Sau 40 năm đổi mới, Việt
Nam đã tích lũy được nền tảng thế và lực, hội tụ đủ những điều kiện cần thiết
để đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ hiện thực hóa mục tiêu
chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10, khóa XIII đã nhận định như vậy. Báo
Quân đội nhân dân đã tiến hành phỏng vấn các chuyên gia về những định hướng
chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện khát vọng hùng cường, thịnh
vượng của dân tộc.
Trong bối cảnh đất nước
đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, việc nhận thức sâu sắc về ý nghĩa
và tầm quan trọng của thời kỳ này là vô cùng cần thiết. Để hiểu rõ hơn về vấn
đề này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Phòng, Giảng
viên cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Viện trưởng Viện
Triết học, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Phóng viên: Thưa GS, TS
Trần Văn Phòng, chúng ta đang đứng trước cơ hội lịch sử để đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp phát triển, hiện thực hóa khát vọng hùng cường, thịnh
vượng. Điều này đặt ra cho Đảng ta vấn đề gì về nội dung, phương thức lãnh đạo?
GS, TS Trần Văn Phòng:
Xin cảm ơn câu hỏi của đồng chí. Việc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10, khóa
XIII đặt ra quyết tâm chuẩn bị thật tốt cho Đại hội XIV của Đảng, nhằm sớm đạt
được mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập
Nước có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, có tầm quan trọng đặc biệt trong
bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang trải qua những biến động lớn từ cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu và những thách
thức an ninh phi truyền thống, việc nhận thức đúng thời cơ, vận mệnh và hành
động kịp thời để đưa đất nước bước vào thời kỳ mới là nhiệm vụ cấp thiết.
Sau gần 40 năm đổi mới,
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ, quy mô GDP tăng đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng nâng cao. Đây chính là
"thế và lực" mới, tạo nền tảng vững chắc để chúng ta bước vào một
giai đoạn phát triển mới, là sự chuyển đổi về chất trong quá trình phát triển.
Chúng ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội chưa từng có, nhưng cũng đối
mặt với không ít khó khăn và thách thức từ bối cảnh quốc tế phức tạp và biến
động nhanh chóng, khó lường, khó dự báo.
Trong thời kỳ mới thì
Đại hội lần thứ XIV của Đảng sẽ là một dấu mốc quan trọng trên con đường phát
triển của đất nước. Bởi vậy, tại phiên họp Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của
Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm lưu ý, việc xây dựng Báo cáo chính trị lần này có ý nghĩa
rất quan trọng, phải thật sự có chất lượng, thật sự là cơ sở định hướng cho các
văn kiện khác, thậm chí là “ngọn đuốc soi đường” cho những kỳ đại hội tiếp
theo.
Nhận thức về thời kỳ mới
đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức thực
hiện thắng lợi. Đường lối ấy cần phải kết tinh trình độ lý luận, tầm cao trí
tuệ của toàn Đảng, niềm tin và khát vọng của cả dân tộc, phản ánh những quy
luật khách quan, xu thế vận động mới của thời đại và thực tiễn đất nước; kết
tinh toàn bộ tinh hoa, giá trị của quá khứ, hiện tại và hướng tới tương lai;
đưa đất nước đạt các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100
năm thành lập Nước; phải phản ánh đầy đủ thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, củng cố luận cứ vững chắc để định ra phương pháp cho Cách mạng Việt
Nam trong thời đại mới.
Phóng viên: Theo ông,
những yếu tố nào sẽ giữ vai trò nòng cốt, thúc đẩy đất nước phát triển, đạt
được các mục tiêu chiến lược trong thời kỳ mới?
GS, TS Trần Văn Phòng: Việt Nam đang
bước vào thời kỳ mới nhờ vào nhiều yếu tố quan trọng thúc đẩy. Sau 40 năm Đổi
mới, đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội đáng kể. Quy mô nền
kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, từ GDP 26,3 tỷ USD trong những năm đầu Đổi mới lên
đến 430 tỷ USD vào năm 2023. Thu nhập bình quân đầu người tăng 58 lần, đạt hơn
4.300 USD, và tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, chỉ còn 2,9% theo chuẩn nghèo đa
chiều. Việt Nam đã trở thành nước có quy mô nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN,
thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Những con số này không chỉ minh
chứng cho sự phát triển vượt bậc mà còn khẳng định vị thế mới của Việt Nam trên
bản đồ kinh tế thế giới.
Cùng với đó, vị thế và
uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Chúng ta đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 8 nước đối tác chiến lược toàn
diện, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Việt Nam đã
thiết lập đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược với tất cả 5 nước
Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tham gia tích cực vào hơn 70
tổ chức quốc tế và khu vực, ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) kết nối
với 60 nền kinh tế chủ chốt, đưa quy mô thương mại vào top 20 quốc gia trên thế
giới. Những nỗ lực hội nhập sâu rộng này đã biến Việt Nam thành điểm đến hấp
dẫn cho đầu tư quốc tế, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong
các lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn.
Sự ổn định chính trị và xã hội cũng là
yếu tố then chốt cho phát triển kinh tế bền vững. Môi trường chính trị ổn định,
xã hội an ninh, trật tự được bảo đảm nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng
sản Việt Nam, cùng với lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân, đã tạo ra môi
trường thuận lợi để triển khai các chính sách phát triển toàn diện trên tất cả
các mặt.
Khát vọng và quyết tâm
vươn lên của toàn dân tộc là động lực nội sinh mạnh mẽ. Tinh thần yêu nước, ý
chí tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cùng
với sự đồng lòng của hơn 100 triệu người dân Việt Nam, trong và ngoài nước, là
nguồn lực to lớn thúc đẩy quá trình phát triển.
Hơn nữa, Việt Nam đang tích cực tham
gia vào Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh
vực. Việc ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được coi là động lực
chính cho tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ mới. Lực lượng lao động trẻ, năng
động, sáng tạo, sẵn sàng tiếp thu kiến thức và công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu
của thị trường lao động hiện đại, là một lợi thế lớn. Việt Nam đã đầu tư mạnh
mẽ vào hạ tầng giao thông, năng lượng, viễn thông và hạ tầng số đã tạo nền tảng
cho phát triển kinh tế - xã hội, kết nối với khu vực và thế giới.
Cuối cùng, tinh thần
đoàn kết và hội nhập quốc tế sâu rộng tiếp tục được phát huy. Việt Nam duy trì
chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy và
là thành viên tích cực, chủ động, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Sự hợp
tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, hưởng lợi từ xu thế toàn cầu hóa và Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Phóng viên: Theo Giáo sư, mục tiêu
chiến lược của dân tộc trong thời kỳ mới này là gì?
GS, TS Trần Văn Phòng:
Với thế và lực đã đạt được, trong thời kỳ mới, ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là
thực hiện thành công hai mục tiêu 100 năm mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XIII đã đề ra. Cụ thể, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước
đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà XHCN Việt Nam: Trở thành nước phát
triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói khác đi, đến giữa
thế kỷ XXI, Việt Nam là nước phát triển, tạo nền tảng vững chắc bước vào thời
kỳ phát triển mới vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tầm nhìn
chiến lược này định hướng cho mọi hoạt động xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc
để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu tới phát triển bền vững.
Thứ ba, Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số mang đến cả cơ hội và thách thức. Nếu không
nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các công nghệ mới, chúng ta có nguy cơ bị tụt
hậu, mất đi lợi thế cạnh tranh. Sự thay đổi trong cơ cấu lao động, với việc tự
động hóa và trí tuệ nhân tạo thay thế nhiều công việc truyền thống, đòi hỏi
chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tập trung vào đào tạo kỹ năng
mới.
Phóng viên: Để đạt được những mục tiêu
chiến lược nêu trên, cần phải làm gì thưa Giáo sư?
GS, TS Trần Văn Phòng:
Để sớm đạt được mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm
thành lập Nước, cần nỗ lực thực hiện với ba ưu tiên đột phá chiến lược đã được
nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là thể chế, con người và cơ
sở hạ tầng.
Bên cạnh đó, những bài học kinh nghiệm
từ quá khứ cũng là nguồn tài sản vô giá giúp chúng ta định hướng đúng và thúc
đẩy sự phát triển của đất nước trong tình hình hiện nay. Để Việt Nam thành công
trong giai đoạn quan trọng này, chúng ta có thể tham khảo một số bài học quan
trọng đã được đúc kết từ lịch sử đấu tranh và xây dựng đất nước.
Trước hết, tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc là một trong những bài học quý báu nhất. Lịch sử đã chứng
minh rằng, mỗi khi dân tộc ta đồng lòng, chung sức, chúng ta đã vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, từ cuộc đấu tranh giành độc lập đến công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, việc củng cố và phát huy khối đại
đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự đoàn kết
không chỉ giữa các tầng lớp nhân dân, mà còn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân,
tạo nên sức mạnh tổng hợp để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước.
Thứ hai, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nguyên tắc nền tảng đã dẫn dắt
chúng ta qua nhiều giai đoạn lịch sử. Sự kiên định này giúp chúng ta giữ vững
định hướng phát triển, bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường
thuận lợi cho kinh tế và các lĩnh vực khác phát triển. Trong bối cảnh thế giới
biến động phức tạp, việc giữ vững lập trường, không dao động trước những thách
thức là yếu tố then chốt để đạt được những mục tiêu chiến lược đã đề ra.
Thứ ba, bài học về đổi
mới tư duy và sáng tạo từ công cuộc Đổi mới năm 1986 là minh chứng rõ rệt cho
sức mạnh của việc dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chính nhờ sự đổi mới
này, chúng ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở ra giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong
hơn ba thập kỷ qua. Trong thời kỳ mới, việc tiếp tục đổi mới, thúc đẩy sáng
tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số là cần thiết để bắt kịp xu
thế của thời đại và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Thứ tư, học hỏi kinh
nghiệm quốc tế và hội nhập sâu rộng là bài học quan trọng giúp Việt Nam tận
dụng cơ hội từ quá trình toàn cầu hóa. Việc tham gia tích cực vào các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, mở rộng quan hệ ngoại giao, kinh tế với nhiều quốc
gia đã giúp chúng ta tiếp cận thị trường, công nghệ và nguồn vốn mới. Tuy
nhiên, hội nhập cần đi đôi với việc giữ vững bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc,
độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia.
Thứ năm, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Lịch sử cho thấy, con người luôn là trung tâm của mọi sự phát triển.
Đầu tư vào giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động
sẽ tạo ra lực lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và nền kinh tế tri thức. Đồng thời, cần chú trọng bồi dưỡng đạo đức, lối
sống, khơi dậy khát vọng cống hiến, phát triển đất nước của toàn dân, trong đó
có thế hệ trẻ.
Thứ sáu, xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bài học từ
quá trình cải cách kinh tế. Một thể chế minh bạch, hiệu quả, công bằng sẽ tạo
môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, thu hút đầu tư, thúc đẩy sự
sáng tạo và đổi mới. Việc tiếp tục cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục,
chống tham nhũng, lãng phí là cần thiết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước.
Thứ
bảy, phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát
triển là bài học từ những hậu quả của phát triển thiếu bền vững. Chúng ta cần chú
trọng cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giải quyết những
vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, hướng tới phát triển bền
vững. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn phù hợp với xu hướng
toàn cầu, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tám, phòng chống
tham nhũng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là điều kiện tiên
quyết để duy trì niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái đạo đức, tư
tưởng sẽ tạo ra môi trường chính trị, xã hội lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế và xã hội.
Thứ chín, phát huy tinh
thần tự lực, tự cường và khát vọng phát triển là động lực nội sinh mạnh mẽ.
Lòng yêu nước, ý chí vươn lên, không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu đã giúp dân
tộc ta vượt qua nhiều thử thách trong lịch sử. Trong giai đoạn từ nay cho đến
năm 2045, việc khơi dậy và phát huy tinh thần này sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để
chúng ta vượt qua mọi khó khăn, hiện thực hóa khát vọng xây dựng một Việt Nam
hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cuối
cùng, tận dụng lợi thế địa chính trị và kinh tế của đất nước. Việt Nam có vị
trí chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, là cầu nối giữa các nền
kinh tế lớn. Việc khai thác hiệu quả lợi thế này sẽ giúp chúng ta thu hút đầu
tư, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao vai trò và ảnh hưởng trên trường quốc tế.
Tổng kết lại, những bài
học kinh nghiệm từ lịch sử và công cuộc Đổi mới là kim chỉ nam giúp chúng ta có
tầm nhìn mới, có định hướng đúng và hành động đúng trong thực hiện mục tiêu
chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước. Việc kết
hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa nội lực và ngoại lực, giữa giữ vững bản
sắc dân tộc và hội nhập quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp Việt Nam tự
tin tiến bước trên con đường phát triển. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự
đồng lòng của toàn dân, tôi tin tưởng rằng chúng ta sẽ đạt được những thành tựu
to lớn hơn nữa, đưa đất nước vững bước vào thời kỳ mới, xây dựng một Việt Nam
giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu
như mong muốn của Bác Hồ kính yêu!
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét