Ngoại giao đa
phương là một hình thức hoạt động ngoại giao, trong đó có sự tham gia của ba
chủ thể trở lên trong quan hệ quốc tế (chủ yếu là quốc gia - dân tộc) vào quá
trình đàm phán, thương lượng, ra quyết sách trong cùng một thời điểm và đáp ứng
nhiều đòi hỏi khác nhau trước một vấn đề cụ thể. Các mô thức ngoại giao đa
phương chủ yếu và mang tính phổ quát hiện nay là tổ chức quốc tế (với các tính
chất khác nhau từ những tổ chức mang tính cộng đồng chung, liên minh đến những
tổ chức mang tính hợp tác với những cam kết đơn giản; ở các cấp độ khác nhau,
như khu vực, liên khu vực, toàn cầu; với các lĩnh vực đa dạng: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội...); các diễn đàn, hiệp hội (tính chất và quy mô đa dạng
nhưng ràng buộc lỏng lẻo hơn); các phong trào, các hội nghị, cuộc họp, hội
thảo... (quy mô đa dạng, ít ràng buộc nhằm giải quyết một hoặc một vài vấn đề,
mang tính ngẫu hứng hoặc thường niên).
Trong ngoại giao
đa phương, lợi ích luôn là yếu tố quy định hành vi của chủ thể. Với mỗi thời
điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, các quốc gia có lợi ích khác nhau, dẫn tới
hình thành động cơ thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể, thời điểm sử dụng mô
thức ngoại giao đa phương khác nhau trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, chủ thể
quan hệ quốc tế (cơ bản nhất là quốc gia - dân tộc độc lập có chủ quyền) tham
gia ngoại giao đa phương khá sôi động, cho thấy ngoại giao đa phương đang đáp
ứng được những lợi ích của các chủ thể. Một điểm đáng chú ý trong ngoại giao đa
phương là tương quan lực lượng và thực lực quốc gia. Đây là nền tảng quan trọng
của trật tự thế giới và là cơ sở để định hình “sân chơi” và nguyên tắc ứng xử
(“luật chơi”) trong quan hệ quốc tế nói chung và ngoại giao đa phương nói
riêng; đóng vai trò không nhỏ trong việc quyết định hành vi và tầm ảnh hưởng
trong quá trình đàm phán. Thêm vào đó, thực lực quốc gia - nhân tố được coi là
cơ sở của việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại - cũng quyết định
hành vi của quốc gia trong ngoại giao đa phương. Vì vậy, các nước lớn có hành
vi theo hướng chi phối và “bao cấp” cho thể chế đa phương, còn các nước nhỏ thì
hành động theo hướng chấp nhận, tuân thủ và “ăn theo”.
Bên cạnh đó,
hành vi của quốc gia cũng phụ thuộc vào mức độ thể chế hóa của các tổ chức đa
phương. Tổ chức đa phương có mức độ thể chế hóa cao sẽ có khả năng cao hơn
trong việc buộc các nước phải tuân thủ luật lệ và ngược lại, mức độ thể chế hóa
thấp sẽ làm xu hướng không tuân thủ luật lệ xảy ra cao hơn.
“Luật chơi”
(nguyên tắc, quy định) của các thể chế đa phương quốc tế cũng thúc đẩy hoặc tác
động đến hành vi của các quốc gia. Các mô thức ngoại giao đa phương khác nhau
sẽ có “luật chơi” khác nhau. Nhưng điểm chung của các mô thức ngoại giao đa
phương là sản phẩm hay kết quả chính là các thỏa thuận quốc tế đa phương. Các
thỏa thuận này là “luật chơi” ràng buộc hành vi tiếp theo của chủ thể trong
ngoại giao đa phương. Vì vậy, trong quá trình hình thành “luật chơi”, quốc gia
nào được tham gia đàm phán và đưa ra ý tưởng được chấp nhận và ghi nhận ý tưởng
trong sản phẩm cuối cùng của ngoại giao đa phương, quốc gia đó sẽ khẳng định
được lợi ích và vị thế của mình trong “sân chơi” đa phương này. Đây sẽ là cơ sở
quan trọng để quốc gia thuận lợi hóa môi trường cho hành vi tương lai. Song, do
chủ quyền của quốc gia, sự chưa hoàn thiện của thể chế và khả năng đáp ứng nhu
cầu của các bên trong các thỏa thuận quốc tế đa phương nên “luật chơi” của các
thể chế đa phương chỉ ràng buộc một phần hành vi của quốc gia, bởi khi cần
thiết chủ thể (quốc gia) sẽ viện dẫn lý do chủ quyền và lợi ích quốc gia để có
thể bỏ qua những “luật chơi” này.
Trên thực tế,
hành vi của các chủ thể khá đa dạng. Song, tựu chung chủ thể tham gia ngoại
giao đa phương theo ba dạng hành vi cơ bản sau: 1- Các chủ thể thành viên phải
chấp nhận và tuân thủ theo “luật chơi” chung (rule taker); 2- Vận dụng “luật
chơi” hoặc kẽ hở luật pháp để tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc mình (rule
manipulator); 3- Thay đổi, điều chỉnh hoặc xây dựng “luật chơi” mới để thích
ứng với vị thế và thực lực mới (rule maker hoặc shaper). Các chủ thể có thể
thay đổi hành vi của mình tùy theo lợi ích, tương quan lực lượng, “luật chơi”
và “sân chơi” đa phương trong những thời điểm và vấn đề khác nhau. Ngoài ra,
một chủ thể trong một thời điểm có thể có một hoặc hai, thậm chí có đủ cả ba
hành vi ở những hoạt động ngoại giao đa phương khác nhau.
Trong thế kỷ
XXI, quan điểm và hoạt động ngoại giao đa phương của hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều phong phú, rõ nét và mang tính đặc thù. Chẳng hạn, Mỹ theo
đuổi chủ nghĩa đa phương có lựa chọn và chủ nghĩa đa phương hiệu quả với quan
điểm xây dựng một hệ thống đa phương do Mỹ và các nước phương Tây dẫn dắt để có
thể gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác. Ngoại giao đa phương của Mỹ tồn tại
cùng ngoại giao song phương và mang tính thực dụng. Mỹ lựa chọn phát triển hay
cầm chừng hoặc từ bỏ hoạt động ngoại giao đa phương theo sự tính toán về lợi
ích của họ với các thời điểm khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong hành vi
ngoại giao đa phương của Mỹ trên thực tế có xu hướng áp đặt “luật chơi” để bảo
đảm lợi ích quốc gia, song Mỹ cũng sẵn sàng rời bỏ tổ chức đa phương cũ, khởi
xướng thể chế đa phương mới cũng vì lợi ích quốc gia.
Nga luôn
chủ trương gắn bó sâu sắc với các nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương. Nga chú
trọng các cơ chế đa phương như một dạng tập hợp lực lượng để nhằm phục hưng đất
nước và ngăn chặn ảnh hưởng của phương Tây. Ngoại giao đa phương của Nga phân
tán về chiều rộng từ cấp độ toàn cầu, khu vực tới tiểu khu vực, mang tính lựa
chọn với các quan điểm: 1- “Lãnh đạo tập thể của những quốc gia hàng đầu” cùng
có trách nhiệm giải quyết các vấn đề toàn cầu, khác với quan điểm lãnh đạo của
một siêu cường; 2- Trong ngoại giao đa phương, chính sách đa phương cần được
đàm phán giữa các bên liên quan và Nga không chấp nhận một quyết định nào mà
chưa được thông qua (chẳng hạn những quyết định của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại
Tây Dương hoặc Liên minh châu Âu mà Nga không tham gia sẽ không có giá trị); 3-
Ngoại giao đa phương cần trở thành nền tảng, phản ánh sự phân chia quyền lực
trong một thế giới đa cực đang nổi lên, bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin, mà
Nga hết sức chú trọng.
Trung Quốc hiện
đang thể hiện cách tiếp cận mạnh mẽ và phổ biến về ngoại giao đa phương, nhất
là với các tiểu vùng, khu vực và các tổ chức lớn, đa dạng trong nhiều lĩnh vực.
Trung Quốc bắt đầu khẳng định vị thế, sức mạnh và sự dẫn dắt của mình trong
nhiều thể chế đa phương qua sự tham gia tích cực vào các cơ chế bằng các sáng
kiến đa phương, sự đầu tư và đóng góp, thể hiện sự gánh vác trách nhiệm, tham
gia quản trị toàn cầu, phát huy “sức mạnh mềm” của Trung Quốc. Trung Quốc đưa
ra chủ thuyết về một thế giới hài hòa, trong đó vai trò của các tổ chức đa
phương được đề cao - cùng hợp tác để cùng thịnh vượng, cần tôn trọng sự đa dạng
về văn hóa và hệ thống chính trị, các quốc gia đang phát triển có nhiều quyền
quyết định hơn. Trung Quốc tích cực triển khai các hoạt động đa phương, truyền
bá những tư tưởng mới, đưa ra thông điệp mới về xây dựng một thế giới hài hòa,
dân chủ, kiến tạo một trật tự kinh tế thế giới mới, đặc biệt Trung Quốc nêu
quan điểm không tham gia liên minh.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét