Ngày nay, trong thời đại thông tin bùng nổ, mạng xã hội đã trở nên phổ biến với mọi người dân, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên. Tận dụng ưu thế của mạng xã hội, nhiều cán bộ, đảng viên sử dụng mạng xã hội như một phương thức có hiệu quả trong công việc cũng như trong cuộc sống, biến mạng xã hội thành công cụ hữu ích. Thông qua mạng xã hội, có thể nhanh chóng chia sẻ, trao đổi, nhận biết thông tin. Nhiều cán bộ, đảng viên biết tận dụng mạng xã hội để chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm công tác; thông tin, tuyên truyền, quảng bá các hoạt động, hình ảnh của Đảng, Nhà nước, địa phương, đơn vị đến với Nhân dân; mạng xã hội cũng là công cụ đắc lực trong việc đổi mới, nâng cao chất lượng trong điều tra, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ cho công tác tuyên giáo…
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy vẫn còn hiện tượng một số cán
bộ, đảng viên sử dụng mạng xã hội khá tùy tiện, gây ảnh hưởng không tốt hình
ảnh, lợi ích của cá nhân, tổ chức, địa phương. Không ít trường hợp cán bộ, đảng
viên dùng mạng xã hội để nói xấu, xúc phạm, miệt thị người khác bằng loại ngôn
từ thiếu văn hóa; đăng tải, chia sẻ thông tin độc hại, bịa đặt, xuyên tạc,
không kiểm chứng nguồn gốc, không bảo đảm tính chính xác; đăng tải những nội
dung mang tính bất mãn, gây mất đoàn kết... Nhiều trường hợp cán bộ, đảng viên
đã bị cơ quan chức năng nhắc nhở, xử phạt hành chính, thậm chí bị cách chức,
khai trừ khỏi Đảng...
Thực tế này cho thấy việc xử phạt các sai phạm trên không gian
mạng nói chung, và việc truy cứu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên để xảy ra
sai phạm khi tham gia mạng xã hội nói riêng cần phải nghiêm khắc, kiên quyết
hơn nữa, để mỗi người luôn ý thức rằng bản thân là cán bộ, đảng viên thì càng
phải có trách nhiệm cao trong tự giác điều chỉnh nhận thức và hành xử đúng đắn
trên môi trường mạng.
Ðến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định
quyền tự do thông tin của công dân và trách nhiệm của người dân khi sử dụng
internet nói chung và mạng xã hội nói riêng như: Luật Báo chí năm 2016; Luật
Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật An ninh mạng năm 2018; Nghị định số
72/2013/NÐ-CP quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên
mạng; Nghị định số 174/2013/NÐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện; Quy
định về những điều đảng viên không được làm…Tuy nhiên, đối với những văn bản
luật này vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa chịu khó tiếp
cận, nghiên cứu, nên vẫn còn có sự hiểu biết mập mờ, dẫn đến sự thiếu trách
nhiệm và dễ sai phạm trong sử dụng mạng xã hội. Vậy nên, các địa phương, cơ
quan, đơn vị cũng cần thiết phải nghiên cứu, ban hành văn bản quy định về việc
tham gia mạng xã hội của cán bộ, đảng viên trong phạm vi điều chỉnh của mình.
Thủ trưởng cơ quan, đơn vị; cấp ủy; các tổ chức đoàn thể cần
nâng cao trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, định hướng, theo dõi, nhắc nhở cán
bộ, đảng viên, đoàn viên về những nguyên tắc cần tuân thủ khi tham gia mạng xã
hội; đồng thời, có biện pháp xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm theo quy
định.
Và quan trọng nhất là
mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực nghiên cứu và tuân thủ nghiêm túc các quy
định hiện hành của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và cơ quan, đơn vị
mình đang công tác khi tham gia mạng xã hội; phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
trước pháp luật, tổ chức nếu sai phạm trong quá trình tham gia. Khi tham gia
mạng xã hội phải lan tỏa các nội dung, hình ảnh tích cực, có tính tuyên truyền,
giáo dục cao....Sử dụng mạng xã hội để trao đổi, chia sẻ, chuyển tải các nội
dung thông tin phục vụ nghiệp vụ công tác. Xây dựng quan điểm, lập trường vững
vàng; chung tay, góp sức nhận diện, phản bác, đấu tranh với các âm mưu, thủ
đoạn và các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động
trên không gian mạng. Làm được
những điều trên thì mạng xã hội sẽ trở thành công cụ hữu ích cho mỗi người
trong thời đại mới.
-
St-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét