Trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975 ta tổ chức bày mưu, lập kế đánh thắng nhiều trận then chốt; trong đó, trận then chốt đánh địch phản kích hòng tái chiếm thị xã Buôn Ma Thuột đã giành thắng lợi lớn, tạo thời cơ có lợi để phát triển tiến công tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.
Ngay sau khi thị xã Buôn Ma Thuột thất thủ, quân địch hoảng loạn, bị động đối phó bằng cách tổ chức phòng ngự chặt chẽ ở Pleiku; đồng thời, sử dụng Lữ dù 3 kiên quyết ngăn chặn ta từ Buôn Ma Thuột tiến theo Đường 21 về Ninh Hòa và Nha Trang. Trong tình thế lực lượng dự bị chiến lược bị phân tán ở nhiều nơi để đối phó với các cuộc tiến công, bao vây, cô lập của ta, quân địch buộc phải sử dụng Sư đoàn 23 (thiếu) - lực lượng tinh nhuệ của địch nằm gần Buôn Ma Thuột nhất, đổ bộ đường không, tạo đòn phản kích mạnh, hòng tái chiếm thị xã chiến lược này.
Về phía ta, do đánh giá đúng tình hình nên trong quyết tâm của Tư lệnh Chiến dịch đã dự kiến phương án đánh địch phản kích khi thị xã Buôn Ma Thuột được giải phóng. Vì thế, khi địch tổ chức lực lượng phản kích nhanh, Bộ Tư lệnh và cơ quan Chiến dịch đã dự kiến chính xác khu vực, mục tiêu địch phản kích, kịp thời phân tích, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của chúng, từ đó xác định cách đánh, tổ chức sử dụng lực lượng phù hợp, lập thế trận tiến công hiểm, sắc và nắm chắc thời cơ nổ súng. Thực tiễn cho thấy, khi ta thực hành tiến công, trước sức mạnh hiệp đồng binh chủng, quân địch bị rối loạn, vội vàng đưa ra quyết định sai lầm về chiến lược, rút bỏ toàn bộ lực lượng khỏi Tây Nguyên, tạo thời cơ thuận lợi cho ta tiêu diệt toàn bộ lực lượng phản kích.
Thắng lợi của trận then chốt thứ hai đánh địch phản kích đã đập tan ý đồ chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột, khiến quân địch nhanh chóng suy sụp, tan rã, tạo điều kiện cho ta tổ chức trận then chốt thứ ba - tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là trận điển hình về nghệ thuật đánh địch phản kích trong chiến dịch tiến công của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với những nét nổi bật:
Một là, nhận định, đánh giá chính xác về địch, dự kiến đúng khu vực, mục tiêu đánh trận then chốt. Trong quá trình chuẩn bị Chiến dịch, với tư duy sáng tạo, khả năng nghiên cứu, đánh giá sát, đúng tình hình và vận dụng nghệ thuật nghi binh, “điều, dụ địch” khéo léo, Bộ Tư lệnh và cơ quan Chiến dịch đã nhận định chính xác: sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, nhất định địch sẽ phản kích hòng tái chiếm địa bàn chiến lược này. Đây là cơ sở rất quan trọng để ta xác định kế hoạch tác chiến, dự kiến các tình huống, từ đó chủ động tạo lập thế trận phản kích vững chắc, đánh bại các biện pháp tác chiến của địch. Đúng như ta nhận định, khi bị tiến công, trong tình huống khẩn trương, nguy cấp, địch sử dụng Sư đoàn 23 ngụy - là lực lượng nhanh nhất, mạnh nhất của chúng ở Tây Nguyên có thể phản kích để ứng cứu, giải tỏa hòng chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột; bởi lực lượng dự bị chiến lược của chúng phải phân tán, căng kéo đối phó với các đòn tiến công của ta. Cùng với nhận định đó, ta còn tính đến khả năng chúng có thể sử dụng lực lượng khoảng 01 - 02 trung đoàn, một số thiết đoàn, từ 03 - 05 tiểu đoàn pháo binh và khoảng từ 60 - 80 lần/chiếc/ngày máy bay chi viện cho lực lượng phản kích. Về thời gian, dự kiến sau khoảng 03 - 05 ngày, khi ta tiến công vào Buôn Ma Thuột thì địch sẽ đổ quân để phản kích. Khu vực địch có thể đổ bộ dọc theo trục Đường 14 và Đường 21 ở phía Đông Buôn Ma Thuột - khu vực có địa hình thuận lợi, gần căn cứ Trung đoàn 45, Trung đoàn 53 và sân bay Hòa Bình,... nơi chúng có thể lợi dụng để làm bàn đạp, kết hợp với lực lượng tại chỗ, nhanh chóng phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột. Hướng phản kích, ta dự kiến địch có thể dựa vào trục Đường 21 để triển khai ở khu vực hậu cứ Trung đoàn 45, hoặc dựa vào trục Đường 14 để triển khai ở khu vực Buôn Hồ, Đạt Lý. Về phương pháp cơ động, nếu đường bộ bị cắt đứt, sân bay Hòa Bình bị đánh chiếm, địch sẽ dựa vào máy bay trực thăng để đổ quân, nhưng với tình hình hiện tại, chúng chỉ có thể đổ bộ lần lượt từng trung đoàn.
Từ nghiên cứu, đánh giá tình hình đó, các đơn vị tập trung làm tốt công tác chuẩn bị thế trận, nhất là ở Đông Bắc thị xã Buôn Ma Thuột, phát huy sức mạnh hiệp đồng binh chủng, quân và dân ta giáng đòn bất ngờ tiếp theo khi Sư đoàn 23 địch đổ bộ đường không. Thực tiễn Chiến dịch cho thấy, nhờ nhận định chính xác về địch, dự kiến đúng khu vực, mục tiêu đánh trận then chốt nên ta chủ động triển khai, bố trí các lực lượng, hình thành thế bao vây, chia cắt, bịt mọi ngả đường bộ dẫn đến Buôn Ma Thuột để “trói địch lại mà diệt”, buộc chúng chỉ có một lựa chọn duy nhất là đổ bộ đường không để phản kích và dẫn đến thất bại thảm hại. Thắng lợi này đã dập tắt hy vọng tái chiếm thị xã Buôn Ma Thuột của địch; đồng thời, tạo phản ứng dây chuyền, khiến quân địch hoảng loạn, đưa ra quyết định sai lầm về chiến lược đó là rút bỏ toàn bộ lực lượng khỏi địa bàn chiến lược Tây Nguyên về phòng thủ đồng bằng duyên hải miền Trung, tạo thời cơ có lợi để ta xốc tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hai là, tạo lập thế trận tiến công linh hoạt, sắc, hiểm. Thực hiện mưu đồ tái chiếm Buôn Ma Thuột bằng việc sử dụng Sư đoàn 23 đổ bộ đường không địch có ưu thế về khả năng cơ động, chủ động về không gian, thời gian, địa điểm, phương pháp đổ bộ, có thể tạo bất ngờ, gây những khó khăn lớn cho ta. Để hạn chế điểm mạnh của địch, khoét sâu điểm yếu chí tử của chúng - khi đổ bộ không thể có sự chi viện mạnh, trực tiếp của các loại hỏa lực hạng nặng, ta chủ động tạo lập thế trận phản kích linh hoạt, sắc, hiểm, khéo lừa dụ và buộc địch phải đổ bộ vào khu vực ta đã dự kiến, sẵn sàng đập tan Sư đoàn 23 của địch khi chúng còn đứng chân chưa vững. Nhằm chia cắt và tiêu diệt lực lượng cơ động của địch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã sử dụng Sư đoàn 320 đánh cắt Đường 14, sẵn sàng tiêu diệt từ 01 đến 02 trung đoàn của địch từ Pleiku xuống giải tỏa Buôn Ma Thuột, tiếp đó đánh dứt điểm Cẩm Ga và Thuần Mẫn, phát triển bao vây và diệt địch ở thị xã Phú Bổn (Cheo Reo); Trung đoàn 25 đánh cắt Đường 21 ở Tây Khánh Dương, sẵn sàng đánh địch ứng cứu hoặc rút chạy; Trung đoàn 95A cùng Sư đoàn 3 (thiếu) đánh cắt Đường 19 ở Đông và Tây An Khê, sẵn sàng đánh địch giải tỏa hoặc rút chạy. Với thế trận này, ta đã hoàn toàn bao vây, cô lập Buôn Ma Thuột trên các hướng đường bộ. Ngay sau khi giải quyết xong Đức Lập, ta sử dụng lực lượng cơ giới khẩn trương vận chuyển Sư đoàn 10 hành quân cấp tốc về đứng chân ở Đông Bắc thị xã Buôn Ma Thuột; di chuyển các trận địa pháo binh và pháo cao xạ ra phía Đông thị xã (sau khi được giải phóng) để sẵn sàng chi viện cho Sư đoàn 10 đánh địch phản kích. Bên cạnh đó, Sư đoàn 10 còn sử dụng lực lượng dự bị đánh chiếm căn cứ Trung đoàn 45, căn cứ Trung đoàn 53, sân bay Hòa Bình,… nơi địch có thể lợi dụng làm bàn đạp để tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, giành thế chủ động.
Với việc tạo lập thế trận linh hoạt, hiểm, sắc, ta đã giăng sẵn “cái bẫy” ở khu vực Phước An, Nông Trại, chỉ chờ “con mồi” Sư đoàn 23 của địch đổ bộ theo đúng dự kiến; đẩy địch vào thế bị động, lúng túng đối phó, buộc phải đổ quân ở địa hình bất lợi và không thể đổ cả sư đoàn xuống cùng một lúc; phải đổ quân trong tình trạng bị cô lập, thiếu xe tăng và pháo binh chi viện, qua đó tạo điều kiện cho Sư đoàn 10 đánh địch theo kế hoạch. Thực tiễn đã minh chứng, khi địch vừa đổ quân, chưa kịp cơ động phản đột kích, đã phải hứng chịu những đòn tiến công như vũ bão, không kịp trở tay và nhanh chóng bị tiêu diệt.
Ba là, hiệp đồng chặt chẽ, nắm chắc thời cơ, chỉ huy tác chiến linh hoạt. Đối tượng tác chiến của ta trong trận then chốt thứ hai này là quân địch đổ bộ đường không, có tính biến động cao, tình huống chiến đấu diễn biến mau lẹ, khó lường, thời cơ xuất hiện và mất đi chỉ trong thời gian ngắn, thậm chí rất ngắn. Nhận thức rõ vấn đề này, Bộ Tư lệnh và cơ quan Chiến dịch đã chỉ đạo các bộ phận hiệp đồng chặt chẽ, nắm chắc thời cơ, liên tục tiến công không cho địch kịp trở tay, phải bị động chống đỡ và hứng chịu thất bại thảm hại. Quán triệt tư tưởng “khẩn trương tổ chức cơ động lực lượng, đơn vị nào đến trước làm công tác chuẩn bị chiến đấu sẵn sàng đánh trước, đơn vị nào đến sau phải nhanh chóng hợp đồng phối hợp”1, nên khi địch đổ quân xuống hai bên trục Đường 21 từ Điểm cao 581 đến Nông Trại, Sư đoàn 10 xác định Tiểu đoàn 2 địch bố trí ở Điểm cao 581 là lực lượng phản kích chủ yếu; nắm thời cơ khi địch đứng chân chưa vững, Sư đoàn đã sử dụng Trung đoàn 24 (thiếu) tiến công ngay (mặc dù lúc này Trung đoàn 28 chưa cơ động kịp về đội hình Sư đoàn). Đây là quyết định hoàn toàn chính xác, vì nếu để cho địch có thời gian ổn định đội hình, củng cố công sự trận địa, bố trí thêm các lớp vật cản, hiệp đồng chặt chẽ thì sẽ gây ra cho ta rất nhiều khó khăn; yếu tố bất ngờ, quyền chủ động tiến công sẽ không còn nữa. Nhờ nắm chắc thời cơ, nên khi địch vừa đổ quân xuống Điểm cao 581, chưa kịp cơ động tiến công đã phải hứng chịu đòn tiến công “không thể chống đỡ”, nhanh chóng bị tiêu diệt và tan rã.
Bên cạnh việc hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận, Bộ Tư lệnh và cơ quan Chiến dịch, chỉ huy các đơn vị còn chỉ huy chiến đấu linh hoạt, quyết đoán, làm cho địch đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Điển hình là, sau khi đánh chiếm Nông Trại, ta chuyển ngay sang tiến công Trung đoàn 44 của địch; đồng thời, tổ chức lực lượng tiến vào Khánh Dương khi kế hoạch phản kích của chúng đã thất bại và chưa kịp tổ chức rút chạy. Lực lượng đi trước liên tục bám sát và bao vây, cô lập quân tiếp viện của địch, tạo thế cho các lực lượng đến sau triển khai đội hình tiến công. Cho dù lực lượng của ta không nhiều, tiến công địch trong điều kiện công tác chuẩn bị gấp rút, nhưng ta đã tạo sức mạnh tổng hợp, nhanh chóng giành thắng lợi. Quân địch từ chỗ tăng viện để phản kích đã mất dần thế chủ động, chỉ huy, hiệp đồng rối loạn, yếu ớt chống đỡ trước sức mạnh tiến công của ta, phải chịu thất bại cay đắng.
Thắng lợi của trận then chốt thứ hai trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975 đã đánh bại cuộc phản đột kích bằng đổ bộ đường không của Sư đoàn 23 địch, góp phần đập tan ý đồ tái chiếm thị xã Buôn Ma Thuột của chúng, tạo lực, tạo thế và thời cơ có lợi để tiêu diệt toàn bộ lực lượng của địch trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Những nét đặc sắc của nghệ thuật đánh địch phản kích này cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét