêm cấm” trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 làm cơ sở giải quyết. Các cơ quan thông tấn, báo chí, các ngành, các địa phương cung cấp thông tin rộng rãi và làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nhận thức đúng, nâng cao tinh thần cảnh giác. Không nghe, không tin, không theo và tích cực tham gia đấu tranh trước luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, những lời xúi giục của nhóm người cầm đầu tà đạo, lợi dụng niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín, trục lợi bất chính, gây mất ổn định xã hội. Đối với những đối tượng chủ mưu, cầm đầu các tà đạo, các cơ quan chức năng phải xử lý kiên quyết, kịp thời, triệt để theo pháp luật; vạch trần bản chất và hành vi vi phạm pháp luật, làm mất ổn định chính trị, xã hội, chia rẽ giữa các dân tộc, tôn giáo, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để hoạt động tà đạo, mê tín dị đoan của số này trước quần chúng nhân dân. Kịp thời định hướng dư luận trước các vấn đề “nổi cộm”, nhất là các vấn đề liên quan đến tôn giáo, thu hút sự quan tâm sâu sắc của chức sắc, tín đồ tôn giáo. Đẩy mạnh đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nêu gương điển hình tiên tiến đối với các cá nhân, tổ chức tôn giáo thực hiện tốt phương hướng hoạt động “sống tốt đời, đẹp đạo”; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương.

Chúng ta cũng cần chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lôi kéo, thu hút người tham gia các hội nhóm tà đạo mới để triển khai những biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Đồng thời theo dõi, quản lý chặt chẽ mọi di biến động của các đối tượng theo tà đạo mới, nhất là các đối tượng từng bị bắt được tha về, hiện đang sinh sống tại địa phương, phòng ngừa họ tái hoạt động. Quản lý chặt chẽ các đối tượng cầm đầu nhóm ngoan cố, có khả năng và điều kiện tập hợp lực lượng để không có những hành vi quá khích, gây phức tạp tình hình an ninh trật tự. Chủ động phát hiện sớm các hoạt động có liên quan tới tà đạo, nhất là hoạt động móc nối với các đối tượng cơ hội chống đối chính trị, các tổ chức phản động ở trong và ngoài nước để ngăn chặn và giải quyết kịp thời, dứt điểm những phức tạp phát sinh ngay từ cơ sở, khi mới manh nha. Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm đối với số đối tượng theo tà đạo ngoan cố, có những hoạt động chống phá chính quyền. Song song với đó là tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo... kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh cho mọi người dân nhằm tạo “sức đề kháng”, “miễn dịch” mạnh mẽ trước hoạt động của các tà đạo. 

MINH CHỨNG SINH ĐỘNG PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU BÔI NHỌ VIỆT NAM TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ

 

Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) ngày 5/9/2023 đã tiến hành các phiên bế mạc Khóa họp lần thứ 77 và khai mạc Khóa họp lần thứ 78. Với việc kết thúc Khoá 77 Đại hội đồng LHQ, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Đại hội đồng từ tháng 9/2022 tới tháng 9/2023.

Qua đó, khẳng định vị thế và uy tín của nước ta trong khu vực và trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực, trách nhiệm vào việc giữ gìn hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Nhìn lại trong quá trình thực hiện vai trò Phó Chủ tịch Đại hội đồng, các thế lực thù địch, phản động không ngừng chĩa mũi nhọn tấn công, tuyên truyền xuyên tạc chống phá Việt Nam, phủ nhận những thành quả mà chúng ta đã đạt được, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Những luận điệu bịa đặt cũ mòn

Với các sự kiện ngoại giao quan trọng, nhất là khi Việt Nam trúng cử vào vị trí của các tổ chức thuộc Đại hội đồng LHQ, các thế lực thù địch, phản động lập tức tổ chức những chiến dịch chống phá cả trước, trong quá trình Việt Nam thực hiện nhiệm kỳ của mình. Nghị sĩ cực đoan tại một số nước phương Tây, các tổ chức phản động lưu vong người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong, ngoài nước bị các thế lực thù địch mua chuộc, lợi dụng, số này thường núp bóng ngọn cờ dân chủ, nhân quyền, chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Một số tổ chức phi chính phủ quốc tế như Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá quốc tế (AI), Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF), Tổ chức Ngôi nhà tự do (FH)... thường xuyên đưa ra các bài viết vu cáo, xuyên tạc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và tự do dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

Luận điệu này mục đích gây bất lợi cho Việt Nam trong quá trình thực hiện nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ, vu cáo rằng Việt Nam “đàn áp nhân quyền”, “vi phạm quyền tự do, dân chủ” thì “không đủ tư cách” tham gia vào các tổ chức của LHQ. Đồng thời, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống phá ở trong, ngoài nước còn tìm cách kêu gọi cộng đồng quốc tế tẩy chay những hoạt động mà Việt Nam đăng cai, gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị” đến các đoàn, cơ quan ngoại giao nước ngoài yêu cầu can thiệp những vấn đề trong nước, gây sức ép đối với chính quyền, triệt để thực hiện phương châm “quốc tế hóa các vấn đề nội bộ”. Họ dựng lên các “vụ án nhân quyền”, “tiếng nói dân chủ”, “tù nhân lương tâm”, xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại và quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác; phủ nhận thành tựu trong công tác đối ngoại, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...

Với âm mưu chống phá đến cùng, họ cố tình bôi nhọ, đổi trắng thay đen, cố tình không nhìn thấy sự thật rằng: Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là động lực, là mục tiêu cao nhất. Ở Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm theo hiến pháp, pháp luật. Những năm qua, người dân Việt Nam đã và đang được thụ hưởng ngày càng tốt hơn từ thành tựu phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực về kinh tế, xã hội. Đảm bảo quyền con người luôn là ưu tiên cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, nhất là dành sự ưu tiên đối với những nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương.

Đương nhiên, trong quá trình thực hiện, có những chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước chưa được đảm bảo tại một số lĩnh vực, địa bàn; còn sự nhũng nhiễu, tiêu cực của một bộ phận cán bộ công quyền, gây khó khăn, phiền hà cho người dân, gây thất thoát tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân; đời sống đồng bào, nhất là vùng sâu, vùng xa còn những khó khăn cả về vật chất và tinh thần… Những tồn tại, hạn chế đó có các nguyên nhân khách quan, chủ quan và trong quá trình phát triển, Đảng, Nhà nước ta luôn có các tổng kết, đánh giá, đưa ra các giải pháp khắc phục để đảm bảo đời sống người dân ngày càng được tốt hơn.

Sự nguy hại của những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt là luôn tìm cách quy hiện tượng thành bản chất, đánh đồng mọi hiện tượng tiêu cực thành bản chất của chế độ. Sự lặp đi lặp lại các luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc này nhằm gây ra sự hoang mang, dao động, chia rẽ từ bên trong, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ đối ngoại và vị thế, uy tín của Việt Nam với các nước, khiến dư luận quốc tế hiểu sai lệch về Việt Nam.

Những thành tựu góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế

Sau 78 năm giành độc lập, trong đó 37 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ chỗ là một quốc gia thuộc địa, bị xâm lược và rồi bị chia cắt hai miền, Việt Nam đã giành và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đạt được những bước phát triển vượt bậc. Từ tình trạng chậm phát triển và bị tàn phá nặng nề sau khi thoát khỏi chiến tranh năm 1975, Việt Nam đã trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp từ năm 2010. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016-2019, Việt Nam đứng trong tốp 10 nước có tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất.

Là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người, nỗ lực thúc đẩy quyền con người. Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò thành viên một số cơ quan của tổ chức quốc tế quan trọng như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ (hai nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021), thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ (hai nhiệm kỳ 2014-2016 và 2023-2025), thành viên Hội đồng chấp hành Tổ chức Y tế thế giới - WHO (nhiệm kỳ 2016-2019), thành viên Hội đồng khai thác bưu chính của Liên minh Bưu chính thế giới - UPU (nhiệm kỳ 2022-2025)...Việt Nam cũng đã hoàn thành Báo cáo quốc gia theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 2 của Hội đồng Nhân quyền LHQ và đang tiến hành những khuyến nghị cho UPR chu kỳ 3. Do vậy, Việt Nam có đủ uy tín, sự minh bạch và kinh nghiệm để hoàn thành tốt vai trò Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ nhiệm kỳ 2022-2023. Đây là một trong những minh chứng thuyết phục bác bỏ luận điệu xuyên tạc về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội và nhân quyền ở Việt Nam thời gian qua.

Trong nhiệm kỳ vừa qua, Việt Nam đã cùng một số nước đề xuất các sáng kiến, giải pháp trên nhiều vấn đề lớn của LHQ như đề cao luật pháp quốc tế, đại dương và luật biển, an ninh nguồn nước, trách nhiệm bảo vệ và phòng ngừa tội ác chống lại nhân loại, tiếp cận công lý bình đẳng, chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao về phòng chống dịch bệnh, bảo hiểm y tế toàn cầu, bệnh lao, cải tổ hoạt động của Đại hội đồng LHQ, báo cáo của Tổng Thư ký LHQ về hoạt động của tổ chức, báo cáo của Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), báo cáo của Tòa án Hình sự quốc tế (ICC)…

Nổi bật là Việt Nam đã chủ trì Đại hội đồng LHQ thảo luận và thông qua Nghị quyết yêu cầu Toà án Công lý quốc tế (ICJ) đưa ra ý kiến tư vấn đối với vấn đề biến đổi khí hậu, các nghị quyết về việc tổ chức phiên họp cấp cao về sẵn sàng phòng chống và ứng phó với dịch bệnh, bao phủ bảo hiểm y tế toàn cầu, bệnh lao, thúc đẩy các nội dung thảo luận tại Hội nghị của LHQ về nước… Sự tham gia chủ động và tích cực của ta đều nhằm đóng góp một cách cụ thể, thực chất vào công việc chung và các ưu tiên lớn của LHQ và cộng đồng quốc tế; đóng góp vào thúc đẩy hợp tác, đoàn kết quốc tế và tăng cường chủ nghĩa đa phương để ứng phó hiệu quả trước các thành thức toàn cầu nổi lên ngày càng gay gắt.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã hỗ trợ Chủ tịch Đại hội đồng điều hành suôn sẻ và hiệu quả các công việc chung của LHQ, trong đó có các sự kiện lớn cấp cao và các phiên họp quan trọng của Đại hội đồng cũng như trong điều phối và dẫn dắt quá trình thảo luận, thương lượng xây dựng các văn kiện, tiến trình mang tính định hướng chiến lược lâu dài của LHQ cho các năm tiếp theo. Việt Nam là nước được Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Khoá 77 tín nhiệm, giao chủ trì điều hành nhiều cuộc họp của Đại hội đồng. Có thể nói, đất nước ta đã khẳng định được vị thế và chủ động có nhiều đóng góp quan trọng tại các tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương. Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, đồng thời tích cực tham gia giải quyết các vấn đề khu vực, toàn cầu thông qua đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương.

Trong 46 năm là thành viên của LHQ, Việt Nam đã gánh vác nhiều trọng trách lớn, có nhiều đóng góp thực chất và hiệu quả cho tổ chức đa phương lớn nhất hành tinh. Với đường lối đối ngoại đa phương đúng đắn, lấy LHQ là trọng tâm, Việt Nam - trên cương vị mới, sẽ tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa cho những mục tiêu cao cả của LHQ, đó là giải quyết xung đột, duy trì hòa bình, ổn định cho tất cả người dân trên thế giới.

Sự kiện Việt Nam hoàn thành nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ với nhiều đóng góp thiết thực cho nhân loại một lần nữa khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời cho thấy sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu và nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy bảo vệ quyền con người trên tất cả các lĩnh vực. Đây là minh chứng sinh động, đầy sức thuyết phục để phản bác những luận điệu xuyên tạc, cố tình phủ nhận những tiến bộ và thành tựu kinh tế, xã hội, đối ngoại nước ta.

ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

 

Sự kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 10 - 11/9 theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được báo chí trong nước và quốc tế phản ánh đậm nét. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên ra Tuyên bố chung, nâng cấp mối quan hệ Đối tác toàn diện lên Đối tác chiến lược toàn diện, vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Lợi dụng sự kiện này, các thế lực thù địch, phản động tung ra những luận điệu đả phá, xuyên tạc mối quan hệ hợp tác, ngoại giao giữa hai nước.

Chiêu trò gian xảo

Xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của nước ta là một trong những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội. Các đối tượng vẽ ra câu chuyện Việt Nam nâng cấp quan hệ vì trước những diễn biến phức tạp, tranh chấp trên Biển Đông; họ dựng lên việc Việt Nam cần phải dựa vào Hoa Kỳ mới thoát khỏi ảnh hưởng nước khác, mới phát triển được đất nước, bảo vệ được lãnh thổ.

Trước chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden, các tổ chức phản động sống lưu vong, các hãng truyền thông định kiến với Việt Nam ở hải ngoại phát tán nhiều bài viết với nội dung xấu độc để kêu gọi Chính phủ Hoa Kỳ gây sức ép vấn đề dân chủ, nhân quyền với Việt Nam; cho rằng quan hệ Việt – Mỹ sẽ không phát triển nếu dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam không được cải thiện, nếu còn chế độ cộng sản, “đảng cai trị”. Sau khi nước ta nâng cấp quan hệ thì họ bôi nhọ mối quan hệ này “không thực chất”, có những bài viết, bình luận miệt thị, cho rằng mối quan hệ chỉ “theo chiều hướng tiêu cực”. Mặt khác, các thế lực thù địch còn tỏ vẻ “lo lắng”, bày trò “tư vấn vạch hướng đi” cho Việt Nam để “mối quan hệ đi vào thực chất”!

Mục đích của các thế lực thù địch nhằm xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam, trong đó xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ, Việt Nam với Trung Quốc và một số nước khác. Các luận điệu xuyên tạc nhằm tìm cách cô lập, hạ thấp vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế; phá hoại mối quan hệ nước ta với các nước, chia rẽ tinh thần đoàn kết, hợp tác, hữu nghị của Việt Nam với các nước. Đó là những âm mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, cần phải nhận diện, đấu tranh.

Phát huy truyền thống tự lực, tự cường, không ngừng mở rộng, hợp tác quốc tế

Từ khi Đảng, Nhà nước ta ra đời cho đến nay, thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc trước đây, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay khẳng định rõ, dân tộc ta luôn nhất quán thực hiện phương châm lấy nội lực, tự lực cánh sinh là chính, là quyết định, đồng thời coi trọng tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế. Dựa vào nước này để chống lại nước kia hoàn toàn không có trong đường lối, chính sách và thực tiễn đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Tinh thần tự lực, tự cường đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta, là nhân tố quan trọng để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hiện nay, xu thế hợp tác và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng song tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường vẫn là yếu tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của dân tộc ta.

Đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc...”.

Điều 4, Luật Quốc phòng năm 2018 nêu rõ, Việt Nam “thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên”.

Vì vậy, bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Đối với vấn đề Biển Đông, nước ta chủ trương thực hiện tốt phương châm: bốn không, bốn tránh; chín K; bốn giữ vững. Bốn không gồm: không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bốn tránh: tránh xung đột, tránh đối đầu, tránh bị cô lập về chính trị, tránh bị lệ thuộc về chính trị. Chín K: kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và không để xảy ra xung đột, đụng độ, không nổ súng trước. Bốn giữ vững: giữ vững chủ quyền quốc gia; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển; giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp tác; giữ vững ổn định chính trị trong nước.

Đối với Trung Quốc, ngày 18/1/1950 đã đi vào lịch sử quan hệ hai nước Việt Nam - Trung Quốc, một mốc son quan trọng khi nước bạn là nước đầu tiên thiết lập ngoại giao với nước ta. Trải qua những khó khăn trong lịch sử, hai Đảng và nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, dành cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, quý báu, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở mỗi nước.

Đến năm 2008, hai nước thiết lập khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện. Nước ta và nước bạn đã bàn và xây dựng thẳng thắn về những vấn đề còn chưa thống nhất giữa hai nước, nhất trí giải quyết những bất đồng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; thông qua thương lượng, hòa bình, giải quyết các mâu thuẫn trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, không làm phức tạp thêm tình hình, không mở rộng thêm tranh chấp, bất đồng. Tăng cường hợp tác trên biển, hợp tác để khu vực biển Đông là khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị; lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục…

Kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển; trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử, mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng. Hai nước tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc theo phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần bốn tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Đối với Hoa Kỳ, Việt Nam – Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ năm 1995 cách đây 28 năm. Hai nước thiết lập và triển khai mối quan hệ Đối tác toàn diện năm 2013 với nhiều nỗ lực vun đắp và xây dựng lòng tin, cùng hướng về phía trước, đến  nay đã nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện. Đặc biệt, 10 năm qua, lòng tin ngày càng củng cố và tăng cường góp phần đưa quan hệ hai nước tiếp đà phát triển hiệu quả, trên cả bình diện song phương, khu vực và quốc tế, phù hợp nguyện vọng của nhân dân hai nước.

Nhiều năm qua, Hoa Kỳ luôn là một trong những đối tác có đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với gần 1.150 dự án đang hoạt động, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 10,3 tỷ USD. Việt Nam đã vươn lên vị trí đối tác thương mại lớn thứ 7 của Hoa Kỳ trên toàn thế giới, đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Hoa Kỳ ngày càng lớn mạnh.

Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Hoa Kỳ là tất yếu khách quan, xu thế chung của thời đại. Đồng thời, đã chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố  tình xuyên tạc, bịa đặt.

Tống thống Joe Biden khẳng định với báo chí quốc tế ngay sau cuộc hội đàm cấp cao vào chiều tối 10/9 rằng: “Ngày hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại chặng đường quan hệ giữa hai nước, từ xung đột tới bình thường hóa và việc nâng cấp mối quan hệ đó lên tầm cao mới sẽ là một động lực cho thịnh vượng và an ninh tại một trong những khu vực quan trọng nhất trên thế giới”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Quan hệ đối tác đó tiếp tục dựa trên cơ sở tôn trọng đầy đủ những nguyên tắc cơ bản định hướng cho quan hệ hai nước trong thời gian qua, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Chúng tôi cũng đã nhấn mạnh rằng, sự hiểu biết lẫn nhau, hoàn cảnh của nhau, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau luôn có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam đánh giá cao và coi trọng khẳng định của Hoa Kỳ ủng hộ một nước Việt Nam “mạnh, độc lập, tự cường và thịnh vượng””.