Tính đến 01/4/2019, dân tộc Kinh chiếm 85,3% dân
số; 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,7% dân số cả nước. Các dân tộc thiểu số có 6
dân tộc có số dân 1 triệu người trở lên như: Tày, Thái, Mường, Nùng, Mông, Khơ
me; 33 dân tộc có dân số từ 10 nghìn người đến 1 triệu người; 14 dân tộc có
dưới 10 ngìn người, trong đó có một số dân tộc chỉ có mấy trăm người như dân
tộc: Ơ đo, Pu péo, Si la, Brâu, Rơ măm...Các
dân tộc sống ở vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các
dân tộc ít người sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Hiện nay có một số dân tộc
đạt trình độ phát triển tương đối cao như Tày, Thái, Mường, Nùng, Ngái, Sán Dìu...
Các dân tộc này biết canh tác ruộng nước, biết sản xuất hàng hoá, cư trú ở vùng
thấp, đô thị. Một số dân tộc có trình độ
phát triển thấp như La hủ, Cống, Mảng, Chứt..., do sống bằng canh tác nương
rẫy, tự cung, tự túc, cư trú ở vùng cao khó khăn, vùng sâu, vùng xa, quen với
cuộc sống du canh, du cư...Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự
nhiên nên các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế xã hội không
đều nhau.Bên cạnh đó còn có nguyên nhân chủ yếu là do hậu quả của sự áp bức,
bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước phải liên tục đối phó với
chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Đây là nguồn gốc của sự không bình đẳng
giữa các dân tộc trên thực tế. Giải quyết hậu quả lịch sử này phải có quá trình
phấn đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân tộc từng bước tiến kịp
trình độ chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét