Thứ Ba, 13 tháng 7, 2021

 

Tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng trong thời kỳ mới theo định hướng Đại hội XIII của Đảng

Tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng là quan điểm, chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là kết quả của việc tổng kết sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm đổi mới đất nước. Việc quán triệt sâu sắc quan điểm này của Đảng sẽ là cơ sở quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp, tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

1- Kế thừa truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, từ thực tiễn sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là 10 năm thực hiện Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội XIII của Đảng định hướng: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(1). Đây là luận điểm hết sức quan trọng, thể hiện quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, nhằm tiếp tục tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả trước mắt và lâu dài. Theo đó, nội dung này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị, nhất là lực lượng vũ trang quán triệt sâu sắc, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả trong những năm tới.

Nhìn lại 35 năm đổi mới và nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt; các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng hơn. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, chống phá Quân đội ta ngày càng tinh vi, thâm hiểm, công khai, trực diện hơn.

Trong bối cảnh như vậy, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; tập trung củng cố, tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, xây dựng Quân đội nhân dân “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, giành được những kết quả quan trọng, đạt được mục tiêu bao trùm: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ  Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”(2).

Tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng(3)Tiềm lực quốc phòng là vấn đề rất quan trọng, tạo nền tảng cho việc củng cố, nâng cao sức mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, việc tăng cường tiềm lực quốc phòng đã có những đột phá quan trọng trong tư duy và tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tạo ra nguồn lực tổng hợp bảo đảm tốt nhất cho nhiệm vụ quốc phòng trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, toàn diện, có chiều sâu về tiềm lực quốc phòng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị - tinh thần, kinh tế, khoa học, công nghệ và quân sự. Trong lĩnh vực chính trị - tinh thần, đã phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân”. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm được củng cố vững chắc; tiềm lực, sức mạnh của khu vực phòng thủ các cấp được nâng lên, bảo đảm tính độc lập, tự lực, tại chỗ, liên kết chặt chẽ, thực hiện được mục tiêu “làng giữ làng, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh”, đáp ứng yêu cầu phòng thủ gắn với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn và cả nước. Quân đội luôn phát huy tốt vai trò xung kích, nòng cốt, kịp thời có mặt ở những nơi xung yếu, gian khó, hiểm nguy, cùng với nhân dân phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới..., góp phần thắt chặt mối quan hệ đoàn kết quân - dân, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc, làm đẹp thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Trong lĩnh vực kinh tế, cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao so với khu vực và thế giới (bình quân 5 năm đạt 6,7%), Đảng, Nhà nước ta chú trọng tăng cường tiềm lực kinh tế quân sự; “kết hợp có hiệu quả quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(4). Quốc phòng, an ninh chiếm vị trí ngày càng tương xứng trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, trong các ngành, các thành phần kinh tế và trên phạm vi cả nước. Thực hiện quan điểm của Đảng: “Mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước tăng cường quốc phòng, an ninh”, chúng ta đã bước đầu khắc phục một số hạn chế, thiếu sót được chỉ ra tại Đại hội XII của Đảng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; chú trọng phát triển nền khoa học, nghệ thuật quân sự và nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng. Trong lĩnh vực quân sự, lực lượng vũ trang được chú trọng phát triển toàn diện, lấy vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Công tác huấn luyện, diễn tập được chú trọng hơn; các lực lượng quân đội được trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại, ưu tiên một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, làm chủ công nghệ hiện đại; nâng cao khả năng tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, thềm lục địa và không gian mạng, phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Tổ chức, biên chế của Quân đội được điều chỉnh theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; lực lượng dân quân tự vệ phát triển cả về số lượng và chất lượng; lực lượng dự bị động viên ngày càng hùng hậu...

Thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng, tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo kế hoạch thống nhất, phù hợp với chiến lược bảo vệ Tổ quốc để ngăn ngừa, đối phó thắng lợi với mọi âm mưu và hoạt động chống phá của thế lực thù địch, sẵn sàng chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến(5). Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, thế trận quốc phòng toàn dân đã gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; thế bố trí chiến lược quốc phòng được quy hoạch, điều chỉnh phù hợp với chiến lược bảo vệ Tổ quốc và chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Sự gắn kết giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng chặt chẽ, tạo nên thế trận quốc phòng, an ninh, đối ngoại vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, khả năng phòng thủ quốc gia cả trên đất liền, trên không, biển, đảo và không gian mạng được nâng cao. Từng bước xây dựng, hoàn thiện hệ thống công trình phòng thủ, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, hệ thống phòng thủ dân sự..., bảo đảm cho sẵn sàng tác chiến và phòng, tránh, khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, thảm họa. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường tuần tra biên giới, cơ bản hoàn thành xây dựng đường Trường Sơn Đông. Đảng lãnh đạo Nhà nước và cả hệ thống chính trị thực hiện việc huy động nhiều nguồn lực ở trong nước và ngoài nước nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền công nghiệp quốc phòng không ngừng phát triển toàn diện, cả bề rộng lẫn chiều sâu...

Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân cơ bản là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt. Tư duy về bảo vệ Tổ quốc của Đảng có những bước phát triển quan trọng. Việc chỉ đạo xây dựng và ban hành hệ thống các chiến lược chuyên ngành về quân sự, quốc phòng(6); bổ sung và ban hành Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Lực lượng dự bị động viên, Nghị quyết số 130/2020/QH14, ngày 13-11-2020, “Về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam cùng với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX, khóa XI, đã tạo nên chỉnh thể thống nhất, toàn diện về chiến lược bảo vệ Tổ quốc cả trên bình diện lý luận và thực tiễn. Trong tổ chức thực hiện, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có những bước đột phá quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; chuẩn bị lực lượng vũ trang, tăng cường lực lượng, tiềm lực và thế trận quốc phòng,...

Bên cạnh những kết quả đạt được, nhận thức của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, về tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng nói riêng, còn hạn chế. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có nơi hiệu quả chưa cao. Việc kết hợp giữa thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân; giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật chặt chẽ; hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng có lúc, có nơi chưa thực sự hiệu quả, kết quả một số mặt chưa đạt yêu cầu đề ra; đầu tư cơ sở vật chất cho xây dựng thế trận, khu vực phòng thủ, phát triển khoa học và công nghệ có mặt còn hạn chế.

2- Sau 35 năm đổi mới, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; không gian chiến lược mới; các loại hình tác chiến mới... đặt ra những thách thức đối với hòa bình, ổn định trên thế giới và khu vực. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là khủng bố, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp... Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Việc xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại cùng với sự thay đổi môi trường chiến lược đã tác động, làm thay đổi cơ bản tổ chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, tiềm lực, uy tín và vị thế của đất nước trên trường quốc tế, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng nước ta, nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng với Quân đội... Tất cả những vấn đề này đặt ra yêu cầu mới đối với nhiệm vụ tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ những nhiệm vụ trọng yếu để tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới là: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại”(7); “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(8). Để tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần chú trọng thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nòng cốt là lực lượng vũ trang. Đây là quan điểm thể hiện tư duy mới của Ðảng, là định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc”(9); đồng thời, khắc phục những biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắtNhận thức rõ vai trò của quốc phòng, an ninh đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời bình, có quan điểm chủ quan cho rằng, kinh tế mạnh ắt sẽ có tiềm lực và thế trận quốc phòng mạnh...; điều này chi phối rất lớn đến ý thức xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng. Vì thế, trên cơ sở thấu suốt quan điểm: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”, cần nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục và đưa công tác này đi vào thực chất; mở rộng đối tượng, phạm vi và đa dạng hóa hình thức, phương pháp công tác tuyên truyền, giáo dục, phát huy có hiệu quả các phương tiện truyền thông, đồng thời phát huy vai trò của các lực lượng chuyên trách trong công tác tuyên truyền, giáo dục. Tập trung tuyên truyền, giáo dục trước hết cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các thành phần, lực lượng, để thống nhất nhận thức và hành động, kịp thời khắc phục những nhận thức lệch lạc đã được Đại hội XIII của Đảng chỉ ra.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng.

Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất về quân sự, quốc phòng là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(10). Trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức sự nghiệp củng cố quốc phòng. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là giải pháp cơ bản, nhằm xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng trong thời kỳ mới. Trong quá trình đó, cần tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy để phù hợp với thực tiễn cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các ban, ngành ở Trung ương và địa phương cần thấu suốt, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các chiến lược và hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng, tạo cơ sở để triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi, có hiệu quả việc tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng trong tình hình mới. Quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng phải toàn diện, không coi nhẹ tiềm lực nào; nghiêm túc, chặt chẽ, tránh mọi biểu hiện phô trương, hình thức ở tất cả các cấp, các ngành, các vùng, miền, địa phương, chú trọng hơn đến các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo.

Thứ ba, nâng cao hơn nữa hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng các yếu tố trong tiềm lực và thế trận quốc phòng.

Về tiềm lực chính trị - tinh thần, cần chú trọng hơn việc xây dựng lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền. Mở rộng dân chủ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và coi đây là nội dung căn bản, một yếu tố có tính quyết định trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần hiện nay. Về tiềm lực kinh tế, xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân cần được thực hiện thông qua kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh; gắn phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố theo quy hoạch, kế hoạch; xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng tại những địa bàn chiến lược, trọng điểm. Về tiềm lực khoa học và công nghệ, việc xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của nền quốc phòng toàn dân phải gắn chặt với sự phát triển của khoa học và công nghệ, trên cơ sở đó ứng dụng có hiệu quả vào thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Về tiềm lực quân sự, đây là yếu tố nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, được xây dựng trên nền tảng của các tiềm lực khác, thể hiện ở khả năng duy trì, hoàn thiện và phát triển sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị lực lượng vũ trang, ở nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ cho nhiệm vụ quân sự. Do đó, xây dựng tiềm lực quân sự phải gắn chặt với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa - tư tưởng...

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cơ chế, chính sách là yếu tố rất quan trọng, là căn cứ để thực hiện tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng. Những năm qua, việc bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng được chú trọng, đã tháo gỡ không ít khó khăn, vướng mắc, khắc phục được nhiều hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực hiện, nhất là ở địa bàn trọng yếu, chiến lược, biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, tình hình mới đặt ra yêu cầu phải bổ sung nhiều nội dung cho phù hợp với thực tiễn và tháo gỡ những điểm nghẽn, gây cản trở việc tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, như trong huy động lực lượng, trong kết hợp các thành phần kinh tế, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Theo đó, cần quán triệt quan điểm của Đảng trong xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách về tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng theo hướng tinh, gọn, chặt chẽ, đồng bộ, tránh chồng chéo và quan trọng nhất là không gây cản trở, phức tạp, khó khăn cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Rà soát, kịp thời trình Quốc hội, Chính phủ bổ sung, ban hành cơ chế, chính sách, các văn bản hướng dẫn để tổ chức thực hiện. Việc bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách không chỉ căn cứ vào thực tiễn, mà còn phải căn cứ vào mục tiêu, chỉ tiêu và những định hướng lớn trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 do Đại hội XIII của Đảng đề ra, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các cấp.

Thứ năm, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng.

Tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó lực lượng vũ trang giữ vai trò nòng cốt. Vì thế, cần phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân trong tham mưu, đề xuất chủ trương, giải pháp, tổ chức thực hiện; tham gia thẩm định, quản lý, sử dụng đất quốc phòng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, nhất là ở các địa bàn chiến lược, trọng yếu, biên giới, biển, đảo, bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên phạm vi cả nước và từng địa bàn.

Các đơn vị quân đội cần thường xuyên nghiên cứu địa bàn, kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền các địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác quốc phòng địa phương, triển khai có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, đề án quốc phòng, an ninh; tham mưu xây dựng các công trình chiến đấu theo kế hoạch phòng thủ, nhất là tuyến biên giới, biển, đảo. Phát huy vai trò các đơn vị quân đội là “đội quân công tác” trên các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự; tích cực tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.

Thứ sáu, đẩy mạnh công tác đối ngoại và hợp tác quốc phòng trong tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 22-/NQ-TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế” và Nghị quyết số 806/NQ-TW, ngày 31-12-2013, của Quân ủy Trung ương, về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(11), vì thế, thời gian tới, các cấp, các ngành cần đẩy mạnh hợp tác, khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng. Trong xu thế hội nhập quốc tế, sức mạnh thời đại và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế có vai trò vô cùng to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng nói riêng. Để tranh thủ sức mạnh thời đại và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế nhằm tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, ngoài việc gia tăng đan cài lợi ích, mở rộng đối ngoại, Việt Nam cần phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng; tham gia tích cực và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới, trong đó có hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tranh thủ sự giúp đỡ và đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế là những yếu tố rất quan trọng để tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới./.

 

 

                                                              

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét