Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn
ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân
tộc hẹp hòi, kỳ thị dân tộc và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội
phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu
số.
Đảng và Nhà nước thực hiện một chiến lược kinh
tế chung trong đó ưu tiên đúng mức cho sự phát triển kinh tế ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số còn lạc hậu. Thực hiện điều đó vừa đáp ứng yêu cầu khai thác
tiềm năng to lớn của các vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn lạc hậu, vừa đáp
ứng yêu cầu xoá bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các
dân tộc, các vùng để các dân tộc thực sự bình đẳng và hoà hợp với nhau hơn. Tạo
điều kiện cho các dân tộc thiểu số có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhưng
bằng những hình thức, bước đi phù hợp với đặc điểm dân tộc. Phát huy hiệu quả
của sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, trong đó đánh giá đúng mức vai trò
tác dụng sự giúp đỡ của các dân tộc đa số, có trình độ phát triển cao hơn đối
với các dân tộc thiểu số còn ở trình độ lạc hậu. Thực hiện tốt việc giao đất,
giao rừng cho các hộ gia đình, tạo điều
kiện cho nhân dân chủ động sản xuất, gắn bó với đất, với rừng. Chương trình cấp
Nhà nước về định canh, định cư cần được đầu tư thoả đáng và tổ chức thực hiện
tốt (hiện nay trong cả nước còn 1 triệu người sống du canh, du cư). Trên cơ sở
phát triển kinh tế, công cuộc cải tạo và phát triển về mặt xã hội ở các vùng
dân tộc thiểu số cần gắn chặt với việc thực hiện chương trình phân bổ lại lao
động xã hội để hình thành một cơ cấu xã hội dân cư mới ở các vùng này. Điều đó
có ý nghĩa xã hội cực kỳ quan trọng, nó sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy
bước tiến của các dân tộc thiểu số còn đang ở trình độ lạc hậu. Quan tâm đến sự
phát triển văn hoá, giáo dục của mỗi dân tộc, tạo điều kiện để thực hiện xoá mũ
chữ, phổ cập giáo dục cũng như tạo điều kiện cho từng dân tộc khai thác, phát
huy các giá trị văn hoá của dân tộc mình bằng khả năng sẵn có. Đồng thời bằng
nhiều hình thức, thúc đẩy một cách hợp
lý quá trình giao lưu, hoà hợp tinh hoa văn hoá của các dân tộc mà tác dụng của
nó vừa làm cho nền văn hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam đậm đà bản sắc dântộc được
thúc đẩy mạnh mẽ. Thực hiện và bảo đảm về mặt pháp lý quyền bình đẳng giữa các ngôn ngữ trên lãnh thổ Việt Nam, tạo
điều kiện để có được quyền bình đẳng thực tế của các ngôn ngữ. Nội dung quyền
bình đẳng giữa các ngôn ngữ được thể hiện ở chỗ các dân tộc được quyền sử dụng
ngôn ngữ của mình trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, các phạm vi giao tiếp, từ nội bộ các dân tộc
đến ngoài xã hội, trong giáo dục, trên các phương tiện thông tin đại chúng,
trước toà án, trên các giấy tờ hành chính
cũng như thư tín cá nhân…; đồng thời, có chính sách tích cực để phổ biến nhanh chóng và sâu rộng ở trình
độ cao ngôn ngữ phổ thông- tiếng việt- trong tất cả các dân tộc thiểu số ở nước
ta. Tiếng Việt là ngôn ngữ chung, ngôn
ngữ quốc gia của tất cả các dân tộc, là phương tiện giao lưu văn hoá giữa các
dân tộc ở Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới. Quan tâm đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý, văn hoá, khoa học… cho từng dân tộc; đồng thời giáo dục tinh
thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc, bởi vì chỉ tinh thần đó mới phù
hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển dân tộc và xây dựng đất
nước. Trong công cuộc đó, không dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ
xuất thân từ dân tộc mình, ngược lại, cần sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đội ngũ
cán bộ thuộc mọi dân tộc trong cả nước. Đưa vào vị trí trung tâm của công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng việc giáo dục cho nhân dân các dân tộc lòng tự hào
chân chính về dân tộc mình, đồng thời giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, yêu mến
Tổ quốc Việt nam, tinh thần quốc tế chân chính. Đấu tranh chống mọi biểu hiện
của chủ nghĩa dân tộc, thái độ hư vô, xem nhẹ vấn đề dân tộc, tâm lý tự cao của
dân tộc lớn; tâm lý hẹp hòi, khép kín của dân tộc nhỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét