Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN

 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hướng đến thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hệ thống pháp luật cần tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa với nhiều giải pháp mạnh mẽ, phù hợp; cụ thể là cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý.

Tư duy của con người - đặc biệt là lý luận khoa học - có sức mạnh to lớn trong thay đổi hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Về vai trò của tư duy, lý luận khoa học, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin từng khẳng định: “… lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”(11) và “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”(12). Nhận thức đúng đắn và tình cảm tích cực, từ đó hành động phù hợp với quy luật khách quan sẽ thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Hiện nay, các quan hệ xã hội phát triển, biến động nhanh, đa đạng, đa chiều, phức tạp, nguồn thông tin phong phú, trình độ dân trí ngày càng cao, dân chủ ngày càng được phát huy, đòi hỏi chất lượng xây dựng thể chế, pháp luật phải được nâng cao với tư duy mới. Do vậy, để hoàn thiện pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý theo tinh thần “tư duy sớm”, “tầm nhìn xa”, “4 kiên định, 5 tăng cường”. Trong đó:

+ “4 kiên định” đã được Đảng ta chỉ ra, gồm: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có công tác lãnh đạo Nhà nước tổ chức xây dựng, hoàn thiện pháp luật(13).

+ “5 tăng cường” gồm: tăng cường tư duy kiến tạo phát triển; tăng cường tư duy phát triển nhanh và bền vững; tăng cường tư duy hoàn thiện pháp luật phù hợp đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường tư duy “mở” trong tiếp nhận sáng kiến chính sách, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập; tăng cường tư duy bình đẳng, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Như vậy, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật là nhằm tạo lập hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo, khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. 

Hai là, giải pháp về hoạch định chính sách. 

Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách để góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chính sách công có các dạng biểu hiện cụ thể, trong đó phổ biến là thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật. Hoạch định chính sách có chất lượng là yếu tố quyết định đến chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, đổi mới các khâu trong quy trình hoạch định chính sách phù hợp với yêu cầu quản trị quốc gia theo hướng hiện đại. Các chính sách nếu hoạch định theo quy trình phổ biến trong mô hình quản lý truyền thống, tức là về cơ bản khép kín, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như tính đại diện, tính bao trùm, tính trách nhiệm, tính đáp ứng của chính sách. Về phương diện lý thuyết, quản trị quốc gia hiện đại có một số khác biệt so với quản lý truyền thống, trong đó có sự khác biệt trong quy trình hoạch định chính sách công. Về phương diện thực tiễn, quản trị quốc gia theo hướng hiện đại thể hiện ở tính “mở” của quy trình hoạch định chính sách. Theo đó, việc hoạch định chính sách không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của xã hội và người dân, mà còn coi trọng phát huy vai trò và sự tham gia của xã hội và công dân, trong đó có việc phát huy vai trò tư vấn, phản biện chính sách của các tổ chức tư vấn (think tank). Trong quy trình hoạch định chính sách, Nhà nước tiếp nhận, thu thập một cách rộng rãi các thông tin, tri thức của cá nhân, tập thể và các tổ chức tư vấn, tăng cường tính bao trùm của chính sách, tránh sai lầm về các quyết định, góp phần nâng cao chất lượng chính sách. 

Thứ ba, tăng cường truyền thông chính sách ngay từ khi xuất hiện các sáng kiến chính sách, truyền thông trong quá trình hoạch định và khi một chính sách đã được ban hành để góp phần làm cho các đối tượng chính sách hiểu, tham gia thực hiện chính sách thống nhất; đồng thời, có đủ thông tin góp phần không ngừng hoàn thiện chính sách.

Thứ tư, thực hiện tốt việc đánh giá tác động chính sách, tạo cơ sở khoa học, thuyết phục, nâng cao chất lượng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật.

Thứ năm, có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, các xu hướng cực đoan trong hoạch định chính sách, như: lồng ghép lợi ích cục bộ, tham nhũng chính sách trong xây dựng pháp luật; xa rời chủ trương, đường lối của Đảng; các chính sách cản trở sự phát triển; các chính sách làm phức tạp về thủ tục, tăng chi phí tuân thủ; các mục tiêu của chính sách mâu thuẫn; các chính sách có mục tiêu quá tham vọng; các chính sách phiến diện, không bảo đảm tính bao trùm, không được sự đồng thuận của đối tượng chính sách; xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, “cài cắm” lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội theo Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 27-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật”.

Ba là, giải pháp về ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật cả về nội dung, hình thức, kỹ thuật.

Thứ nhất, có giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Kịp thời thể chế hóa toàn diện, đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng vào chính sách, pháp luật. Có cơ chế phối hợp triển khai và có cơ chế kiểm tra, giám sát, phát hiện các thiếu sót, chậm trễ, sai khác (nếu có) trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục hoàn thiện các chế tài phù hợp, bảo đảm cơ chế áp dụng trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý để xử lý các vi phạm.

Thứ hai, bảo đảm hoàn thiện hệ thống pháp luật toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, có ưu tiên trọng tâm, trọng điểm trong điều kiện còn nhiều văn bản cần ban hành, sửa đổi, bổ sung, theo tinh thần phản ứng nhanh trước thực tiễn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo động lực mạnh cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của xã hội. Trong từng giai đoạn phát triển, cần bám sát thực tiễn, nắm bắt nhu cầu; từ đó, có chương trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật phù hợp và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.

Trong giai đoạn hiện nay, cần xác định đúng, trúng các trọng tâm, trọng điểm để xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Dựa trên những nhận diện về 3 điểm nghẽn, 7 định hướng chiến lược(14), trong thời gian tới, cần chú ý các trọng tâm, trọng điểm sau đây để xây dựng, hoàn thiện pháp luật: 

+ Pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo tinh thần của đổi mới hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm cơ sở pháp lý cho “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát”(15).

+ Pháp luật về quyền con người trong bối cảnh hội nhập; pháp luật về phát huy nguồn lực con người, khơi dậy khát vọng; pháp luật nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về nhân lực, trong đó có công tác cán bộ của hệ thống chính trị.

+ Pháp luật về kinh tế theo tinh thần kiến tạo phát triển nhằm khơi thông nguồn lực, phát triển bền vững; tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng; pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm an toàn trong xã hội số.

Thứ ba, cần tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng hiện đại hơn nữa, dựa trên lợi thế của công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ở cấp độ trung ương và địa phương trên cơ sở tham khảo cách đánh giá về thể chế trong các bộ chỉ số như: Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và cấp tỉnh (PII), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)…; đồng thời, bảo đảm tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW với các yêu cầu của hệ thống pháp luật như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. 

Thứ năm, đồng lòng, nhất quán, kiên trì, quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc khó khăn về pháp lý hiện đã nhận diện được, gồm cả những khó khăn vướng mắc trong văn bản quy phạm pháp luật và khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện pháp luật.

Hướng tới 100 năm thành lập Đảng, 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), để đất nước tự tin, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa, tranh thủ, khơi thông các nguồn lực, không bỏ lỡ cơ hội, nhận diện và vượt qua thách thức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN chính là một trong những nhiệm vụ, giải pháp hết sức quan trọng, cấp thiết./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét