Tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng trong thời kỳ mới theo định
hướng Đại hội XIII của Đảng
Tăng cường tiềm
lực và thế trận quốc phòng là quan điểm, chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược
được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là kết quả của việc
tổng kết sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc qua
35 năm đổi mới đất nước. Việc quán triệt sâu sắc quan điểm này của Đảng sẽ
là cơ sở quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy cao nhất
sức mạnh tổng hợp, tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc trong tình hình mới.
1- Kế thừa truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, từ thực tiễn sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là 10 năm thực
hiện Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội XIII của Đảng định hướng:
“Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ
“thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh
nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân”(1). Đây là luận điểm hết sức quan trọng, thể hiện quan điểm nhất quán, xuyên
suốt của Đảng ta, nhằm tiếp tục tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả trước mắt và lâu dài. Theo đó, nội dung
này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; các cấp, các ngành trong hệ thống
chính trị, nhất là lực lượng vũ trang quán triệt sâu sắc, tổ chức triển khai
thực hiện có hiệu quả trong những năm tới.
Nhìn lại 35 năm đổi mới và nhiệm kỳ Đại
hội XII của Đảng, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, tình hình thế giới, khu vực
diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định; cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn diễn ra gay gắt; các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng
nghiêm trọng hơn. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo
đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; các thế lực thù địch, phản động tăng
cường chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, chống phá Quân đội ta
ngày càng tinh vi, thâm hiểm, công khai, trực diện hơn.
Trong bối cảnh như vậy, Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc quán
triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; tập trung củng cố, tăng
cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, xây dựng Quân đội nhân dân “Cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, giành được những kết quả quan trọng,
đạt được mục tiêu bao trùm: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an
toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”(2).
Tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân
lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước có thể huy động
để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng(3). Tiềm lực quốc
phòng là vấn đề rất quan trọng, tạo nền tảng cho việc củng cố, nâng cao sức
mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng, việc tăng cường tiềm lực quốc phòng đã có những đột phá quan trọng trong tư
duy và tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tạo ra nguồn lực
tổng hợp bảo đảm tốt nhất cho nhiệm vụ quốc phòng trong bối cảnh đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ
Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, toàn diện, có chiều sâu về tiềm lực
quốc phòng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị - tinh thần, kinh tế, khoa học,
công nghệ và quân sự. Trong lĩnh vực
chính trị - tinh thần, đã phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh
thần đoàn kết, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân”. Thế trận quốc phòng toàn dân
và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm
được củng cố vững chắc; tiềm lực, sức mạnh của khu vực phòng thủ các
cấp được nâng lên, bảo đảm tính độc lập, tự lực, tại chỗ, liên kết chặt
chẽ, thực hiện được mục tiêu “làng giữ làng, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh”, đáp ứng yêu cầu phòng thủ gắn với phát triển kinh tế - xã
hội trên từng địa bàn và cả nước. Quân đội luôn phát huy tốt vai
trò xung kích, nòng cốt, kịp thời có mặt ở những nơi xung yếu, gian khó,
hiểm nguy, cùng với nhân dân phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ,
cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời
sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới..., góp phần thắt chặt mối quan
hệ đoàn kết quân - dân, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc, làm
đẹp thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.
Trong lĩnh vực
kinh tế, cùng với việc duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao so với khu vực và thế giới (bình quân 5 năm đạt 6,7%),
Đảng, Nhà nước ta chú trọng tăng cường tiềm lực kinh tế quân sự; “kết hợp có
hiệu quả quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(4). Quốc phòng, an ninh chiếm vị trí ngày
càng tương xứng trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển
kinh tế - xã hội ở từng địa phương, trong các ngành, các thành phần kinh tế và
trên phạm vi cả nước. Thực hiện quan điểm của Đảng: “Mỗi bước phát triển kinh
tế - xã hội là một bước tăng cường quốc phòng, an ninh”, chúng ta đã bước đầu
khắc phục một số hạn chế, thiếu sót được chỉ ra tại Đại hội XII của Đảng, nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo.
Trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ, thành tựu của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực quân sự, quốc
phòng; chú trọng phát triển nền khoa học, nghệ thuật quân sự và nền công nghiệp
quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng. Trong lĩnh vực quân sự, lực lượng vũ
trang được chú trọng phát triển toàn diện, lấy vững mạnh về chính trị làm cơ sở
để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Công tác huấn luyện,
diễn tập được chú trọng hơn; các lực lượng quân đội được trang bị vũ khí,
phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại, ưu tiên một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, làm chủ công nghệ hiện đại; nâng cao khả
năng tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, thềm lục địa và không
gian mạng, phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Tổ chức, biên
chế của Quân đội được điều chỉnh theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; lực lượng dân
quân tự vệ phát triển cả về số lượng và chất lượng; lực lượng dự bị động viên
ngày càng hùng hậu...
Thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ
chức, triển khai, bố trí lực lượng, tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ
theo kế hoạch thống nhất, phù hợp với chiến lược bảo vệ Tổ quốc để ngăn ngừa,
đối phó thắng lợi với mọi âm mưu và hoạt động chống phá của thế lực thù địch, sẵn sàng chuyển đất nước từ thời bình sang
thời chiến(5). Thực hiện Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng, thế trận quốc phòng toàn dân đã gắn kết chặt chẽ với thế trận
an ninh nhân dân; thế bố trí chiến lược quốc phòng được quy hoạch, điều chỉnh
phù hợp với chiến lược bảo vệ Tổ quốc và chiến lược, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội. Sự gắn kết giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng chặt
chẽ, tạo nên thế trận quốc phòng, an ninh, đối ngoại vững chắc, đáp ứng yêu cầu
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố, khả năng phòng thủ quốc gia cả trên đất liền, trên không, biển, đảo
và không gian mạng được nâng cao. Từng bước xây dựng, hoàn thiện hệ thống công
trình phòng thủ, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, hệ thống phòng thủ
dân sự..., bảo đảm cho sẵn sàng tác chiến và phòng, tránh, khắc phục
hậu quả chiến tranh, thiên tai, thảm họa. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường
tuần tra biên giới, cơ bản hoàn thành xây dựng đường Trường Sơn Đông. Đảng
lãnh đạo Nhà nước và cả hệ thống chính trị thực hiện việc huy động nhiều nguồn
lực ở trong nước và ngoài nước nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp, tăng cường tiềm
lực quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nền công nghiệp quốc phòng không ngừng phát triển toàn diện, cả bề rộng lẫn
chiều sâu...
Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều
nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân cơ bản là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn,
sáng suốt của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự vào cuộc
của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc của Đảng có những bước phát triển quan trọng. Việc chỉ
đạo xây dựng và ban hành hệ thống các chiến lược chuyên ngành về quân sự, quốc
phòng(6); bổ sung và
ban hành Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Lực lượng dự bị động viên, Nghị quyết
số 130/2020/QH14, ngày 13-11-2020, “Về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam cùng với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa IX, khóa XI, đã tạo nên chỉnh thể thống nhất, toàn diện về chiến lược bảo
vệ Tổ quốc cả trên bình diện lý luận và thực tiễn. Trong tổ chức thực hiện,
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có những bước đột phá quan trọng trong lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân; đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành
phố; chuẩn bị lực lượng vũ trang, tăng cường lực lượng, tiềm lực và thế trận
quốc phòng,...
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhận thức
của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung,
về tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng nói riêng, còn hạn chế. Công tác
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có nơi hiệu quả chưa cao. Việc kết hợp giữa
thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân; giữa phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên một
số địa bàn, lĩnh vực chưa thật chặt chẽ; hoạt động của các khu kinh tế - quốc
phòng có lúc, có nơi chưa thực sự hiệu quả, kết quả một số mặt chưa đạt yêu cầu
đề ra; đầu tư cơ sở vật chất cho xây dựng thế trận, khu vực phòng thủ, phát
triển khoa học và công nghệ có mặt còn hạn chế.
2- Sau 35 năm đổi mới, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục có những diễn biến
rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương
thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia
tăng; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia; cạnh tranh chiến lược
giữa các nước lớn; không gian chiến lược mới; các loại hình tác chiến mới...
đặt ra những thách thức đối với hòa bình, ổn định trên thế giới và khu vực. Các
yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là khủng bố, thiên tai, dịch bệnh tiếp
tục diễn biến phức tạp... Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công
nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực quân sự, quốc phòng. Việc xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, các
loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại cùng với sự thay đổi môi trường
chiến lược đã tác động, làm thay đổi cơ bản tổ chức quân đội, hình thái, phương
thức tiến hành chiến tranh. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam
Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược
giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn
định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước
những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng
hợp quốc gia, tiềm lực, uy tín và vị thế của đất nước trên trường quốc tế, niềm
tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền
đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta
đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn. Các thế lực thù địch đẩy mạnh
chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng nước ta, nhằm xóa bỏ sự
lãnh đạo của Đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, chia rẽ mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân, Đảng với Quân đội... Tất cả những vấn đề này đặt ra yêu
cầu mới đối với nhiệm vụ tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ
những nhiệm vụ trọng yếu để tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới là: “Phát huy cao nhất sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh
thời đại”(7); “Tăng cường
tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận
lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(8). Để tăng cường tiềm lực, thế trận quốc
phòng theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần chú trọng thực
hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng
cao nhận thức về tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; sức mạnh tổng
hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại; sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, nòng cốt là lực lượng vũ trang. Đây là quan
điểm thể hiện tư duy mới của Ðảng, là định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn
dân và toàn quân triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, Đảng ta chủ trương: “Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và
người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc”(9); đồng thời, khắc phục những biểu hiện chủ
quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt. Nhận thức rõ
vai trò của quốc phòng, an ninh đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong
thời bình, có quan điểm chủ quan cho rằng, kinh tế mạnh ắt sẽ có tiềm lực và
thế trận quốc phòng mạnh...; điều này chi phối rất lớn đến ý thức xây dựng tiềm
lực và thế trận quốc phòng. Vì thế, trên cơ sở thấu suốt quan điểm: “Phát triển
kinh tế - xã hội là
trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”, cần nâng cao
hiệu quả tuyên truyền, giáo dục và đưa công tác này đi vào thực chất; mở rộng
đối tượng, phạm vi và đa dạng hóa hình thức, phương pháp công tác tuyên truyền,
giáo dục, phát huy có hiệu quả các phương tiện truyền thông, đồng thời phát huy
vai trò của các lực lượng chuyên trách trong công tác tuyên truyền, giáo dục.
Tập trung tuyên truyền, giáo dục trước hết cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp,
các ngành, các thành phần, lực lượng, để thống nhất nhận thức và hành động, kịp
thời khắc phục những nhận thức lệch lạc đã được Đại hội XIII của Đảng chỉ ra.
Thứ hai, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong xây dựng tiềm
lực và thế trận quốc phòng.
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý tập trung,
thống nhất về quân sự, quốc phòng là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt quá trình
cách mạng nước ta. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự
quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(10). Trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, Đảng ta luôn trung
thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức sự
nghiệp củng cố quốc phòng. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là giải pháp cơ bản, nhằm xây dựng tiềm
lực và thế trận quốc phòng trong thời kỳ mới. Trong quá trình đó, cần tiếp tục
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy để
phù hợp với thực tiễn cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các ban, ngành ở Trung ương và địa phương
cần thấu suốt, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các chiến
lược và hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng, tạo cơ sở để triển khai tổ
chức thực hiện thắng lợi, có hiệu quả việc tăng cường tiềm lực và thế trận quốc
phòng trong tình hình mới. Quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tiềm lực và thế
trận quốc phòng phải toàn diện, không coi nhẹ tiềm lực nào; nghiêm túc, chặt
chẽ, tránh mọi biểu hiện phô trương, hình thức ở tất cả các cấp, các ngành, các
vùng, miền, địa phương, chú trọng hơn đến các địa bàn chiến lược, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo.
Thứ ba, nâng cao hơn
nữa hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng các yếu tố trong
tiềm lực và thế trận quốc phòng.
Về tiềm lực
chính trị - tinh thần, cần chú trọng hơn việc xây
dựng lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và công
cuộc đổi mới. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI
về “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ”, chăm lo xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới, biển, đảo, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, rút ngắn
khoảng cách giữa các vùng, miền. Mở rộng dân chủ theo phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nâng cao hiệu quả
đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và coi đây là nội dung căn bản, một yếu tố
có tính quyết định trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần hiện
nay. Về tiềm lực
kinh tế, xây dựng tiềm lực kinh tế của nền
quốc phòng toàn dân cần được thực hiện thông qua kết hợp chặt chẽ giữa phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh; gắn phát
triển kinh tế - xã hội với xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố theo
quy hoạch, kế hoạch; xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng tại những địa bàn
chiến lược, trọng điểm. Về tiềm lực khoa học và công nghệ, việc xây
dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của nền quốc phòng toàn dân phải gắn chặt
với sự phát triển của khoa học và công nghệ, trên cơ sở đó ứng dụng có hiệu quả
vào thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Về tiềm lực quân sự, đây là yếu tố nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, được xây dựng trên
nền tảng của các tiềm lực khác, thể hiện ở khả năng duy trì, hoàn thiện và phát
triển sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị lực lượng
vũ trang, ở nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ cho nhiệm vụ quân sự. Do
đó, xây dựng tiềm lực quân sự phải gắn chặt với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, khoa
học và công nghệ, văn hóa - tư tưởng...
Thứ tư, tiếp
tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về tăng cường tiềm lực và
thế trận quốc phòng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
Cơ chế, chính sách là yếu tố rất quan
trọng, là căn cứ để thực hiện tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng. Những
năm qua, việc bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về tăng cường tiềm lực và
thế trận quốc phòng được chú trọng, đã tháo gỡ không ít khó khăn, vướng mắc,
khắc phục được nhiều hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực hiện, nhất là ở
địa bàn trọng yếu, chiến lược, biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa. Tuy
nhiên, tình hình mới đặt ra yêu cầu phải bổ sung nhiều nội dung cho phù hợp với
thực tiễn và tháo gỡ những điểm nghẽn, gây cản trở việc tăng cường tiềm lực và
thế trận quốc phòng, như trong huy động lực lượng, trong kết hợp các thành phần
kinh tế, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, đối
ngoại. Theo đó, cần quán triệt quan điểm của Đảng trong xây dựng pháp luật, cơ
chế, chính sách về tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng theo hướng tinh,
gọn, chặt chẽ, đồng bộ, tránh chồng chéo và quan trọng nhất là không gây cản
trở, phức tạp, khó khăn cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Rà soát, kịp
thời trình Quốc hội, Chính phủ bổ sung, ban hành cơ chế, chính sách, các văn
bản hướng dẫn để tổ chức thực hiện. Việc bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách
không chỉ căn cứ vào thực tiễn, mà còn phải căn cứ vào mục tiêu, chỉ tiêu và
những định hướng lớn trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 -
2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 do Đại hội XIII
của Đảng đề ra, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các cấp.
Thứ năm, phát huy vai
trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong tăng cường tiềm lực và thế trận quốc
phòng.
Tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng
là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó lực lượng vũ
trang giữ vai trò nòng cốt. Vì thế, cần phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân trong tham mưu, đề xuất chủ trương, giải pháp, tổ chức
thực hiện; tham gia thẩm định, quản lý, sử dụng đất quốc phòng và phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, nhất là ở
các địa bàn chiến lược, trọng yếu, biên giới, biển, đảo, bảo đảm giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên phạm vi cả nước và từng địa bàn.
Các đơn vị quân đội cần thường xuyên
nghiên cứu địa bàn, kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền các địa phương
trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác quốc phòng địa phương,
triển khai có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, đề án quốc phòng, an
ninh; tham mưu xây dựng các công trình chiến đấu theo kế hoạch phòng thủ, nhất
là tuyến biên giới, biển, đảo. Phát huy vai trò các đơn vị quân đội là “đội
quân công tác” trên các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự; tích
cực tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Thứ sáu, đẩy
mạnh công tác đối ngoại và hợp tác quốc phòng trong tăng cường tiềm lực và thế
trận quốc phòng.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số
22-/NQ-TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế” và Nghị
quyết số 806/NQ-TW, ngày 31-12-2013, của Quân ủy Trung ương, về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng
đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(11), vì thế, thời gian tới, các cấp, các
ngành cần đẩy mạnh hợp tác, khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực từ bên ngoài để
tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng. Trong xu thế hội nhập quốc tế, sức
mạnh thời đại và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế có vai trò vô cùng to lớn đối với
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng
nói riêng. Để tranh thủ sức mạnh thời đại và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế nhằm
tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, ngoài việc gia tăng đan cài lợi
ích, mở rộng đối ngoại, Việt Nam cần phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với
tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác
toàn diện. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng; tham
gia tích cực và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề của khu vực và thế
giới, trong đó có hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tranh thủ sự
giúp đỡ và đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế là những yếu tố rất quan trọng
để tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong
tình hình mới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét