Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

Nhận diện nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ vấn đề cấp bách trong đấu tranh phòng chống diễn biến hòa bình

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang thực sự trở thành một trong những nguy cơ, thách thức hàng đầu đối với sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Nước ta. Vì vậy, nhận diện nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là yêu cầu mang tính cấp bách đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình” bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

“Diễn biến hòa bình” với tư cách là một chiến lược toàn cầu phản cách mạng do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành nhằm chống phá các nước chủ nghĩa xã hội, phong trào độc lập dân tộc và cách mạng tiến bộ trên thế giới. Được hình thành từ sau chiến tranh Thế giới lần thứ 2, phát triển khá hoàn chỉnh trong Thập kỷ 80 và được vận dụng thành công “Vượt ngoài mong đợi” tại Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong những năm gần đây, một số biến động dưới dạng “Diễn biến hoà bình” diễn ra ở một số quốc gia Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi với các tên gọi khác nhau như: “Cách mạng màu”, “Cách mạng hoa” hay “Mùa xuân Ả Rập”,… Ngoài “Diễn biến hoà bình” do bên thứ ba tác động, còn một phần quan trọng khác đó là "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” trong nội bộ, một dạng “Diễn biến hoà bình” cực kỳ nguy hiểm đối với các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc và cách mạng tiến bộ trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang thực sự trở thành một trong những nguy cơ thách thức đối với sự tồn vong của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài viết làm rõ một số dấu hiệu để nhận diện được nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần đấu tranh làm thất bại Chiến lược “Diến biến hòa bình”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay.

Vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không phải bây giờ mới có, cũng không phải chỉ có duy nhất ở Việt Nam, mà có ngay trong phong trào Cộng sản quốc tế ở các nước Xã hội chủ nghĩa từ trước. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa cơ hội đã xuất hiện trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế theo khuynh hướng tư tưởng đối lập như: phái Latxan, phái Công Liên, phái Blongxki, phái Bruđông,… Những phần tử thuộc các trường phái đó không những không đi theo mà còn công khai chống lại Học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội khoa học một cách quyết liệt. Đó là những người cộng sản đã bị thoái hóa, biến chất về chính trị - tư tưởng và trở thành những “Con chiên ngoan đạo” của “Chủ nghĩa cơ hội tả khuynh” hay “Hữu khuynh”.

Trong những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, “Chủ nghĩa xét lại” đã xuất hiện ở Liên Xô, một trào lưu tư tưởng đối lập, thù địch với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Những kẻ theo “Chủ nghĩa xét lại” đã công khai phê phán và đòi “xét lại Học thuyết Mác - Lênin”. Trong thời kỳ đó, ở Việt Nam cũng đã có một số cán bộ, đảng viên, trí thức đi theo “Chủ nghĩa xét lại”. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nước ta lại xuất hiện các đối tượng cơ hội chính trị mà thực chất đó là những cán bộ, đảng viên đã bị thoái hóa, biến chất và họ đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đặc biệt là hiện nay, khi mà kẻ thù đang thực hiện Chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, chúng luôn coi các yếu tố thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là điều kiện để thực thi có hiệu quả Chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.

“Diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. “diễn biến hòa bình” tạo ra các yếu tố thúc đy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, còn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hệ quả nảy sinh từ phương thức, thủ đoạn của “diễn biến hòa bình” và là điều kiện để “diễn biến hòa bình” diễn ra nhanh chóng hơn.

Trước hết, bằng việc thực thi Chiến lược “diễn biến hòa bình” kẻ thù đang tìm mọi cách làm cho đất nước ta từng bước suy yếu trên tất cả các phương diện, cùng với đó là những sai phạm của ta chậm được khắc phục như: suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, mất đoàn kết, thiếu dân chủ; sự tụt hậu xa hơn về kinh tế,… làm cho quần chúng bất bình, mất lòng tin vào Đảng và chính quyền, tạo ra mâu thuẫn gay gắt từ bên trong; kết hợp với các hoạt động chống phá, mua chuộc, lôi kéo bọn cơ hội chính trị của các thế lực phản động thù địch là những yếu tố tạo ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, dẫn tới những biến động về chính trị trong nước, đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sn, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta một cách từ từ, khó nhận biết và rất khó phòng chống.

“Tự diễn biến là tự biến đổi theo một chiều hướng nào đó”, còn “tự chuyển hóa là tự biến đổi từ dạng này sang dạng khác”. Đối với Việt Nam khi nói tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan điểm, lập trường chính trị - tư tưởng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hay trong một số tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội… “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường do sự tác động từ bên ngoài thông qua các hoạt động tuyên truyền thù địch, sự tác động từ những biến động tiêu cực của tình hình thế giới như: sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu hay gần đây là “Cách mạng màu”, “Cách mạng hoa”; Kết hợp với sự tác động từ bên trong bởi tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, sự phân hóa giàu nghèo,… dẫn tới sự bất mãn, bất bình nghiêm trọng trong xã hội. Nhưng trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường chính trị - tư tưởng không vững vàng, sự bất mãn hay do buông lỏng trong quản lý, giáo dục của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, Đoàn thể xã hội trong hệ thống chính trị của Nhà nước ta.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên nhiều phương diện, đó là nhận thức lệch lạc về chính trị - tư tưởng; sự sa đọa về phẩm chất đạo đức, lối sống… các biểu hiện suy thoái trên có quan hệ tương tác với nhau; từ sự suy thoái về chính trị - tư tưởng có thể dẫn tới sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống và sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống có thể dẫn đến sự thoái hóa về chính trị - tư tưởng. “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong toàn xã hội. Nhưng nguy hiểm nhất là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ lãnh đạo Đảng và cơ quan quyền lực Nhà nước. Thực tế cho thấy, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cuộc chính biến ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây đều bắt nguồn từ sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô và các nước Đông Âu.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể nảy sinh ở những cán bộ, đảng viênquần chúng và cũng có thể đến từ những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền ở các cấp. Nhưng đáng chú ý và nguy hiểm hơn là khi nó nảy sinh từ những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền; những cán bộ cấp cao có trọng trách trong việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt nguy hiểm là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở những cán bộ cấp cao giữ vai trò “Cầm lái con thuyền đất nước”. Sự sụp đ của Liên bang Xô Viết gắn liền với tên tuổi của Gorbachev, Enxin,… có thể nói đó là những đảng viên Cộng sản cấp cao “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và trở thành những kẻ phản bội lại Đảng Cộng sản Liên Xô, chế độ Xô Viết và phong trào Cộng sản trên toàn thế giới.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về nhận thức thì sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi hành vidẫn đến có các hành động chống đối về chính trị và các hoạt động chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa dưới nhiều hình thức của một cá nhân hay tổ chức, đi đôi với ca ngợi và tin theo các giá trị của chủ nghĩa tư bản. Đó là vấn đề có tính quy luật, cần phải hết sức cảnh giác, đề phòng và phải thấy được tính chất nguy hại của vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong một quá trình và thường biểu hiện qua những dấu hiệu cụ thể như: nói không đi đôi với làm và thậm chí còn làm ngược lại với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thể hiện thái độ hoang mang, dao động hoặc đồng tình ủng hộ các quan điểm và việc làm “sai trái”; gắn với các yêu sách bất hợp lí, đòi đa nguyên, đa đảng và đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của Nước ta; phủ nhận mọi thành tựu mà Đảng ta, nhân dân ta giành được trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; xuyên tạc sự thật, bịa đặt lịch sử và nói xấu chế độ không nhận công lao to lớn của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh; truyền bá quan điểm đối lập, tư tưởng thù địch, cổ súy văn hóa phương Tây nhằm phá hoại nội bộ ta cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thông qua các hành vi tập hợp bè phái, gây chia rẽ và làm mất đoàn kết nội bộ; kích động tư tưởng bất mãn, chống đối trong nội bộ các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các đoàn thể xã hội; tiến hành móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch bên ngoài, lôi kéo bọn chống đối bên trong chống lại Đảng, chính quyền Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, nỗ lực bảo vệ quan điểm, tư tưởng và hành động sai trái của các phần tử chống đối, thậm chí ca ngợi chúng như những nhân vật “Anh hùng” đấu tranh cho “Dân chủ”, “Nhân quyền”.

Nhận biết “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một con người không đơn giản là căn cứ vào một vài biểu hiện bề ngoài. Bởi vì, hiện tượng bề ngoài không phải lúc nào cũng phản ánh đúng bản chất bên trong, thực tế có những trường hợp vì bức xúc, bất bình về vấn đề gì đó mà nhất thời có những lời nói, hành động thể hiện thái độ bất mãn thì đã vội vã cho là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà cần làm rõ nguyên nhân, bản chất sự việc. Việc kết luận một trường hợp nào đó có vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần phải hết sức thận trọng, khách quan trên cơ sở phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các dấu hiệu và hành vi diễn ra trong một quá trình. Trong đó, mấu chốt của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự thay đổi quan điểm, lập trường chính trị - tư tưởng theo hướng đối lập, thù địch với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở nhận diện được nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và để phòng có hiệu quả đòi hỏi các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội và cả hệ thống chính trị cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp; áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với từng cán bộ, đảng viên và cơ quan, đơn vịNhận diện và phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một vấn đề hết sức cấp bách, cuộc đấu tranh vì sự tồn vong của Đảng, chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, đòi hỏi phải có quyết tâm cao, sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và bằng những biện pháp quyết liệt với tinh thần thái độ kiên quyết, không khoan nhượng thì mới đạt được kết quả như mong muốn, đặc biệt là trong tình hình hiện nay. 

Sưu tầm


Đấu tranh, phản bác quan điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta

Trước tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, Đảng ta và Nhà nước ta đã kiên quyết xử lý và bước đầu có kết quả nhất định được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị lại tỏ ra hằn học, tung ra các luận điệu sai trái hòng xuyên tạc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.

Chúng cho rằng, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là một “quốc nạn không có thuốc chữa” và nguyên nhân của tham nhũng bắt nguồn từ yếu tố “Đảng cầm quyền”. Vì vậy, “Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công được”. Chúng suy diễn rằng “việc xử lý các vụ tham nhũng vừa qua vẫn là “giơ cao đánh khẽ”, thực chất đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là trò “đấu đá nội bộ” hay “thanh trừng phe phái” lẫn nhau”. Đây là những luận điệu hết sức thâm độc nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước; giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta; gieo rắc tâm lý hoài nghi, dao động, làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững vàng, yếu kém về chính trị tư tưởng. Không những thế, chúng còn ngụy biện rằng, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là do chế độ “độc đảng” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực... Do đó, chúng ta cần hết sức tỉnh táo nhận diện những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, kịp thời đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, lệch lạc.

Trước hết, trong thời gian qua chúng ta đã huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Điều đó không chỉ nâng cao chất lượng tổ chức đảng, đảng viên mà còn góp phần rất quan trọng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Do vậy, các thế lực thù địch cho rằng “Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công được” là xuyên tạc thực tế ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, “phần lớn tham nhũng xảy ra ở các quốc gia có chế độ đa đảng, tam quyền phân lập”. Ở châu Á, tình trạng tham nhũng tuy không nhiều nhưng vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp. Do đó, việc thế lực thù địch khẳng định tham nhũng chỉ xảy ra ở những nước có chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam là trái với thực tế, xuyên tạc bản chất ưu việt của chế độ ta. Tuy nhiên, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta; tham nhũng tồn tại  tất cả các quốc gia, các chế độ chính trị xã hội khác nhau mà không dễ gì để xóa bỏ nó tận gốc. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chúng ta phải tiến công một cách kiên trì, kiên quyết, thường xuyên, liên tục, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Trong luận điệu chúng cho rằng “công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Việt Nam là “giơ cao, đánh khẽ”, “thanh trừng bè phái trong nội bộ” là rất phản động, cố tình xuyên tạc nhằm phủ nhận năng lực lãnh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Trên thực tế, Đảng ta đã xử lý rất công minh, chính xác, kịp thời đúng người, đúng tội những cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ thuộc diện Trung ương, Bộ Chính trị quản lý nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ xứng đáng với niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chứ không phải như những luận điệu các thế lực thù địch xuyên tạc.

Để tiếp tục phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc thành tựu phòng, chống tham nhũng tiêu cực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; nhất là, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Ban Chỉ đạo Trung ương; thực hiện tốt chủ trương thành lập và phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do đồng chí bí thư tỉnh ủy, thành ủy làm trưởng ban.

Thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Do đó, phải tiến hành đồng bộ, với phương châm “nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng” (1), “dọc ngang thông suốt”, tránh “trên nóng, dưới lạnh”, “đầu voi, đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi”… làm cho dân tin vào Đảng và mỗi đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân./.

Sưu tầm

“Xây” và “chống”

Ngày 3-2-2024 vừa qua Đảng ta tròn 94 tuổi. 94 năm qua là những năm tháng vô cùng hào hùng, vẻ vang của nhân dân ta, đưa người dân từ kiếp nô lệ trở thành người chủ đất nước, xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Trong mọi giai đoạn cách mạng, khi đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử và khi có những vấp váp, sai lầm, khuyết điểm Đảng ta luôn thực hiện đồng bộ “xây” và “chống”, tự đổi mới, tự chỉnh đốn, được Nhân dân tin cậy, xứng đáng là đội tiên phong của một đất nước anh hùng. Đó là nhận thức sâu sắc “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.

“Xây” là phải rèn luyện đội ngũ cán bộ các cấp vừa “hồng” vừa “chuyên”, đủ năng lực ngang tầm nhiệm vụ; là xây dựng, củng cố tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. “Xây” cũng đòi hỏi phải tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh do đại hội đảng bộ các cấp đề ra. Là học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khuyến khích, cổ vũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của Nhân dân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.

“Chống” là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Là phê phán, xử lý nghiêm những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, hoặc không dám đương đầu với khó khăn, thách thức. Là kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không ngừng nghỉ, không bị tác động bởi bất cứ tổ chức, cá nhân nào có hành vi không lành mạnh, nâng cao tính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực. Là kiểm tra, xử lý kỷ luật nghiêm minh những cán bộ sai phạm. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng. 23 sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Lần đầu tiên 6 cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm kê khai tài sản, thu nhập – vấn đề nhạy cảm tưởng như không thể xử lý.

Những con số nói lên điều gì? Đó là thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta chống giặc nội xâm bảo vệ sự trong sạch, giữ gìn uy tín của Đảng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng dẫn dắt toàn dân thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là nhắc nhở cần làm tốt hơn công tác cán bộ, lựa chọn được những cán bộ thực đức, thực tài giữ những cương vị lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, nhất là chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng. Đó là xây dựng, hoàn thiện thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách để không thể, không dám, không muốn tham nhũng. Đó là lời cảnh tỉnh, bài học cho mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn đức, luyện tài, kiềm chế lòng tham bởi “tham thì thâm”, chẳng những công danh, sự nghiệp tiêu tan mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp chung, đến các đời con, cháu sau này.  

“Xây” phải thực sự tốt, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh thì “chống” mới hiệu quả. Ngược lại, “chống” phải tốt Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Xây và chống có mối quan hệ biện chứng, là hai mặt của một vấn đề xây dựng Đảng. Hai nhiệm vụ phải tiến hành đồng bộ, thường xuyên, liên tục, kiên trì, bền bỉ, trong đó, người đứng đầu giữ vai trò quan trọng bởi cán bộ là cái gốc của mọi công việc.

Sưu tầm

Học làm cán bộ

Nhân kỷ niệm 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11-6-1948 - 11-6-2023), sáng 10-6 tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động phong trào “Cả nước thi đua xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời giai đoạn 2023-2030”. Phong trào sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực cao – nguồn cung cấp cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.

Học tập suốt đời từ lâu đã trở thành nhu cầu của không ít cán bộ, đảng viên. Trong họ luôn thấm đẫm tinh thần “học, học nữa, học mãi” với mục đích “học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự tổ chức, đoàn thể, phục vụ Tổ quốc, dân tộc và nhân loại”. Nhưng học làm cán bộ có lẽ không phải ai cũng sẵn sàng ở mọi lúc, mọi nơi. Bởi khi đã trở thành cán bộ, có quyền hành trong tay, họ thường nhớ là lãnh đạo mà quên là đầy tớ của nhân dân. Học để làm cán bộ đã khó, học làm cán bộ còn khó hơn. Học để làm cán bộ có trường, có lớp dạy, được cấp bằng, chứng chỉ đủ tiêu chuẩn một chức danh nhất định. Học làm cán bộ là phải học mọi lúc, mọi nơi, bất kỳ thời gian nào, thường phải học giải quyết những tình huống nảy sinh trong thực tiễn mà không có trường, lớp nào dạy. Học làm cán bộ là phải học không chỉ làm người lãnh đạo, mà còn học làm người đày tớ trung thành của nhân dân.

Làm người lãnh đạo là phải luôn học tập, thấm nhuần và tổ chức thực hiện thành công đường lối, quan điểm của Đảng, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý. Phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Phải rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải công tâm, kỷ luật, tự giác, thẳng thắn, triệt để trong thực thi quyền lực, trong tự phê bình và phê bình theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong tình hình hiện nay, không ít cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh, dẫn đến trì trệ, không dám nghĩ, dám làm, dám chịu, không năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Những cán bộ đó liệu còn xứng đáng là người lãnh đạo của nhân dân? 

Làm đày tớ trung thành của nhân dân thể hiện ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, hiểu dân và học hỏi kinh nghiệm từ nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời, tất cả vì nhân dân phục vụ, với tinh thần hiểu thấu và sẻ chia, chủ động và linh hoạt, phù hợp điều kiện cụ thể; thể hiện ở quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, kiên quyết, kiên trì nói đi đôi với làm, chăm lo ấm no, hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người dân. Phải nắm vững dân là chủ và phải mở rộng dân chủ thật sự với nhân dân theo đúng chỉ dạy của Hồ Chí Minh: Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân. Đồng thời, mỗi cán bộ ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương thực hành dân chủ trong công tác để tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công việc. Thực tế cho thấy, ở đâu, cán bộ thực sự là đầy tớ của nhân dân, thương yêu nhân dân, gần gũi và giúp đỡ nhân dân, bảo vệ và sẵn sàng đáp ứng các nguyện vọng chính đáng của nhân dân, lắng nghe và học hỏi kinh nghiệm từ nhân dân, hết lòng vì nhân dân phục vụ thì ở đó cán bộ luôn được kính trọng, giúp đỡ, đùm bọc, luôn quy tụ và thu hút quần chúng làm theo.

Mỗi cán bộ, bên cạnh địa vị, trí tuệ của một “nhà lãnh đạo” đều phải có tinh thần làm việc của một “người đầy tớ” nhân dân. Học để làm cán bộ suốt đời, đồng thời cũng phải học làm cán bộ suốt đời. Hai điều này có quan hệ biện chứng, quan trọng như nhau thể hiện tâm thế “người lãnh đạo” và “người đầy tớ” của nhân dân.

Sưu tầm

Trách nhiệm

Ngày 22-9-2022, Ban Tổ chức Trung ương tổ chức Hội nghị trực tuyến quán triệt, triển khai thực hiện Quy định số 80-QĐ/TW, ngày 18-8-2022 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử (Quy định 80) và Thông báo kết luận số 20-TB/TW, ngày 8-9-2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật.

Hai văn bản quan trọng thu hút sự chú ý của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, Quy định 80 gồm 6 chương, 34 điều, thay thế cho Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19-12-2017 của Bộ Chính trị không chỉ có nhiều nội dung mới mà còn chỉ rõ trách nhiệm của cấp uỷ từng cấp đối với quản lý cán bộ.

Theo Quy định 80, nội dung quản lý cán bộ gồm: phân cấp quản lý cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; tuyển chọn, bố trí, phân công, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, tái cử, chỉ định, điều động, luân chuyển, biệt phái; phong, thăng, giáng, tước quân hàm; cho thôi giữ chức vụ; tạm đình chỉ, đình chỉ chức vụ, cho từ chức, miễn nhiệm, cách chức đối với cán bộ. Khen thưởng, kỷ luật cán bộ; thực hiện chế độ, chính sách cán bộ; kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác cán bộ và cán bộ.

Phải chăng các cấp uỷ chưa thực hiện hết trách nhiệm trong quản lý cán bộ nên thời gian qua xảy ra tình trạng bổ nhiệm chưa được bao lâu đã vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước? Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2022 đã có 27 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị xử lý kỷ luật, thậm chí bị bắt tạm giam để điều tra. Gần đây nhất cơ quan Cảnh sát điều tra bắt tạm giam ông Phạm Xuân Thăng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương do đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Quy chế làm việc, Quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương.

Trong quản lý cán bộ, khâu quan trọng đầu tiên là phải đánh giá đúng cán bộ. Có đánh giá đúng mới bố trí, phân công, giới thiệu ứng cử, tái cử… chính xác, đúng người, đúng việc, bảo đảm chất lượng cán bộ khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Phải chăng việc phát hiện, đánh giá, sàng lọc, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cao cấp, cán bộ cấp chiến lược của đất nước cần phải được chuẩn bị dân chủ hơn, kỹ hơn, thận trọng hơn và phải có chế tài đối với những tổ chức, cá nhân khi những cán bộ được giới thiệu vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước?

Trách nhiệm là việc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải làm và phải có ý thức với những kết quả việc làm đó. Kết quả tốt được khen thưởng, hậu quả xấu phải bị xử phạt. Chỉ có vậy mới công bằng, khuyến khích những tổ chức, cá nhân có trách nhiệm quản lý cán bộ chặt chẽ, đem lại hiệu quả tích cực, ích nước, lợi dân và loại dần những hậu quả nghiêm trọng từ thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý cán bộ mà ra.  

Sưu tầm

“Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”

“Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”. Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Thủ đô”, ngày 30-9-1964.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và động cơ của việc học tập trong chế độ mới, khắc phục cách tư duy cũ do nền giáo dục thực dân, phong kiến để lại. Người dạy: Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà. Bên cạnh việc xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, Người yêu cầu tuổi trẻ phải thực hiện học tập toàn diện và học tập phải gắn liền với rèn luyện. Người dạy thanh niên phải ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Theo Bác, muốn thành công trong công việc, phải biết kết hợp giữa học và hành một cách chặt chẽ và xuyên suốt. Lấy lý thuyết hỗ trợ cho hành động và ngược lại, lấy hành động để khẳng định sự đúng đắn của lý thuyết. Vận dụng lý thuyết vào hành động thì lý thuyết được kiểm chứng; từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao hơn hiệu quả công việc. Học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng đắn. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống một cách hiệu quả.

Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân tích cực tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực quan điểm của Bác trong định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn; quán triệt và thực hiện nghiêm 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội; bám sát phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị; giáo dục-đào tạo gắn với huấn luyện chiến đấu; huấn luyện sát nhiệm vụ, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, lấy thực hành là chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện thể lực bộ đội. Tổ chức có chất lượng các cuộc diễn tập để nâng cao trình độ, khả năng SSCĐ, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Sưu tầm

Niềm tin

Mùng 3 tháng 2 năm nay Đảng ta tròn 93 mùa xuân (3-2-1930 - 3-2-2023). Chín mươi ba năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta vững vàng tiến bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đưa nhân dân ta từ bóng tối ra ánh sáng, từ kiếp nô lệ thành người tự do, từ kẻ mất nước thành người làm chủ, từ đói nghèo lạc hậu đến cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam chín mươi ba năm qua là cơ sở niềm tin của nhân dân với Đảng. Niềm tin đó ngày nay được khơi dậy, ngày càng được củng cố bởi:

Đảng tiếp tục kết hợp đúng đắn Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại, biết quý trọng và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa đất nước vượt qua mọi gian lao, nguy hiểm vươn lên sánh vai cùng các nước trên thế giới với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình. Cội nguồn sức mạnh của đất nước chính là tinh thần và ý chí quật cường của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng – đội tiên phong trí tuệ, bản lĩnh của giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Chặng đường từ khi có Đảng đầy ắp niềm tin tình Dân nghĩa Đảng, nhân dân tham gia, nhân dân hưởng ứng, ủng hộ, trở thành xung lực của mọi cuộc cách mạng, thắm đượm lòng Dân - ý Đảng làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đảng có những quyết sách sáng suốt, kịp thời, chủ động chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thách thức ở những thời điểm khó khăn, cam go trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam. Gần đây nhất, năm 2022 được coi là năm “lửa thử vàng” của đất nước ta khi phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, khi cả dân tộc cùng bước qua một cuộc chiến chống lại đại dịch COVID-19, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân đoàn kết thành một khối, đồng sức, đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Đảng luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tự làm trong sạch xứng đáng là đạo đức, là văn minh. Kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn giữa "xây" và "chống" Đảng ban hành nhiều chủ trương, quyết định mới trong xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức và công tác cán bộ sát thực và quyết liệt tổ chức thực hiện. Đặc biệt, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được triển khai đồng bộ, toàn diện, bài bản, đi vào chiều sâu, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, với tinh thần nghiêm khắc nhưng nhân văn, khoa học, có sức răn đe, cảnh tỉnh cao. Tham nhũng, tiêu cực từng bước được kiểm soát, đẩy lùi. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng, nhất là các vụ án lớn, nghiêm trọng, chưa từng có tiếp tục được phát hiện, điều tra, tiến hành khởi tố, truy tố, xét xử nghiêm minh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao, đồng tình, ủng hộ. Từng ngày, từng ngày, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục có những chuyển biến tích cực, đạt kết quả ấn tượng, loại trừ những “con sâu mọt” trong nội bộ, bảo vệ thanh danh, uy tín của Đảng, giữ gìn hình ảnh của cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm, chính. Chính kết quả đạt được là yếu tố quyết định tạo niềm tin của Nhân dân với Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam với bản lĩnh vững vàng và tầm cao trí tuệ đã khẳng định là lực lượng duy nhất lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng được nhân dân tin tưởng, đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo dân tộc vượt qua mọi chông gai, thử thách đưa đất nước phát triển phồn vinh. Tổ quốc độc lập, tự do, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, gửi trọn niềm tin với Đảng quang vinh.

Sưu tầm

NHẬN DIỆN BẢN CHẤT BỊA ĐẶT, XUYÊN TẠC TỪ BÀI VIẾT CỦA LỰC LƯỢNG THÙ ĐỊCH

Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng gần 40 năm, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá". Tuy vậy, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường; thuận lợi, thời cơ đan xen với khó khăn, thách thức, đặt ra nhiều vấn đề mới, cấp bách đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng ta, hòng làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Mới đây, trên nhiều diễn đàn mạng xã hội xuất hiện bài viết: “Bệnh ung thư của chế độ” của Phạm Hồng Sơn, có nội dung xuyên tạc Đảng và vị trí, vai trò người đứng đầu của Đảng ta. Y hồ đồ nói rằng “Các quan chức lớn của ĐCSVN cũng tận lực đục khoét, bòn rút tài nguyên, công quỹ của dân…” Phạm Hồng Sơn là kẻ giả dối, bịa đặt và trơ trẽn, bởi lẽ:

Đảng Cộng sản Việt Nam là đạo đức, là văn minh, người đứng đầu của Đảng và Nhà nước luôn hết lòng vì dân, vì nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng ta luôn trọn vẹn tấm lòng thủy chung vì dân tộc, vì Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân mà chiến đấu; biết đặt mình trong sinh mệnh của nhân dân, gắn bó với lợi ích quốc gia - dân tộc, hết lòng vì dân, vì nước. Đảng ta quang minh, chính đại, luôn “dĩ công vi thượng”, không che giấu hạn chế, khuyết điểm; trung thực, dũng cảm nhận sai lầm và kiên quyết đấu tranh sửa chữa, khắc phục để luôn tiến bộ, trưởng thành, để dân yêu, dân mến, dân tin. Đảng là đạo đức, là văn minh được thể hiện rất chân tình, giản dị, ấm áp, đi vào lòng người bởi những phẩm chất đạo đức và những giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc của Đảng, thấm nhuần sâu sắc vào từng cán bộ, đảng viên của Đảng, suốt đời tận trung với Đảng, trọn hiếu với dân.
Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng đã khẳng định bản chất, trí tuệ, bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam mà không phần tử nào có thể xuyên tạc được.
Trải qua 94 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) giành thắng lợi, thu non sông về một mối. Sau ngày thống nhất đất nước, trước đòi hỏi từ thực tiễn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn, “có ý nghĩa lịch sử” trong gần 40 năm đổi mới trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, vai trò vị thế Việt Nam ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế vững chắc như hiện nay. Điều đó khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - Lực lượng lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Nhân dân Việt Nam luôn vững tin theo Đảng. Cho dù, những kẻ phản động như Sơn có dùng trăm mưu, nghìn kế để xuyên tạc, bôi nhọ nói xấu Đảng và người đứng đầu của Đảng cũng không phủ nhận được hiện thực khách quan đó. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, dân tộc Việt Nam sẽ luôn vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.

ÂM MƯU CỦA NHỮNG KẺ KHÔNG MUỐN VIỆT NAM PHÁT TRIỂN

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá không chỉ trên phương diện lý luận về mô hình kinh tế thị trường mà cả trên phương diện thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã chứng minh đó là một lựa chọn đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây là cơ sở để Việt Nam hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trở thành một bộ phận, một khâu quan trọng trong mạng sản xuất toàn cầu. Bất chất những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được sau gần 40 năm đổi mới đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn ra sức xuyên tạc, phủ nhận thành quả đó. Thậm chí nhiều đối tượng còn ra sức ngăn cản sự ghi nhận và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia khác đối với Việt Nam.

Sau nhiều nỗ lực trong cải cách thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển các yếu tố, các loại thị trường, hiện đã có 72 quốc gia đã công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Song, có nhiều đối tác lớn của Việt Nam chưa công nhận điều này như Hoa Kỳ và EU. Nhiều năm qua, đặc biệt là sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp mối quan hệ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 10/2023, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tăng cường thúc đẩy đề nghị Hòa Kỳ công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Tuy nhiên, các đối tượng không thân thiện, thù địch với Việt Nam đã ra sức kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ không được thực hiện điều này. Vì sao lại như vậy? 

Thứ nhất, sự công nhận nền kinh tế thị trường của các nước có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam

Đối với Việt Nam, việc được ghi nhận là có nền kinh tế thị trường có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, Việt Nam hiện là một quốc gia đang phát triển mạnh, là nền kinh tế lớn thứ 11 ở châu Á, một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, nằm trong nhóm 30 nước, vùng lãnh thổ có thương mại quốc tế lớn, thuộc nhóm 3 nước thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất trong ASEAN trong gần 10 năm qua. Đồng thời, là thành viên của 16 hiệp định thương mại tự do. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm lớn với độ mở của nền kinh tế khoảng 200%. 

Tuy nhiên, có thể thấy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn ở các thị trường lớn như Mỹ và EU do bị áp dụng mức thuế cao và thường xuyên đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại. Theo Cục phòng vệ thương mại, hiện Việt Nam đang phải đối mặt với gần 250 vụ kiện phòng vệ thương mại với nhiều thị trường khác nhau. Trong đó, thị trường Mỹ chiếm 23% số vụ việc, Ấn Độ chiếm 14%, Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 10%, sau đó là Canada, EU, Philippines, Indonesia… Nhiều hàng hóa chủ đạo có mức tăng trưởng cao của Việt Nam thường phải đối mặt với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại như sản phẩm thép, nhôm, đồng, ngành cao su và chất dẻo, ngành hóa chất, ngành vật liệu xây dựng, ngành gỗ… Điều này đã làm giảm mức tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. 

Điều đó cho thấy, nếu Việt Nam được công nhận là có nền kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu được đối xử công bằng hơn, có điều kiện thâm nhập và mở rộng thị trường tốt hơn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ổn định hơn. Môi trường ổn định và minh bạch sẽ thu hút được nguồn vốn đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. 

Thứ hai, tầm quan trọng của việc Hoa Kỳ công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam

Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ hai và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Với dân số trên 300 triệu dân, Hoa Kỳ là một thị trường nhiều tiềm năng của Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là một thị trường khó tính, chính phủ Hoa Kỳ cũng ban hành nhiều tiêu chuẩn thương mại, tiêu chuẩn kỹ thuật cao và nhiều biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ các lợi ích của các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời tại Hoa Kỳ, hàng hóa của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các loại hàng hóa cùng chủng loại đến từ các quốc gia khác cả về giá cả và chất lượng sản phẩm. 

Việc Hoa Kỳ công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam sẽ giúp hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ được đối xử công bằng với các quốc gia có nền kinh tế thị trường từ mức thuế quan, phi thuế quan, giúp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tại Hoa Kỳ. Đồng thời, trên bình diện toàn cầu, nền kinh tế Mỹ là một trong những nền kinh tế lớn nhất, có khả năng ảnh hưởng sâu, rộng tới kinh tế toàn cầu. Do đó, có thể nói rằng khi Hoa Kỳ đã công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam sẽ là cơ sở để các quốc gia khác trên thế giới cân nhắc và đẩy mạnh quá trình công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Đây là cơ hội lớn để Việt Nam hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn vào nền kinh tế thế giới nhằm huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. 

Song cũng phải nói thêm rằng, việc Hoa Kỳ công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam cũng mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho Hoa Kỳ. Bởi lẽ, Việt Nam là một trong 7 đối tác thương mại lớn hàng đầu của Hoa Kỳ, kim ngạch thương mại song phương của hai nước hàng năm ở mức cao. Các công ty Mỹ có được là các cơ hội tiếp cận thị trường và xuất khẩu, góp phần khuyến khích, thúc đẩy các công ty Mỹ đa dạng hóa chuỗi cung ứng phù hợp với lợi ích của Mỹ. Đồng thời, giảm bớt các rào cản thương mại dẫn đến giá nhập khẩu thấp hơn và khả năng tiếp cận thị trường lớn hơn, giúp các doanh nghiệp Mỹ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sang Việt Nam dễ dàng hơn và chi phí thấp hơn, cho phép các công ty Mỹ tăng sản lượng và sản xuất tại Việt Nam. Điều này mang lại tiềm năng tăng doanh thu bán hàng và lợi nhuận cho các công ty Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam.

Như vậy, việc Đảng và Nhà nước Việt Nam đề nghị các quốc gia trên thế giới cũng như Hoa Kỳ công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng, đem lại nhiều lợi ích thiết thực đối với sự phát triển của đất nước, chứ không phải đem lại lợi ích riêng cho Đảng Cộng sản hay “quan chức” Việt Nam. Điều này cũng thể hiện rõ quan điểm nhất quán và xuyên sốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quan hệ quốc tế là “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Do đó, mọi sự xuyên tạc, phủ nhận thành quả phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động ngăn cản các quốc gia công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam là đi ngược lại với ý chí, nguyện vọng, lợi ích của đất nước và nhân dân Việt Nam. Và những kẻ đang tiến hành các hoạt động đó chính là những kẻ không muốn Việt Nam phát triển thịnh vượng, không muốn nhân dân Việt Nam được sống trong “phồn vinh, hạnh phúc”./.

.ankhe.01

Quyết liệt hơn, toàn diện hơn

Ngày 25-10-2021, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Kết luận Hội nghị Trung ương 4, (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" (Kết luận số 21-KL/TW) và Quy định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Đây là hai văn bản là cơ sở quan trọng trong quá trình đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Những điểm mới nào so với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và 19 điều đảng viên không được làm trước đây?

Đó là mục tiêu được xác định rộng hơn, đầy đủ hơn. Xây và chống không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn xây dựng hệ thống chính trị theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đồng thời với ngăn chặn, đẩy lùi phải chủ động ngăn ngừa, kiên quyết xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực.

Đó là khẳng định phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực”. Hệ thống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống được hệ thống sát hợp với tình hình mới.  

Đó là bổ sung hai nhiệm vụ, giải pháp mới: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ vi phạm. Đồng thời thực hiện thí điểm người đứng đầu giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên thường vụ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu đó; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm, miễn nhiệm cấp trưởng, cấp dưới trực tiếp và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Đó là Điều 3 bổ sung không được “phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; "tư duy nhiệm kỳ", đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyển quyền, quan liêu, xa rời quần chúng”.

Đó là Điều 13 Quy định về những điều đảng viên không được làm bổ sung hoàn toàn mới so với Quy định cũ. Theo đó, quy định, đảng viên không được can thiệp, tác động vào hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xét đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo để bao che, tiếp tay cho các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tác động, ép buộc, mua chuộc tổ chức, cá nhân để giảm trách nhiệm, hình phạt cho người khác.

Đó là không được lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo; không thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về bảo vệ người tố cáo, phê bình, góp ý; hành vi chạy chức, chạy quyền, tham ô hay thờ ơ, vô cảm với các hành vi sai trái trong xã hội...

Những điểm mới trong Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và Quy định về những điều đảng viên không được làm cho thấy Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần quyết liệt hơn, toàn diện hơn nhằm bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền trong tình hình  mới.    

Sưu tầm

Tự phê bình và phê bình - giải pháp cơ bản khắc phục những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên hiện nay

Trong Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị lần thứ tư (khóa XIII), về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tụ diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cùng với tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu góp phần thực hiện mục tiêu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Hệ thống chính trị, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên hiện nay.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân, nó là “giặc nội xâm”, kẻ thù ở trong lòng mỗi con người, muốn chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, một trong những biện pháp rất quan trọng là phải tự phê bình và phê bình, Người coi “thang thuốc tốt nhất là thiết thực tự phê bình và phê bình”. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa một cách thường xuyên như “rửa mặt hàng ngày” và phải gắn liền với quá trình tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống suốt đời. Điều đặc biệt hơn, Người luôn căn dặn rất kỹ về mục đích, cách (phương pháp) tự phê bình và phê bình. Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc tốt hơn, đúng hơn; để đoàn kết và thống nhất trong nội bộ. Người còn nhấn mạnh, muốn chưa khỏi bệnh cá nhân chủ nghĩa, tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt; phải lấy lòng nhân ái, thành thật để phê bình đồng chí mình. Phải chỉ rõ cả ưu điểm và khuyết điểm; không “thâm thọc, mỉa mai”, “bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu”. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người; hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và phải sửa chữa cho bằng được… làm được như thế thì sẽ sớm chữa được bệnh cá nhân chủ nghĩa trong cán bộ, đảng viên và như thế “Đảng cũng khỏe mạnh vô cùng”.

Thấm nhuần di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm khắc phục những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau đây:

Trước hết, tiếp tục nâng cao nhận thức sâu sắc về những biểu hiện và tác hại của chủ nghĩa cá nhân đến việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để nhận biết rõ những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân trong bản thân mình; đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ tính chất nguy hiểm và tác hại khi vướng vào chủ nghĩa cá nhân. Muốn nhận thức nhận thức sâu sắc về những biểu hiện và tác hại của chủ nghĩa cá nhân, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự nghiên cứu, học tập, quán triệt các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Kết luận số 21-NQ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII “Quy định về những điều đảng viên không được làm”. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội, tiếp tục quán triệt, nghiên cứu, học tập nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Trong đó, nghiên cứu kỹ, nắm chắc 5 phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới và 10 biểu hiện nhận diện chủ nghĩa cá nhân mà Quân ủy Trung ương đã thống nhất. Có như vậy mới nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa cá nhân và sự cần thiết, cấp bách phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng đạo đức cách mạng.

Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự phê bình và phê bình kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch trong lòng mỗi người, nó gặm nhấm, làm “hư hỏng” chính bản thân mỗi người, nó cản trở quá trình phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự vấn, thật thà tự kiểm điểm, tự phê bình hàng ngày, trước, trong và sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ hoặc ra quyết định nào đó. Từ trong suy nghĩ, hành động phải xem xét thật kỹ lưỡng suy nghĩ ấy, hành động ấy có vướng vào những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân hay không. Phải thiết thực, chân thành lắng nghe ý kiến phê bình thật thà của đồng chí đồng đội, từ đó nhận ra những thiếu sót, khuyết điểm và biểu hiện chủ nghĩa cá nhân còn tồn tại trong chính bản thân mình. Trên cơ sở đó, “tự soi”, “tự sửa” thường xuyên, liên tục suốt cuộc đời, phấn đấu thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Thứ ba, phát huy vai trò của các tổ chức đảng trong thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên là một tế bào của Đảng, đều sinh hoạt trong một tổ chức đảng nhất định. Vai trò, chức năng của các tổ chức đảng là quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên thông qua các chế độ sinh hoạt, trong đó tự phê bình và phê bình là một chế độ, đồng thời là vấn đề quy luật trong xây dựng và phát triển Đảng. Do đó, thực hiện một cách có hiệu quả, thường xuyên, liên tục chế độ tự phê bình và phê bình sẽ giúp cho cán bộ, đảng viên tự nhận ra những khuyết điểm, những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, giao nhiệm vụ, xác định thời gian sửa chữa cho cán bộ, đảng viên, giúp họ tiến bộ và trưởng thành. Các tổ chức đảng, nhất là chi ủy, chi bộ phải phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình thông qua các chế độ sinh hoạt như: sinh hoạt học tập, ra nghị quyết lãnh đạo, kiểm tra, giám sát, đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, đảng viên hàng năm. Trong đó, nêu cao vai trò, trách nhiệm, kỹ năng, phương pháp công tác của bí thư cấp ủy, nhất là trong khơi dậy tính đấu tranh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng của mỗi cán bộ, đảng viên.

Sưu tầm

Sắt son niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày 03/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Kể từ đây, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dân tộc Việt Nam đại đã từ đêm trường nô lệ, lầm than bước ra ánh sáng “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Suốt dặm trường chinh tiến hành cách mạng, đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc và ấm no cho Nhân dân, Đảng ta luôn thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, trí tuệ sáng suốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đã xác định, luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, thủy chung, trong sáng với bạn bè quốc tế. Rất nhiều cán bộ, đảng viên ưu tú của Đảng đã cống hiến trọn đời mình cho Tổ quốc và Nhân dân, anh dũng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, thực sự là những tấm gương sáng để mọi người noi theo.

Đất nước bước vào thời kỳ mới, bối cảnh thế giới và khu vực vừa tạo ra cơ hội thuận lợi và khó khăn thách thức đan xen, hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư tác động đa chiều đến sự phát triển của đất nước. Các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị chống phá nước ta quyết liệt, trực diện hơn. Đại dịch Covid – 19 bùng phát trên thế giới và trong nước rất nghiêm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt đời sống xã hội, sức khỏe và tính mạng của Nhân dân. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn diễn biến rất phức tạp…

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, thời gian qua, nước ta đã và đang gặt hái được những thành tựu to lớn, đáng trân trọng và tự hào trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội đảng các cấp, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp thành công rất tốt đẹp đã cho thấy niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Chính phủ và chế độ Xã hội chủ nghĩa được nâng cao. Nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao so với thế giới và khu vực; chính trị ổn định; văn hóa – xã hội có bước phát triển mới; quốc phòng – an ninh được củng cố ngày càng vững chắc; đối ngoại được mở rộng và tăng cường… Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý và điều hành của Nhà nước, Chính phủ, cả hệ thống chính trị chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi mục tiêu kép. Vừa phòng chống dịch khá hiệu quả, vừa phát triển kinh tế – xã hội, năm 2021 vừa qua, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt mốc 2,58%, nằm trong TOP 20 nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại, là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Trong thời gian qua, chúng ta đã đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ đen tối của các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chống đối chính trị; tình trạng suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từng bước được kiềm chế, ngăn chặn và đẩy lùi. Có thể khẳng định rằng, chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó càng củng cố niềm tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vào mục tiêu, lý tưởng, con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; tạo động lực, khí thế mới đưa nước ta bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Đảng đã mang lại 92 mùa Xuân tươi đẹp cho đất nước ta. Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, dân tộc anh hùng, các tổ chức Công đoàn, Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Học viện Lục quân nói chung và mỗi đoàn viên, hội viên của các tổ chức quần chúng Hệ Quốc tế nói riêng hướng tới kỷ niệm 92 năm ngày Thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (03/2/1930 – 03/2/2022) với niềm tự hào to lớn, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu, học tập, rèn luyện, thi đua thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh toàn diện, xây dựng Đảng bộ Học viện trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị và Học viện vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”./.

Sưu tầm