Trong lịch sử dân tộc, ngoài những chiến công
hiển hách chống giặc ngoại xâm phương Bắc, còn ghi nhận những chiến thắng về
ngoại giao vừa mềm dẻo, khôn khéo vừa kiên định để tránh cho đất nước khỏi họa
xâm lăng. Lịch sử còn ghi lại những câu chuyện về các vị quan làm công tác ngoại
giao, các sứ thần của nước Việt rất đỗi thông minh, có tài ứng đối như: Mạc
Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Thân Nhân Trung... trong đó, nổi bật là thám hoa Giang
Văn Minh, vị sứ thần đời vua Lê Thần Tông.
Giang Văn Minh sinh năm 1573 tại Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng
Cam Giá (nay là xã Đường Lâm, Thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Ông thi đỗ Thám hoa khóa
Mậu Thìn, đời Vua Lê Thần Tông năm 1628. Khoa thi này không có người đỗ Trạng
nguyên hay Bảng nhãn chỉ có danh hiệu Thám hoa. Ông là người học rộng, tài cao,
là nhà ngoại giao uyên bác, khảng khái, dũng cảm. Ông được mệnh danh là vị sứ
thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua) vì đã dám đối đáp thẳng thắn
trước triều đình nhà Minh. Chỉ trong hai năm thực hiện sứ mệnh ngoại giao cho đất
nước, sứ thần Giang Văn Minh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường không chịu khuất
phục của nhân dân An Nam trước sự bành trướng hống hách của nhà Minh.
Ngày 30/12 năm Dương Hòa thứ ba (1637), Giang Văn Minh được
vua Lê Thần Tông cử làm Chánh sứ cùng 4 phó sứ dẫn đầu đoàn sứ bộ sang nhà
Minh. Khi mới sang, những tên quan đại thần nhà Minh còn tỏ ý khinh thường sứ
thần An Nam, chúng không thèm tiếp và luôn miệng hạch sách. Giang Văn Minh hết
sức căm phẫn, một mặt ông luôn nghĩ trong đầu cách đối phó với nhà Minh, mặt
khác vẫn cố gắng làm tròn sứ mệnh của vua Lê đã giao. Một hôm, nhân ngày tiết
khánh thọ của vua Minh, tất cả sứ thần các nước đều mũ áo chỉnh tề, mang theo lễ
vật, riêng sứ thần An Nam lại nằm khóc lóc thảm thiết, cố ý để việc này lọt được
đến tai vua. Được tin báo, vua Minh bèn cho gọi ông Minh vào chầu. Khi được hỏi
nguyên cớ, sứ thần Giang Văn Minh bèn tâu: “Theo lệnh vua Lê, sứ thần được sang
triều cống quý quốc thấm thoát đã hàng năm lưu lạc trên đất khách quê người
nhưng vẫn chưa làm tròn trọng trách, còn lòng dạ đâu mà vui được. Nay đã đến
ngày giỗ vị tằng tổ của thần mà thần vẫn chưa được về quê hương đèn hương tưởng
niệm, như vậy chẳng là đắc tội với tiên tổ hay sao?”, rồi lại ôm mặt mà khóc.
Nghe rõ sự tình, vua Minh liền cười mà phán rằng: “Nhà ngươi quả là một người
trung hiếu vẹn toàn. Những tưởng chuyện gì chứ việc ông tổ đã ba đời rồi đến
nay còn gì ràng buộc tình cảm nữa mà phải lo mang tiếng với người đời chỉ vì
không về được quê hương tưởng niệm”. Nghe xong vua Minh phán, biết kế sách của
mình đã đi đúng hướng, sứ thần Giang Văn Minh liền tâu rằng: “Thần cũng nghĩ vậy,
nhưng khốn nỗi, người đời có nghĩ thế đâu! Ngay như việc Thiên triều bắt dân
tôi năm nay lại phải cống người vàng để trả “nợ Liễu Thăng” mà Liễu Thăng thì
đã chết cách hơn 200 năm rồi. Chuyện cũ đã mờ, mà dân tôi hằng năm cũng vẫn còn
chưa được Thiên triều xoá bỏ lệ cũ. Hơn nữa vua tôi nhà Lê có tội gì đâu mà hằng
năm Thiên triều vẫn đòi lễ cống! Đó chẳng phải là một việc vô lý, trái với đạo
lý và thể diện của Quốc vương tôi sao? Ngày nay, Thiên triều khuyên thần đừng
thương nhớ người đã quá cố, thì thần cũng xin Thiên triều noi theo mệnh lớn mà
từ nay miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống nữa. Đó chẳng phải là một
việc tốt để gây lại mối giao hảo bền vững giữa hai nước láng giềng?”.Trước lời
tâu chân tình, lý lẽ đanh thép và đầy sức thuyết phục đó, vua Minh cũng tự thấy
việc bắt dân An Nam hằng năm vẫn phải dâng lệ cống người vàng để trả “nợ Liễu
Thăng” là vô lý, nên đã ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng và cũng từ đây hằng
năm dân ta chấm dứt được cái việc “trả nợ Liễu Thăng”.
Cũng trong lần đi sứ này, biết Thám hoa Giang Văn Minh là
người thông minh, vua nhà Minh có ý thử tài sứ thần nước Việt nên ra một vế đối:
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Dịch nghĩa: Cột đồng đến nay đã phủ kín rêu
phong).Vế đối của Vua Minh có ý ngạo mạn, nhắc đến việc Mã Viện xưa sang xâm lược
nước ta, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã cho dựng cột đồng khắc
6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (nghĩa là: cột đồng mà gãy thì dân Giao
Chỉ diệt vong).
Nghe xong, mặc dù Thám hoa Giang Văn Minh rất căm giận nhưng
ông vẫn bình tĩnh đối lại bằng một vế đối vô cùng xuất sắc: "Đằng giang tự
cổ huyết do hồng" (Dịch nghĩa: Sông Bạch Đằng từ ngàn xưa máu vẫn còn đỏ).Vế
đối đanh thép, tỏ rõ khí phách anh hùng và lòng tự hào dân tộc, nhắc cho Vua
Minh nhớ lại ba lần sông Bạch Đằng nhuốm máu quân xâm lược phương Bắc: Chiến thắng
quân Nam Hán của Ngô Quyền (năm 938), chiến thắng quân Tống của Lê Đại Hành
(năm 981) và chiến thắng quân Nguyên Mông của Trần Hưng Đạo (năm 1288).
Tưởng làm nhục được sứ thần nước Việt, ngờ đâu bị Thám hoa
Giang Văn Minh làm nhục nên bất chấp luật lệ bang giao, vua Minh đã hèn hạ sai
quân lính mổ bụng ông xem “Sứ thần An Nam to gan lớn mật thế nào”.Dù nghĩa vụ
đi sứ dở dang, đoàn sứ bộ do thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đã tỏ rõ khí phách
hiên ngang của người dân Đại Việt không khuất phục trước ách đô hộ của triều
đình phương Bắc.
Sau khi Thám hoa Giang Văn Minh mất (năm 1638), thương tiếc
và cảm phục một sứ thần tài trí, dũng cảm, không chịu khuất phục trước uy vũ kẻ
thù, vua Lê Thần Tông đã đến bái kiến linh cữu ông, đồng thời ban tặng đôi câu
đối: "Sứ bất nhục quân mệnh/ Khả vi thiên cổ anh hùng", nghĩa là: Sứ
thần không làm nhục mệnh vua, xứng danh anh hùng thiên cổ. Đồng thời truy tặng
ông chức Công Bộ Tả thị lang, tước Vinh Quận công.Hiện nay, ngôi mộ của Thám
hoa Giang Văn Minh vẫn được họ tộc chăm chút cẩn thận tại thôn Mông Phụ, còn
ngôi quán - nơi làm lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là quán Giang
để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã làm vẻ vang cho đất nước.
Tấm lòng kiên trung, bất khuất của Giang Văn Minh mãi là bài
học để các thế hệ người Việt Nam noi theo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
không chịu khuất phục trước cái ác, cái xấu, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ lợi
ích, danh dự của quốc gia, dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét