Thứ Ba, 5 tháng 11, 2024

PHẢN BÁC, PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VÀ NHẬN THỨC LỆCH LẠC VỀ NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH

 

Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc tổ chức, hoạt động và là quy luật tồn tại, phát triển của Đảng. Các thế lực thù địch luôn xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc này. Hơn nữa, khi một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện không nghiêm, hiệu quả thấp thì ngay trong nội bộ Đảng cũng xuất hiện những nhận thức lệch lạc về nguyên tắc này. Nhận diện đầy đủ để đấu tranh phản bác, phê phán, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nguyên tắc tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.

Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định vai trò quyết định của công tác xây dựng Đảng, trong đó “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”. Điều lệ Đảng đã xác định tự phê bình và phê bình trong Đảng là một trong 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.

Nghị quyết Trung ương 4 các khoá XI, XII và XIII đều xác định 3 nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng để tập trung những giải pháp khắc phục, trong đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ là vấn đề cấp bách nhất. Giải pháp đầu tiên được xác định và quán triệt trong cả 3 nghị quyết nêu trên đều nhấn mạnh nhiệm vụ tự phê bình và phê bình.

Trên thực tế, công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng được chú trọng, thực hiện nghiêm túc, bài bản, nền nếp, đem lại những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần khắc phục được những khuyết điểm trong mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, vẫn còn không ít nơi thực hiện hình thức, đối phó, hiệu quả thấp, từ đó, các thế lực thù địch luôn tìm cách xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận vai trò của nguyên tắc này; đồng thời xuất hiện những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc ngay trong cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên. Cụ thể là:

Thứ nhất, thiếu tin tưởng vào tác dụng của nguyên tắc tự phê bình và phê bình.

Ở một số cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu độc đoán, gia trưởng, thích xu nịnh, ít lắng nghe phê bình, thậm chí ngấm ngầm trả thù người phê bình mình, làm cho cấp uỷ, tổ chức đảng mất dân chủ, tự phê bình và phê bình trở thành hình thức.

Ở những cấp uỷ, tổ chức đảng mắc khuyết điểm kéo dài trong thực hiện nguyên tắc làm cho đảng viên cả cũ và mới thực hiện đối phó, chiếu lệ, hiệu quả thấp, hậu quả là thiếu tin tưởng vào tác dụng của nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nội bộ “đoàn kết xuôi chiều” (thực chất là mất đoàn kết). Đây là tình trạng khá phổ biến ở những cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu bị kỷ luật vì khuyết điểm nhỏ tích tụ thành khuyết điểm lớn do không được nhắc nhở, không được phê bình để sửa chữa, khắc phục kịp thời. Từ đó xuất hiện tư tưởng cho rằng nguyên tắc này thiếu tính khả thi, không có tác dụng cho dù hằng tháng, hằng năm hay mỗi nhiệm kỳ đại hội đều thực hiện nhưng chỉ là đối phó, để báo cấp cấp trên.

Thứ hai, thiếu trung thực trong tự phê bình.

Mặc dù nguyên tắc tự phê bình và phê bình được thực hiện thường xuyên với nhiều hình thức khác nhau, nhất là dịp sinh hoạt thường kỳ của cấp uỷ, tổ chức đảng nhưng không ít tổ chức đảng coi nhẹ, làm qua loa, cốt cho xong. Không ít cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên thiếu trung thực trong tự phê bình và phê bình đã được cấp uỷ cấp trên gợi ý kiểm điểm qua mỗi dịp kiểm điểm hằng năm hoặc khi thực hiện chủ trương lớn của Đảng về tự phê bình và phê bình như thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hay các nghị quyết Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: “tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”.

Không thể phủ nhận thực trạng một bộ phận đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao khi chưa có ai biết hoặc có biết nhưng không dám dấu tranh, phê bình. Đây cũng là cái cớ để các thể lực thù địch khoét sâu, thổi phồng khuyết điểm, chỉ khai thác những mặt trái và rồi đi đến “kết luận” rằng: không có ai tự “vạch áo cho người xem lưng”, ngay cả khi có chứng cứ rõ ràng mà họ vẫn còn chối bằng được thì không thể có chuyện “thật thà nhận khuyết điểm”; hoặc, nếu có người “thật thà nhận khuyết điểm” thì cũng chỉ là khuyết điểm lặt vặt, không quan trọng, nhận cho có khuyết điểm và nếu có nhận khuyết điểm đó thì cũng “chẳng chết ai”, “tự phê bình và phê bình thời nay hết tác dụng”(!). Điều đó càng làm cho không ít cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên thiếu tin tưởng vào tác dụng của nguyên tắc này, không tự giác, không thật thà nhận khuyết điểm ngay cả khi mắc khuyết điểm cần phải sửa chữa.

Thứ ba, thiếu bản lĩnh trong phê bình.

Phê bình khuyết điểm của người khác là một việc khó, nhất là phê bình đồng chí nhưng lại là cấp trên trực tiếp quản lý mình thì càng khó hơn. Tư tưởng “mũ ni che tai”, “ta không đụng đến mi thì mi cũng không đụng đến ta”, né tránh, ngại va chạm nên không dám phê bình người khác, nhất là đối với cấp trên diễn ra ở không ít cấp uỷ, tổ chức đảng hiện nay. Ngay cả trước những dấu hiệu sai trái nhưng cũng không dám thẳng thắn đấu tranh, không dám thực hiện quyền bảo lưu ý kiến theo quy định của Điều lệ Đảng vì sợ bị coi là chống đối tập thể, không ủng hộ người đứng đầu, thậm chí bị quy chụp là có “dấu hiệu mất đoàn kết” nội bộ(!). Nhiều tập thể cấp uỷ, ban thường vụ bị xử lý kỷ luật thời gian qua đều có lý do này. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu”.

Viện dẫn vào những hạn chế trong tiến hành tự phê bình và phê bình ở một số cấp ủy, tổ chức đảng; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức rêu rao rằng: tự phê bình và phê bình trong Đảng không có tác dụng, trái lại còn nuôi dưỡng tư tưởng xu nịnh nhau, nhất là nịnh cấp trên(!). Thực chất đây là những luận điệu có ý đồ chính trị xấu, hoặc chí ít cũng là không đúng tầm, không đầy đủ, không chính xác, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, xem xét, đánh giá, nhận định phiến diện, cố tình xuyên tạc, phủ nhận mục đích, bản chất nguyên tắc và hoạt động tự phê bình và phê bình của Đảng ta.

Thứ tư, thiếu tin tưởng vào cơ chế bảo vệ người phê bình.

Mặc dù Đảng đã ban hành các quy định nhằm bảo vệ người đấu tranh phê bình, thậm chí tố cáo những vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, nhưng trên thực tế vẫn có rất ít trường hợp được bảo vệ hiệu lực và hiệu quả. Do vị trí công tác, cơ quan, đơn vị, địa phương nơi công tác gắn bó với cấp uỷ, tổ chức đảng nơi sinh hoạt mà đảng viên đó bị chi phối, ngại đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nếu phải chuyển công tác đi nơi khác thì cũng khó có nơi nào chấp nhận người “chuyên đấu đá”, đã “gây mất đoàn kết” ở nơi họ công tác. Vậy nên tư tưởng “đấu tranh, tránh đâu?”, “được vạ, má sưng” vẫn còn, cơ chế bảo vệ người đấu tranh phê bình khó khả thi. Do đó, hiện tượng tố cáo giấu tên, nặc danh hay gửi thông tin cho các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước, báo chí của đảng viên trong nội bộ cấp uỷ, tổ chức đảng khi người có sai phạm khi đương chức, đã chuyển công tác hay đã nghỉ hưu, thậm chí lên chức cao hơn rồi mới bị phát hiện xử lý, làm giảm lòng tin của đảng viên và nhân dân đối với tính khả thi của nguyên tắc tự phê bình và phê bình./.

St

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét