Bình đẳng giới không chỉ là mục tiêu phát triển quan trọng của Việt Nam, mà còn là một yếu tố quyết định trong việc xây dựng xã hội công bằng, văn minh và bền vững. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc thúc đẩy bình đẳng giới đã trở thành nhiệm vụ chính trị trọng tâm, gắn liền với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước đã tạo ra khuôn khổ pháp lý vững chắc nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, nâng cao vai trò và vị thế của họ trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã nỗ lực cụ thể hóa các chính sách bình đẳng giới thành các văn bản pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia một cách bình đẳng vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Kết quả là, vai trò và vị thế của phụ nữ đã có những bước tiến đáng kể. Phụ nữ ngày nay không chỉ đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế, mà còn tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định chính trị, giữ các vị trí lãnh đạo cao cấp trong bộ máy nhà nước.
Thành tựu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ
Sự phát triển và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến bình đẳng giới đã không ngừng được xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền lợi và sự bình đẳng thực sự cho phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và thúc đẩy các chương trình hành động về bình đẳng giới. Các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã đặt ra những nhiệm vụ cụ thể để đảm bảo quyền lợi và phát triển toàn diện cho phụ nữ. Nhiều chỉ thị khác của Ban Chấp hành Trung ương cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ trong thời đại mới.
Đảng ta đã không chỉ dừng lại ở việc định hướng mà còn thúc đẩy mạnh mẽ quá trình cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị này thành các quy định pháp luật. Luật Bình đẳng giới năm 2006 là một dấu mốc quan trọng trong hệ thống pháp luật, đảm bảo sự bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và gia đình. Các văn bản pháp luật liên quan như Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Hôn nhân và Gia đình,… cũng đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới. Các quy định về chế độ thai sản, bảo vệ quyền lợi của lao động nữ, đặc biệt trong những ngành nghề có tính chất đặc thù, đã được triển khai hiệu quả.
Hệ thống chính sách pháp luật không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi mà còn mở rộng cơ hội cho phụ nữ tham gia và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Các quy định pháp luật đã tạo điều kiện cho phụ nữ được tiếp cận với giáo dục, chăm sóc y tế, thị trường lao động, cũng như tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội một cách bình đẳng. Chính từ sự lãnh đạo của Đảng và việc hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật này, vị thế của phụ nữ trong xã hội ngày càng được củng cố và phát triển, đóng góp quan trọng vào sự tiến bộ chung của quốc gia.
Sự phát triển đồng bộ của các chính sách pháp luật về bình đẳng giới là nền tảng vững chắc, tạo động lực mạnh mẽ cho những bước tiến xa hơn trong quá trình thực hiện bình đẳng giới tại Việt Nam.
Có thể khẳng định, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.
Theo Báo cáo Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2013 (MDG 2013), mục tiêu bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ là một trong 3 mục tiêu thiên niên kỷ đã được hoàn thành trước thời hạn năm 2015.
Có thể khẳng định, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.
Theo Báo cáo Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2013 (MDG 2013), mục tiêu bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ là một trong 3 mục tiêu thiên niên kỷ đã được hoàn thành trước thời hạn năm 2015.
Việt Nam cũng ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ.
Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam về việc thực hiện quyền con người theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ cập của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc mà Việt Nam là thành viên cho thấy, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao. Điều này đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ.
Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xóa bỏ bạo lực giới và bạo lực gia đình; khoảng cách về việc làm, thu nhập, địa vị xã hội…
Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy.
Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; khoảng 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỷ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%, tỷ lệ thạc sỹ là nữ chiếm hơn 30% và 17,1% tiến sỹ là nữ giới.
Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2012 của Liên hiệp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao)..
Trong quá trình thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều kết quả đáng ghi nhận đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế và văn hóa - xã hội.
Lĩnh vực kinh tế, phụ nữ ngày càng có cơ hội tiếp cận và tham gia nhiều hơn vào các ngành nghề đa dạng, từ sản xuất công nghiệp đến dịch vụ và công nghệ. Đặc biệt, sự hiện diện của phụ nữ trong các vị trí quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể[2]. Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kỹ năng kinh doanh, và tham gia vào thị trường lao động cạnh tranh. Sự đóng góp của phụ nữ trong kinh tế không chỉ thể hiện ở sự tham gia số lượng lớn mà còn ở chất lượng công việc, năng lực quản lý và điều hành.
Lĩnh vực chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các cơ quan chính quyền và lập pháp đã có những bước tiến rõ rệt. Hiện nay, ngày càng có nhiều phụ nữ đảm nhận các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan hành pháp và lập pháp ở nhiều cấp độ khác nhau, từ địa phương đến trung ương. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân đã có xu hướng tăng, thể hiện sự cam kết của Đảng trong việc đảm bảo phụ nữ có tiếng nói và tham gia vào quá trình ra quyết định chính trị quan trọng[3].
Lĩnh vực giáo dục và y tế, trình độ học vấn của phụ nữ ngày càng được nâng cao, với tỷ lệ nữ sinh viên tốt nghiệp đại học và sau đại học tăng lên rõ rệt. Điều này cho thấy phụ nữ ngày càng được tiếp cận bình đẳng với các cơ hội giáo dục, từ đó tạo điều kiện cho họ phát triển sự nghiệp và đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội. Trong lĩnh vực y tế, phụ nữ cũng được tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản và y tế cộng đồng. Các chương trình y tế đã tập trung vào việc nâng cao nhận thức về sức khỏe phụ nữ và giảm tỷ lệ tử vong liên quan đến sinh sản.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được khẳng định và công nhận. Sự thay đổi trong nhận thức xã hội, nhờ vào các chương trình tuyên truyền về bình đẳng giới, đã giúp phụ nữ tự tin hơn trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội và cộng đồng. Phụ nữ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong gia đình, mà còn là những người lãnh đạo cộng đồng, tích cực tham gia vào các hoạt động phát triển văn hóa - xã hội, từ đó góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững.
Những kết quả đạt được trong các lĩnh vực này là minh chứng rõ ràng cho nỗ lực lãnh đạo và cam kết mạnh mẽ của Đảng trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững và tiến xa hơn nữa, vẫn cần tiếp tục những giải pháp và chính sách phù hợp trong thời gian tới.
Tác động xã hội tích cực trong chính sách bình đẳng giới của Đảng
Chính sách và sự lãnh đạo nhất quán của Đảng trong công tác thúc đẩy bình đẳng giới đã mang lại nhiều tác động xã hội tích cực, góp phần dẫn đến những thay đổi quan trọng trong nhận thức và hành vi của xã hội về vai trò và vị thế của phụ nữ.
Trước hết, nhận thức của xã hội về vai trò và vị thế của phụ nữ đã thay đổi. Nhiều quan niệm truyền thống lạc hậu đã bị phá bỏ. Phụ nữ không còn bị giới hạn trong các vai trò nội trợ và chăm sóc gia đình mà ngày càng được coi trọng trong vai trò người lao động, người lãnh đạo, và người sáng tạo. Điều này được thể hiện qua việc xã hội ngày càng chấp nhận và ủng hộ sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, và xã hội[4]. Sự thay đổi này không chỉ là kết quả của các chương trình tuyên truyền của Đảng mà còn đến từ sự tác động sâu rộng của các chính sách về giáo dục và việc làm, giúp phụ nữ tự tin khẳng định vị thế của mình.
Song song với đó, sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động xã hội và cộng đồng cũng được nâng cao rõ rệt. Phụ nữ ngày nay không chỉ là người thụ động trong quá trình phát triển xã hội mà còn là những cá nhân tích cực tham gia vào việc xây dựng cộng đồng và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Sự hiện diện ngày càng lớn của phụ nữ trong các tổ chức chính trị, xã hội, và các phong trào cộng đồng đã đóng góp mạnh mẽ vào việc phát triển bền vững của đất nước[5]. Điều này đặc biệt rõ nét ở những lĩnh vực như giáo dục, y tế và phát triển cộng đồng, nơi phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Những tác động xã hội tích cực này không chỉ giúp cải thiện đời sống của phụ nữ mà còn tạo điều kiện thuận lợi để họ phát triển toàn diện về mặt kinh tế, chính trị, và văn hóa. Bằng cách khẳng định sự đóng góp của phụ nữ vào sự phát triển của đất nước, Đảng đã thúc đẩy sự bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ một cách hiệu quả, mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển toàn diện và tiến bộ xã hội.
Thách thức trong công tác bình đẳng giới và nâng cao vai trò phụ nữ
Bên cạnh những thành tựu về bình đẳng giới, Việt Nam còn gặp nhiều thách thức như tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp còn ít, tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Do đó vẫn còn phụ nữ dân tộc thiểu số chưa biết chữ, vấn đề việc làm, dạy nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số để tiếp cận với lao động chất lượng cao cần có sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát hơn của các cấp chính quyền, sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng quốc tế và bản thân chị em phụ nữ cũng cần tự mình vươn lên, học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội chưa đạt chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010 (phấn đấu đạt từ 33% trở lên) và chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ tiêu đặt ra ở Chiến lược quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn chưa đạt được. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 11,8% năm 2013, bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với một số nước trong khu vực. Mức giảm tỷ suất tử vong mẹ trong 10 năm qua còn chậm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ có bảo hiểm y tế (tính trong số người khám chữa bệnh) tăng lên qua các năm, tuy nhiên còn thấp hơn nam giới. Theo số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2010, khoảng 64,5% số phụ nữ có bảo hiểm y tế, so với 69,4% số nam có bảo hiểm y tế.
Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. Nhận thức về pháp luật của cán bộ và người dân về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Chế tài thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chưa mạnh, chưa xử lý nghiêm các hành vi bạo lực gia đình.
Về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa quy định của pháp luật liên quan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển khai quy định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đạt kết quả chưa cao.
Giải pháp tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
Đánh giá tầm quan trọng của bình đẳng giới trong phát triển kinh tế, xã hội, Chính phủ Việt Nam khẳng định bình đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y tế, việc làm.
Nâng cao nhận thức xã hội về bình đẳng giới
Công tác tuyên truyền, giáo dục cần được tăng cường nhằm thay đổi những định kiến lâu đời về vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Việc này đòi hỏi các cơ quan chức năng và các tổ chức xã hội phối hợp chặt chẽ để xây dựng và thực hiện các chiến dịch tuyên truyền hiệu quả, làm nổi bật tầm quan trọng của bình đẳng giới và đóng góp của phụ nữ vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Truyền thông đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thay đổi nhận thức cộng đồng. Các phương tiện thông tin đại chúng cần được tận dụng để lan tỏa thông điệp về bình đẳng giới, trong đó, các tổ chức xã hội, đoàn thể và trường học cần tổ chức các hoạt động giáo dục và hướng dẫn, giúp thay đổi quan điểm truyền thống về phụ nữ.
Cải thiện môi trường kinh tế và chính trị cho phụ nữ
Để tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển sự nghiệp, cần xây dựng và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ cụ thể, nhằm giúp phụ nữ dễ dàng tiếp cận cơ hội việc làm, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ, khoa học và quản lý. Các chương trình đào tạo kỹ năng nghề nghiệp và khuyến khích phụ nữ tham gia vào một số lĩnh vực đòi hỏi trình độ cao cũng cần được chú trọng. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong các quyết định chính trị và kinh tế ở mọi cấp, tạo điều kiện để họ có thể cống hiến và phát huy vai trò lãnh đạo trong các tổ chức.
Đẩy mạnh công tác thực thi và giám sát chính sách
Để đảm bảo chính sách bình đẳng giới được thực hiện hiệu quả, cần cải thiện hệ thống giám sát và đánh giá các chính sách liên quan. Việc theo dõi, đánh giá định kỳ sẽ giúp kịp thời phát hiện những bất cập, từ đó điều chỉnh phù hợp nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình thực hiện. Các cơ quan quản lý nhà nước cần chịu trách nhiệm rõ ràng hơn trong việc giám sát và báo cáo kết quả thực hiện.
Các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cần phát huy vai trò quan trọng trong giám sát và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Họ cũng nên đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy các chương trình bình đẳng giới, đưa ra các sáng kiến và đóng góp vào việc xây dựng chính sách.
Khuyến khích hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế sẽ giúp Việt Nam có thể tiếp cận các mô hình và phương pháp thành công trong thúc đẩy bình đẳng giới, từ đó áp dụng phù hợp với bối cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam.
Việc thúc đẩy hợp tác quốc tế cũng sẽ góp phần gia tăng cam kết của Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới toàn cầu, đồng thời mở rộng sự hỗ trợ từ tổ chức quốc tế trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, và phát triển kinh tế dành cho phụ nữ./.
ST.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét