Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Cần nghiêm trị kẻ chống phá Nhà nước Việt Nam

 


Ngày 1/3, Phòng Tham mưu Công an TP Hồ Chí Minh thông tin về việc thi hành Quyết định khởi tố bị can, Lệnh bắt tạm giam Trần Văn Bang (SN 1961, hộ khẩu thường trú đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh) có hoạt động chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cụ thể, ngày 24/11/2021, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hồ Chí Minh ra Quyết định khởi tố vụ án: “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Sau khi khởi tố vụ án, Cơ quan An ninh điều tra đã khẩn trương điều tra, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh đối tượng Trần Văn Bang đã có hành vi tàng trữ, soạn thảo, đăng tải và tán phát trên mạng internet các bài viết có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, phạm vào Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Ngày 23/2/2022, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hồ Chí Minh đã ra Quyết định khởi tố bị can, Lệnh bắt bị can để tạm giam, Lệnh khám xét đối với Trần Văn Bang về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Các Quyết định, Lệnh trên đã được Viện Kiểm sát nhân dân TP Hồ Chí Minh phê chuẩn.

Đến ngày 1/3/2022, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hồ Chí Minh đã tiến hành bắt và khám xét nơi ở của đối tượng với sự chứng kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân TP Hồ Chí Minh và đã thu giữ một số tài liệu của Trần Văn Bang có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc chống phá Nhà nước.

Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra làm rõ hành vi phạm tội của Trần Văn Bang và các đối tượng liên quan để xử lý theo đúng quy định pháp luật./.NVS

 

THƯỜNG XUYÊN RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ ĐỂ PHÒNG VÀ CHỐNG SỰ SUY THOÁI

 Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên và của Đảng, song đó là kết quả của một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn. Thực tế cho thấy, về cơ bản, đội ngũ cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực chuyên môn để làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đặc biệt, nhiều cán bộ, đảng viên với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện” đã năng động, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm với những công việc khó, mới trong xu thế toàn cầu hóa. Đó có thể là những điều chưa có trong sách vở nhưng đang xảy ra trong thực tiễn và khi đã nghĩ “là đúng” thì phải dấn thân để làm, quyết tâm làm để đưa cái đúng vào cuộc sống; đồng thời, lấy kết quả cuối cùng để chứng minh và bảo vệ mình, tổ chức mình.

Tuy nhiên, trước những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong quá trình hội nhập, đặc biệt là với các thủ đoạn tinh vi và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng nên hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài về lý tưởng cách mạng của người cộng sản, giảm sút ý chí, niềm tin về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; mang nặng chủ nghĩa cá nhân vị kỷ: độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực, chạy bằng cấp, chạy quy hoạch, chạy chức, chạy quyền và nhất là bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất nên đã vi phạm pháp luật, đã bị khai trừ khỏi đảng và vướng vòng lao lý, ... Cùng với đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì thế mà hoài nghi, thiếu tin tưởng và nhất là không thiết tha với việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ phận cán bộ, đảng viên này đã không chủ động, tự giác, tích cực kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động mà đôi khi và thậm chí còn cổ súy, phụ họa “té nước theo mưa” cho một số quan điểm sai trái, lệch lạc,... Nguy hiểm hơn là trong thực tế, đã có không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, các thế lực thù địch không thể đánh đổ được những người cộng sản, trừ chính những sai lầm của chính mình và “không một ai trên thế giới này có thể làm mất được uy tín của những người Mácxít cách mạng nếu họ không tự làm mất uy tín của họ”. Điều đó có nghĩa là, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có vai trò quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và của công tác cán bộ, công tác đảng viên nói chung. Vì thế, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần thấm nhuần và thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, mỗi cấp ủy không chỉ phải nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của việc phải thường xuyên, liên tục rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên mà còn phải coi đó là yêu cầu vừa bức thiết vừa thường xuyên của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Gắn việc rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị với việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu nói riêng. Thông qua việc chú trọng “xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị”, từng bước đẩy lùi, ngăn chặn các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, góp phần nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng, năng lực và sức chiến đấu của Đảng nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng.

Hai là, mỗi cấp ủy cần xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực tiễn để quán triệt, thực hiện tốt hơn nữa các nghị quyết, quy định của Đảng về học tập lý luận chính trị; trong đó, tập trung thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Quy định số 164-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý,... Theo đó, hệ thống các trường chính trị từ Trung ương đến địa phương cần tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; trong đó, chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, hiệu quả, phù hợp từng đối tượng, phù hợp điều kiện đặc thù của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ba là, việc đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nói riêng phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương, cơ quan, đơn vị mà họ công tác. Do đó, cùng với việc đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các Quy định về nêu gương là việc các cấp ủy từ Trung ương đến địa phương phải xây dựng các tiêu chí để đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên phù hợp bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Khi xem xét, đánh giá phải dựa vào tiêu chí, nội dung đăng ký thực hiện và kết quả công tác của mỗi người; thống nhất giữa đánh giá bản lĩnh chính trị với kết quả thực thi nhiệm vụ, gắn đánh giá đạo đức công vụ với đánh giá kết quả thực thi công vụ, đảm bảo hiệu quả thực sự trong đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên hằng năm, khắc phục triệt để cách đánh giá cán bộ, đảng viên một cách chung chung, hình thức, dĩ hòa vi quý... Thông qua đó, tạo động lực để cán bộ, đảng viên phấn đấu vươn lên, rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định, kiên trì và năng động, sáng tạo hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giác trong rèn luyện bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên, trong đó cán bộ cấp càng cao càng phải gương mẫu rèn luyện bản lĩnh chính trị, nghiêm khắc với bản thân mình. Đồng thời, cấp ủy các cấp chú trọng xây dựng cơ chế để mỗi người đều phải nỗ lực rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Học lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Học để tin tưởng: Tin tưởng vào Đoàn thể. Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Tin tưởng vào tương lai của cách mạng”. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện, môi trường, các phong trào thi đua, các cuộc vận động để cán bộ, đảng viên trải nghiệm, tự giác rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị. Qua đó, không chỉ giúp họ tự mình tu dưỡng, phấn đấu, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng mà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ.

Năm là, cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ của Đảng là việc thực hiện tốt quy trình, quy hoạch đội ngũ cán bộ và tạo môi trường cho cán bộ, đảng viên, đội ngũ lãnh đạo, quản lý chủ chốt được thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Thực tế cho thấy, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên có điều kiện bộc lộ rõ khi được trải nghiệm trong môi trường thực tiễn nhiều thử thách, có độ phức tạp và nhạy cảm về chính trị, cho nên, cần thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ, đảng viên trong diện quy hoạch, nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, để đào tạo, bổ sung kiến thức lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn cho họ, nhất là trước các kỳ đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội của Đảng. Trong đó, chú trọng thực hiện “cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ” và “xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ” theo đúng tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” gắn liền với công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Đặc biệt, chú ý những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, nhiều khó khăn, thử thách, nhạy cảm và phức tạp để thông qua đó, rèn luyện những cán bộ trẻ có triển vọng phát triển, được quy hoạch và dự kiến bổ nhiệm giữ trọng trách cao, để kịp thời sàng lọc, loại bỏ những cán bộ “đẹp hồ sơ” nhưng lập trường chính trị, phẩm chất chính trị và năng lực chính trị không tương xứng.

SỰ TỬ TẾ, TRÁCH NHIỆM LÀM NÊN VỊ THẾ, TINH THẦN VIỆT NAM

 Dân tộc Việt Nam đã trải qua mấy chục năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh. Nhân dân Việt Nam thấu hiểu, thấm thía hơn ai hết về giá trị của từng phút giây hòa bình, yên ổn và luôn mong muốn có một cuộc sống an lành, mưa thuận gió hòa, không bị tai ương từ thảm cảnh binh đao, dịch họa. Nhưng lịch sử mấy nghìn năm qua đã tôi luyện nhân dân Việt Nam trải qua các “lò lửa” kháng chiến giải phóng dân tộc và chống chọi với nhiều thảm họa thiên tai, dịch bệnh. Vì thế, dân tộc Việt Nam đã vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt để tồn tại, phát triển như hôm nay. Với một dân tộc đã kiên cường, anh dũng trải qua nhiều dông bão của thiên nhiên và thời cuộc như thế, không có lý do gì mà chúng ta không giành thắng lợi trong cuộc chiến phòng, chống dịch Covid-19. Nói như thế không có nghĩa là duy ý chí chủ quan, mà chúng ta hoàn toàn có niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành nhanh nhạy, linh hoạt của Chính phủ và sự đồng tâm nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn xã hội trong cuộc chiến với dịch bệnh không kém phần cam go, phức tạp này.

Có rất nhiều bằng chứng cụ thể để chúng ta khẳng định như vậy. Đó là, ngay sau khi dịch Covid-19 bùng phát tại Việt Nam, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị nhằm huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia phòng, chống dịch bệnh do chủng mới của virus Corona (Covid-19) gây ra. Cùng với đó, Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19 đã tổ chức nhiều cuộc họp nhằm đánh giá, theo dõi, kiểm soát dịch bệnh một cách sát sao để có biện pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả. Bộ Y tế và Bộ Quốc phòng thành lập nhiều đội phản ứng nhanh và đã thực hiện kết nối trực tuyến các bệnh viện với Bộ Y tế để thống nhất chỉ đạo, phối hợp trong chuyên môn, kịp thời ứng phó với diễn biến của dịch bệnh. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo 4 bệnh viện quân đội tuyến Trung ương sẵn sàng hỗ trợ, tham gia phòng, chống dịch bệnh. Tất cả những động thái, việc làm này chứng tỏ Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành của Việt Nam đã, đang làm hết sức mình để phòng ngừa, kiểm soát bằng được tình hình dịch Covid-19. Nhờ thực hiện đúng phương châm “ngăn chặn triệt để, phát hiện sớm, cách ly ngay lập tức, khoanh vùng gọn và dập dịch triệt để”, đến nay, Việt Nam đã cơ bản khống chế thành công dịch bệnh. Cũng trong thời điểm này, Việt Nam càng nêu cao và thể hiện rõ trách nhiệm cộng đồng quốc tế trong tham gia phòng, chống dịch Covid-19. Ngoài việc tương trợ, chia sẻ với những khó khăn của nước bạn Trung Quốc, việc chúng ta kiểm soát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, không để virus Covid-19 lây lan trong phạm vi nước mình, là góp phần cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực ngăn chặn triệt để dịch bệnh nguy hiểm này trong khu vực châu Á. Vừa qua, trong buổi làm việc với lãnh đạo Chính phủ Việt Nam, đại diện WHO và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC) đánh giá Việt Nam đã phòng, chống dịch bệnh với quyết tâm rất cao, các giải pháp đồng bộ, hiệu quả, công khai, minh bạch; đồng thời mong Việt Nam chia sẻ với cộng đồng quốc tế những bài học kinh nghiệm về tổ chức cách ly, ngăn ngừa, điều trị dịch bệnh.

Người Việt có câu: “Trong khó khăn, hoạn nạn mới hiểu lòng nhau”. Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng đã thấu hiểu lòng dân, ngày đêm lo lắng cho dân vượt qua những khó khăn trong thời điểm dịch bệnh. Nhân dân tin tưởng vào đảng bộ, chính quyền các cấp, cùng chia sẻ, gánh vác với đội ngũ cán bộ, đảng viên để từng bước đẩy lùi và kiểm soát tốt tình hình dịch Covid-19. Kết quả này là minh chứng sinh động về ý Đảng, lòng dân, tình quân, nghĩa nước đã hòa quyện vào nhau tạo thành sức mạnh vô địch để vươn lên giành thắng lợi trong cuộc chiến chống dịch Covid-19. Đó cũng là bằng chứng thiết thực để bác bỏ, phủ nhận hoàn toàn những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch lợi dụng thời điểm dịch bệnh để xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG SỰ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội là một nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc đó là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình hiện nay, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:

Trong mọi hoàn cảnh phải luôn giữ vững nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội”. Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong lịch sử Đảng ta lãnh đạo quân đội, mặc dù hình thức diễn đạt ở mỗi thời kỳ có khác nhau. Theo đó, Đảng không chia sẻ, ủy quyền lãnh đạo quân đội cho bất kỳ tổ chức, lực lượng, cá nhân nào; không thông qua một khâu trung gian nào. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội tập trung vào Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là toàn diện, trên mọi mặt công tác, mọi nhiệm vụ, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của quân đội, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng gắn liền với sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội. Mọi hoạt động của quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng quân đội thành luật pháp, chính sách và tổ chức thực hiện trong thực tế. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với quân đội đều nhằm bảo đảm cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; giữ vững bản chất GCCN, tính nhân dân và tính dân tộc; có sức mạnh chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống. Vì vậy, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải kiên định nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội”.

Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh (TSVM). Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội chỉ được tăng cường khi bản thân Đảng TSVM. Đây là giải pháp căn cốt nhất để bác bỏ sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, cũng như đối với quân đội. Để Đảng luôn vững mạnh, chúng ta cần kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Nghị quyết Đại hội XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với chỉnh đốn, giữa xây dựng với bảo vệ Đảng; tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Vấn đề then chốt là tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội TSVM, mẫu mực, tiêu biểu, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quân đội cần thực hiện quyết liệt các biện pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”; tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, xử lý các trường hợp vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; bảo đảm mọi tổ chức đảng trong quân đội luôn TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mọi người hiểu rõ sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân. Trong thời gian tới, cần tăng cường thông tin, định hướng cho mọi tầng lớp nhân dân quán triệt những quan điểm cơ bản của Đại hội XIII về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội. Làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ những nội dung cơ bản của đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân, tư duy mới về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng; thấm nhuần nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng trong thời gian tới.

Để tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong quân đội, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần phát huy vai trò của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội trong thời gian tới. Cần làm cho mọi quân nhân nhận thức đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng; hiểu rõ Quân đội ta là quân đội nhân dân do Đảng xây dựng, giáo dục và rèn luyện. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, không mơ hồ, mất cảnh giác trước những thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.

Chủ động đấu tranh, phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhưng rất bức thiết, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực xây dựng nội bộ đơn vị mình, tổ chức mình vững mạnh toàn diện để không có ai dao động trước những thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường; phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí đối với nhiệm vụ đấu tranh phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận nòng cốt, chuyên sâu; tổ chức đấu tranh bằng nhiều hình thức: Trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua hệ thống giáo dục lý luận chính trị, tuyên truyền miệng và trên mạng xã hội, internet.

Phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vai trò nòng cốt. Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; giữa phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với xây dựng nội bộ vững mạnh là phương thức hữu hiệu để làm thất bại mọi mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch hiện nay.

ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, HẠ THẤP UY TÍN LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

 Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một trong những thủ đoạn chống phá Đảng và chế độ ta mà các thế lực thù địch triệt để sử dụng trong bối cảnh, tình hình mới là tung tin xuyên tạc, hạ thấp uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Vào những dịp như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; công tác bổ nhiệm, luân chuyển sau Đại hội; những khó khăn, phức tạp liên quan đến tình hình dịch bệnh COVID-19,... là những cơ hội để chúng ráo riết tìm mọi cách tấn công trực diện vào công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ cấp cao. Thông qua Internet và mạng xã hội, với những kịch bản được chuẩn bị khá kỹ, chúng đã tổ chức các “cấp độ” chiến dịch vu cáo, xuyên tạc, bôi nhọ có thể nói là khá bài bản. Thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Một là, không chỉ bằng những thông tin, hình ảnh cắt ghép, sai lệch, lẫn lộn thật-giả, chúng còn sử dụng những phát ngôn, bình luận của một số “chuyên gia” và “học giả” bất mãn để “lập luận” quy chụp, biến không thành có, có “ít suýt ra nhiều”, gây hoài nghi trong dư luận, tạo hiệu ứng tiêu cực trong tâm lý, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân và cán bộ thiếu bản lĩnh.

Hai là, chúng lợi dụng, kích động hoặc mua chuộc một số đối tượng bất mãn, bất hảo để tung đơn thư nặc danh, mạo danh trên các trang mạng xã hội; lan truyền những thông tin sai trái nhằm kích động chia rẽ nội bộ; bôi nhọ danh dự, nhân phẩm những cán bộ trong nguồn quy hoạch; xuyên tạc quan điểm, ý kiến chỉ đạo, định hướng của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trước những vấn đề quan trọng, nhạy cảm của đất nước và xã hội,... Đồng thời tạo ra hàng loạt bình luận (comnent) tiêu cực nhằm gây nhiễu loạn, hoài nghi trong dư luận, khiến không ít người bị rơi vào “trận đồ bát quái” mà không hiểu đúng sai thế nào!

Ba là, chúng thêu dệt, bịa đặt về nguồn gốc xuất thân, gia đình cũng như bản thân cán bộ lãnh đạo cấp cao, trong đó hầu hết là những nội dung theo kiểu “thâm cung bí sử”, đen tốitiêu cực... để rồi quy chụp rằng mọi bí ẩn, khuất tất, xấu xa đều liên quan đến cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Chúng lu loa rằng dân chủ ở Việt Nam chỉ là “chiếc bánh vẽ”, đồng thời để hạ thấp uy tín đại biểu Quốc hội, chúng rêu rao “tất cả những người mà được gọi là đại biểu quốc hội đều được lựa chọn quyết định từ trước, bầu cử chỉ là hình thức.

Bốn là, các thế lực phản động, thù địch luôn “nhấn mạnh” cái gọi là “nguyên nhân của những tiêu cực xuất phát từ công tác nhân sự. Chúng đưa ra các bài viết, phỏng vấn, trao đổi, bình luận với những luận điệu như: công tác nhân sự của Đảng, nhất là nhân sự cấp cao là cuộc “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng nội bộ”, “thủ tiêu đối phương”, “theo lợi ích nhóm”,… công tác nhân sự trong Đảng chỉ là sự ngụy tạo, chỉ là hợp thức hóa, là dịp để hội hè, tốn kém tiền bạc của nhân dân, còn nhân sự đã được sắp đặt theo lợi ích nhóm. Cùng với đó, chúng cho rằng “cán bộ lãnh đạo của Đảng là nhóm người đặc quyền đặc lợi”, “tự cho mình cái quyền được ban phát quyền lực, bổng lộc, chức tước, biến quyền lực của nhân dân thành quyền lực của mình”. Vẫn là “mô-típ” cũ, những luận điệu xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín, danh dự của đội ngũ cán bộ nói chung, lãnh đạo Đảng, Nhà nước nói riêng trong tình hình hiện nay chỉ là “phần nổi của tảng băng”, nguy hiểm và sâu xa hơn - điều mà các thế lực thù địch, phản động nhắm đến chính là “tung hỏa mù” để gây nghi ngờ, hoang mang trong dư luận, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Bằng tri thức lý luận và từ thực tiễn đời sống chính trị, xã hội của đất nước, chúng ta hoàn toàn có cơ sở và luận cứ khoa học để đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch đó là:

Một là, không phải chỉ ở Việt Nam, mà mỗi đảng chính trị, đảng cầm quyền ở bất kỳ quốc gia hay thể chế chính trị nào, đều phải bầu ra bộ máy lãnh đạo của mình và phải tiến hành công tác lựa chọn, bầu cử ra đội ngũ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu dưới hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp. Đó là công việc quan trọng và được tiến hành theo quy định, quy trình chặt chẽ.

Hai là, quán triệt những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh“cán bộ là cái gốc của mọi công việc... huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”; “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”công tác nhân sự của Đảng ta luôn được tiến hành theo đúng quy địnhquy trình chặt chẽ, nghiêm túc, công tâm, khoa học, dựa trên các nguyên tắc xây dựng Đảng và sự đồng thuận của nhân dân.

Ba là, những cán bộ được giới thiệu, bầu vào các vị trí chủ chốt của Đảng, Nhà nước trong nhiệm kỳ Đại hội XIII nhìn chung đều được đào tạo bài bản, trải nghiệm thực tiễn, có phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo, quản lýđặc biệt là được nhân dân tin tưởng, tín nhiệm.

Bốn là, Đảng ta luôn coi trọng và thực hiện thường xuyên việc bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên. Những cán bộ có biểu hiện đặc quyền, đặc lợi, xa hoa, trụy lạc đều bị xử lý nghiêm khắc, thích đángNhững kết quả đạt được trong công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng thời gian qua đã thể hiện rõ tính quyết liệt, thường xuyên và không có vùng cấm” của Đảng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “...phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Năm là, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề kiểm soát quyền lực. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh “phải nhốt quyền lực vào lồng cơ chế, pháp luật”. Theo đó, Cương lĩnh, Điều lệ, kỷ luật Đảng; Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; sự tín nhiệm của nhân dân là những yếu tố quyết định đến chất lượng giám sát quyền lực, khắc phục những biểu hiện tha hóa, lộng quyền, củng cố và phát huy vai trò, uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Sáu là, xét trên phương diện thực tiễn, phần lớn đội ngũ cán bộ đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo của ĐảngNhà nước luôn giữ vững tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; cống hiến trí tuệ, tài năng và nhiệt huyết, đóng góp xứng đáng vào “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” của đất nước. Vì thế, không thể “lấy ví dụ” một số trường hợp suy thoái, sai phạm đã bị xử lý kỷ luật, truy tố để coi là “cái phổ biến” và “là bản chất” của đội ngũ lãnh đạo Đảng, Nhà nước - như những luận điệu sai trái mà các thế lực thù địch, phản động tung ra.

Từ những vấn đề nêu trên, là người dân yêu nước dù là bất cứ ai sống trên lãnh thổ Việt Nam hay ở nước ngoài, chúng ta luôn cảnh giác với các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, luôn tỉnh táo trước các luận điệu xảo trá, xuyên tạc nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động.

 

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19 HIỆN NAY

 Trong thời gian qua, lợi dụng tình hình của dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng bất mãn chính trị trong và ngoài nước đã lợi dụng phát tán trên không gian mạng nhiều thông tin sai sự thật, xuyên tạc về tình hình chống dịch ở Việt Nam, cho rằng, Đảng, Nhà nước ta thông tin không đầy đủ tình hình dịch bệnh (giấu thông tin số lượng ca nhiễm, ca tử vong do nhiễm bệnh), lợi dụng việc Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kêu gọi ủng hộ chống dịch chúng rêu rao rằng: Đảng, Nhà nước Việt Nam không lo cho dân mà bắt dân phải đóng góp chống dịch; Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ là “cấm chợ ngăn sông”, làm hại các doanh nghiệp,... Từ những luận điệu trên, chúng so sánh với các nước tư bản lớn trên thế giới để hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta.

Trên thực tế, với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự vào cuộc của ngành y tế và toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là sự đồng lòng của người dân, nên đến nay có thể thấy rằng, nhờ công tác dự báo và việc chủ động phòng ngừa dịch bệnh nguy hiểm này nên Việt Nam đã chủ động tiến hành các biện pháp nhằm hạn chế tối đa mọi nguồn lây nhiềm ở bên ngoài xâm nhập vào nội địa. Cũng nhờ thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục, mà người dân đã tuân thủ hướng dẫn phòng chống dịch bệnh, trung thực khai báo y tế, nghiêm túc thực hiện cách ly tập trung cũng như giãn cách xã hội.

Ngay sau khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát trở lại, nước ta đã kịp thời chỉ đạo thực hiện tốt các khâu từ phát hiện, sàng lọc, truy vết, khoanh vùng và chữa trị, cũng như ổn định tình hình nhân dân, nghiêm túc thực hiện 5K; chuyển công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 từ phòng ngự sang tiến công. Đặc biệt quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19. Đến nay, dịch bệnh cơ bản đã được kiểm soát, nhất là đã khoanh vùng được các ổ dịch lớn tại nhiều tỉnh, thành và vẫn đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội phù hợp trong tình hình mới. Chúng ta luôn tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta, cùng với tinh thần trách nhiệm cao, nỗ lực, chỉ đạo không biết mệt mỏi của các cấp, các ngành trong công tác phòng chống dịch bệnh và sự đồng lòng, quyết tâm của nhân dân cả nước nước ta sẽ chiến thắng, đẩy lùi dịch bệnh trong mọi điều kiện hoàn cảnh để ổn định tình hình, phát triển kinh tế đất nước.

Tất cả những việc chúng ta đã làm trong thời gian qua và hiện nay, đó chính là những cơ sở, những bằng chứng để đấu tranh, bác bỏ các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động nhằm xuyên tạc những kết quả trong phòng, chống dịch Covid-19 của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI VIỆC TẠO DỰNG CƠ ĐỒ ĐẤT NƯỚC

 Từ thực tiễn khách quan của công cuộc đổi mới đất nước hơn 35 năm qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có đánh giá sâu sắc: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” và điều đó cũng được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thêm một lần khẳng định. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu về cơ đồ đất nước, việc tạo dựng, bảo vệ cơ đồ đất nước và sự lớn lao, tươi sáng của cơ đồ đất nước hiện nay.

Thật khó để có quan niệm chuẩn xác về cơ đồ đất nước, nhưng có thể coi cơ đồ đất nước là thành quả của những sự nghiệp, mục tiêu, lý tưởng lớn lao với những giá trị bền vững và ngày càng gia tăng về vật chất và tinh thần. Cơ đồ đất nước có thể nhận rõ được là giang sơn gấm vóc; là độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; là một đất nước hùng cường, chế độ xã hội tốt đẹp, nhân dân hạnh phúc. Quan niệm như vậy sẽ thấy cơ đồ đất nước được biểu hiện trước tiên là hình hài của đất nước. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Tố Hữu từng thốt lên cảm xúc: “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!”; nhà thơ Chế Lan Viên cũng có câu thơ rất hay: “Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!/ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Cơ đồ đất nước dễ nhận thấy ngay là vẻ đẹp, nhưng còn nhiều tố chất nữa tạo nên cơ đồ đó.

Từ những điều gợi mở trên cho thấy: cơ đồ là thành quả của sự nghiệp lớn lao và cơ đồ của đất nước trước hết là cương vực lãnh thổ, bởi đó là không gian sinh tồn, phát triển của quốc gia, dân tộc. Phải quyết chí theo một sự nghiệp lớn và trải qua muôn vàn gian khổ mới tạo lập được cơ đồ. Nhưng có được cơ đồ bước đầu đã khó, giữ vững cơ đồ còn khó hơn nhiều. Giữ được cơ đồ trước hết phải giữ được độc lập của quốc gia, dân tộc. Danh tướng vĩ đại Lý Thường Kiệt từng phá tan quân Tống xâm lược cùng với Tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử nước ta là bài thơ “Nam quốc sơn hà”: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. Trong thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, tuyên ngôn độc lập thứ hai trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Thái sư Trần Quang Khải để lại muôn đời công trạng hiển hách cùng những câu thơ nổi tiếng: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử bắt quân thù/ Thái bình nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”.
Trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, ông cha ta đã mở mang bờ cõi, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; vừa từng bước tạo dựng cơ đồ đất nước, vừa kiên quyết đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chiến thắng nhiều đế quốc hung hãn, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc. Nhưng khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã không giữ được cơ đồ. Phát huy truyền thống yêu nước, các tầng lớp nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên chống giặc nhưng tất cả đều bị dìm trong máu lửa. Sự đô hộ của thực dân Pháp gần một thế kỷ đã chứng tỏ cả giai cấp phong kiến và đại diện cho các thế lực tư sản đã hết vai trò lịch sử, vận mệnh của dân tộc và cơ đồ của đất nước lâm vào tình thế bế tắc. Vấn đề bức thiết đặt ra là bằng con đường nào, cách thức nào, tổ chức lực lượng thế nào để đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc và đưa đất nước phát triển. Vấn đề vô cùng bức thiết này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luận giải: con đường giành độc lập dân tộc phải là con đường cách mạng vô sản. Người đã gieo hạt, gây mầm và tạo dựng sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Với sự vận dụng linh hoạt, tài tình của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân chuyển hóa thành một sự kiện trọng đại: ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện đã được dân tộc giao phó kiến tạo và phát triển cơ đồ đất nước trong điều kiện mới. Lịch sử hơn 90 năm của Đảng ta là hành trình thực hiện nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp nhưng rất đỗi vinh quang. Những chặng đường đã qua của cách mạng Việt Nam ghi đậm những thành công tuyệt vời của Đảng trong việc lãnh đạo dân tộc ta, nhân dân ta xây dựng cơ đồ đất nước. Điều đó thể hiện trên những nội dung chính yếu sau:
Thứ nhất, Đảng ta xác định và lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu lý tưởng của sự nghiệp cách mạng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vừa ra đời, Đảng ta đã chủ trương: thực hiện tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản. Chủ trương đó của Đảng được nhân dân đồng tình cao và trở thành lẽ đương nhiên; chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà là xung lực thúc đẩy lịch sử Việt Nam chuyển mình, là con đường để dân tộc ta tạo dựng cơ đồ đất nước ngày càng bền vững. Chỉ có độc lập dân tộc thì cơ đồ đất nước mới được vẹn toàn và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho đất nước một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, bảo đảm hạnh phúc cho mọi người dân. Rõ ràng, mục tiêu lý tưởng và sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhân dân ta, xét về lô gic là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu và xu thế của thời đại; xét về điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến là nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; xét về mục tiêu tạo dựng cơ đồ đất nước là hệ giá trị cơ bản nhất cho đất nước Việt Nam vừa qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là con đường duy nhất để kiến tạo và phát triển cơ đồ đất nước.
Thứ hai, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành lại giang sơn cho đất nước, độc lập, tự do cho dân tộc, tạo tiền đề quan trọng nhất để tạo dựng cơ đồ đất nước. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ của Đảng, toàn thể Nhân dân ta chung sức, chung lòng tiến hành cuộc cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức và đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nước ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954; là chiến thắng đế quốc Mỹ và bè lũ ngụy quyền tay sai mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; là chiến thắng oanh liệt hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền tảng trọng yếu của cơ đồ đất nước. Quan niệm của Đảng ta về nội dung nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được hình thành trên cơ sở tổng kết hoạt động thực tiễn và nâng tầm lý luận. “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ tổng thể của toàn Đảng, Nhà nước, toàn quân và toàn dân ta, nhằm đưa nước ta thành nước tiên tiến với mục tiêu cao cả: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Đảng Cộng sản Việt Nam tiêu biểu cho bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam trong việc tạo dựng cơ đồ đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tỏ rõ tính độc lập, tự chủ trong đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta có những bước phát triển mới, vững chắc.

Bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là việc Đảng ta phát động và lãnh đạo tổ chức thực hiện sự nghiệp đổi mới, tạo ra bước đột phá lớn và toàn diện, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Chính đổi mới đã đưa đất nước ta từ chỗ thiếu thốn trăm bề, hằng năm phải nhập lương thực để đảm bảo mức sống tối thiểu, nay trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn tới thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống và làm việc của mọi người lại có những nét mới mẻ, tươi vui và sinh động như hôm nay. Đổi mới đã đem đến một sức sống mới cho đất nước, tiếp sức và nâng bước cho đôi chân chúng ta trên con đường hạnh phúc. Sau hơn 35 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Điều đó khẳng định: chặng đường từ khi có Đảng là chặng đường rất đỗi vinh quang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng cơ đồ đất nước. Thực tiễn đã chứng tỏ con đường cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức đúng đắn, sáng tạo. Và hiện nay, đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế do Đảng ta khởi xây, lãnh đạo, tổ chức thực hiện rất phù hợp với nhịp bước của thời đại. Đó cũng là hai nhiệm vụ chiến lược thực hiện mục tiêu chung phát triển cơ đồ đất nước. Thành công của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi rõ rệt diện mạo của đất nước, tăng cường xung lực cho đời sống xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ta. Cơ đồ đất nước ngày càng lớn mạnh, vững chắc tạo phong độ mới, thế mới, lực mới để Việt Nam vươn tầm, có đủ sức lực và trí tuệ để sánh vai cùng bạn bè thế giới. Chúng ta tin tưởng rằng, cơ đồ đất nước sẽ ngày càng vững chắc hơn, tươi sáng hơn với mục tiêu cao đẹp: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

NGẪM VỀ ĐIỀU KHÔNG ĐƯỢC LÀM CỦA ĐẢNG VIÊN

 Cha mẹ sinh con ra, ai cũng muốn con mình luôn khỏe mạnh, ngoan ngoãn, trưởng thành, có ích cho gia đình và xã hội nên thường chú tâm dạy bảo cho con những điều hay lẽ phải, lấy hành vi tốt của người này để khuyên con bắt chước làm theo, lấy hành động xấu của người kia đặng nhắc con nên tránh. Và, việc dạy con không được làm những điều “trái tai gai mắt” đã được cha mẹ định hình từ lúc bé.

Từ chuyện không được làm của xã hội để ngẫm về những điều đảng viên không được làm theo Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII). Những điều không được làm đó không chỉ là vấn đề “trái tai gai mắt”, mà đó là sự suy thoái, thậm chí là vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước nên cần có quy định để ngăn chặn, phòng ngừa. Tuy nhiên, bên cạnh sự đồng tình của đa số cán bộ, đảng viên về sự cần thiết phải ban hành Quy định này, có ý kiến cho rằng, nên chăng, cứ giữ nguyên quy định cũ, bởi đã ăn sâu vào tiềm thức đảng viên, vấn đề quan trọng là mỗi đảng viên có tự giác chấp hành nó trong thực tiễn hay không, v.v. Thực ra, ý kiến trên không phải không có cơ sở, nhất là mong muốn đưa những điều đảng viên không được làm thực sự đi vào cuộc sống; trở thành nếp sống hằng ngày đối với cán bộ, đảng viên. Nhưng ngẫm lại thì ý kiến đó chưa thật đúng và đầy đủ. Bởi lẽ, với tốc độ phát triển của xã hội ngày nay, một quy định ban hành cách đây hơn 10 năm sẽ có nhiều điều không còn phù hợp. Hơn nữa, đây lại là những điều liên quan trực tiếp đến từng cán bộ, đảng viên và sức mạnh nội sinh của Đảng, nếu không có định hướng, quy định chặt chẽ, khoa học,… thì khó có thể đạt hiệu quả trong thực tiễn. Vì thế, Quy định 37 của Đảng như một lẽ tự nhiên, là việc làm thường lệ, nhưng cũng rất quan trọng cấp thiết. Với nội hàm đầy đủ, chặt chẽ, lô gic vừa có tính kế thừa, vừa được bổ sung, sửa đổi những nội dung mới phù hợp, Quy định số 37 được xem như khung tiêu chuẩn; là mệnh lệnh mới của Đảng đối với mỗi cán bộ, đảng viên; dù bất cứ ở cương vị nào đều phải tự giác chấp hành, không có sự ưu ái, thiên vị hay ngoại lệ.

Cũng chẳng có gì khó hiểu, khó làm theo Quy định số 37 cả, nếu như mọi cán bộ, đảng viên xác định rõ vai trò, vị trí của nó để tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực công tác, thực sự gương mẫu đi đầu, đề cao trách nhiệm thực hiện thật tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Cùng với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, không để suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Với tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, hành động nêu gương tốt của đảng viên sẽ được nhân lên, lan tỏa những giá trị tốt đẹp cho toàn xã hội.
“Quốc có Quốc pháp, Gia có Gia quy”, Nghị quyết, Điều lệ, Chỉ thị, Quy định,… của Đảng đã đề ra thì mọi cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối chấp hành. Song, dù Nghị quyết, Điều lệ, Chỉ thị, Quy định,… của Đảng có chi tiết, cụ thể đến đâu cũng không thể bao phủ hết thực tiễn sinh động của cuộc sống. Do đó, điều quan trọng hơn cả vẫn từ ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi của mỗi đảng viên, theo phương châm: “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Những ai không như thế, thì đã tự đưa mình ra “ngoài vòng pháp luật”, trở thành những người phai nhạt lý tưởng cách mạng, phản bội lại Đảng, phụ bạc lòng tin của nhân dân dù rằng họ cố tìm mọi cách quanh co, lấp liếm, hòng đổ lỗi cho hoàn cảnh hay bất cứ lý do nào khác.

 

PHẨM CHẤT “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” VÀ CUỘC CHIẾN ĐẤU GIỮA THỜI BÌNH

 Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là một hệ thống chuẩn mực, giá trị tư cách đạo đức của người quân nhân cách mạng, thể hiện tập trung ở lời khen ngợi của Bác Hồ: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” phản ánh bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta. Phẩm chất đó được biểu hiện qua các thuộc tính phản ánh những giá trị truyền thống như: bản lĩnh chính trị; ý chí, quyết tâm chiến đấu; đạo đức quân nhân cách mạng; ý thức tổ chức kỷ luật; đức hy sinh; tình đoàn kết quốc tế... Trong giai đoạn mới của cách mạng, cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam đã tạo nên nhiều giá trị phẩm chất mới như: tinh thần xung kích; tầm cao trí tuệ, sự năng động, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học; năng lực ngoại giao; trình độ, kiến thức làm chủ, hòa nhập cùng cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và nhịp sống mới; năng lực điều hành tác chiến điện tử, tác chiến trên không gian mạng;...

Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, phầm chất đó luôn gắn liền với hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ” và những chiến công của lớp lớp cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trong thời bình, phầm chất “Bộ đội Cụ Hồ” càng tỏa sáng, đẹp đẽ hơn trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế. Quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường; tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp quốc.

Đặc biệt, trong cuộc chiến phòng, chống đại dịch COVID-19, với tinh thần "chống dịch như chống giặc", cán bộ, chiến sỹ toàn quân đã xung kích, vượt qua muôn vàn khó khăn, hiểm nguy; thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là “Quân đội của nhân dân, Quân đội trong lòng dân”. Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, nhân tố giữ vai trò đặc biệt quan trọng tạo nên chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta. Trước kẻ địch Covid-19 hung hiểm, nền tảng phẩm chất ấy đã giúp cho cán bộ, chiến sỹ Quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, góp phần bảo vệ sức khỏe, tính mạng, tài sản của Nhân dân. Chính trong những thời khắc khó khăn nhất, chúng ta đã chứng kiến phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” luôn được phát huy và tỏa sáng.

Hiện nay, Quân đội đang cùng toàn dân áp dụng trạng thái phòng, chống dịch theo các cấp độ dịch được xác định tại Nghị quyết 128 của Thủ tướng Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19. Qua các đợt dịch bùng phát, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” càng được tôi luyện và khẳng định sâu sắc hơn. Đây chính là nền tảng vững chắc để Quân đội tiếp tục hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, đồng thời tích cực góp phần kiểm soát, ngăn chặn và đẩy lùi dịch bệnh, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của Nhân dân.

NHẬN THỨC VỀ ĐẶC TRƯNG CỦA PHẨM CHẤT BỘ ĐỘI CỤ HỒ TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI

 Trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương (QUTƯ) về “phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới" (viết tắt là Nghị quyết 847) có một nội dung quan trọng được cán bộ, chiến sĩ đặc biệt quan tâm, thể hiện sự tâm đắc, đó chính là việc khái quát, chỉ rõ các đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong điều kiện hiện nay và cách nhận diện, phấn đấu đạt được các thuộc tính của đặc trưng đó.

Bước phát triển về tư duy

Quan điểm về Bộ đội Cụ Hồ và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ không phải đến bây giờ QUTƯ, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị... mới đề cập đến, mà ngay từ rất sớm, trong quân đội đã có một hệ thống lý luận khá cơ bản, toàn diện về vấn đề này, bao gồm: Khái niệm, quan điểm, nội dung, bản chất, truyền thống, hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

Lần này, trên cơ sở kế thừa, phát triển và bằng tư duy mới, cách tiếp cận mới, QUTƯ đã khái quát 5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Đây được xem là bước phát triển trong tổng kết lý luận và phát triển lý luận. Bởi lẽ, khi nghiên cứu Nghị quyết 847, không ít người sẽ đặt câu hỏi: Vì sao QUTƯ đưa ra khái niệm đặc trưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ mà lại không tiếp cận theo hệ giá trị hay các chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ như đã đề cập lâu nay? Trả lời câu hỏi ấy, dưới góc độ tư duy mở, chúng tôi cho rằng, việc tiếp cận, đưa ra các đặc trưng cơ bản phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là do một số lý do sau đây:

Trước hết, cách tiếp cận này nhằm chủ ý đưa ra các thuộc tính có tính chất làm căn cứ (nhưng không cứng nhắc, áp đặt) để các cấp từng bước quán triệt, triển khai, cụ thể hóa một cách linh hoạt, sáng tạo, sát với đặc thù và thực tiễn ở mỗi cấp. Đây chính là cơ sở giúp các cấp dễ vận dụng sáng tạo, hiệu quả đối với từng đối tượng, lực lượng, từng cá nhân trên cương vị, chức trách công tác khác nhau.

Rõ ràng, khái niệm “đặc trưng” nhằm để chỉ các thuộc tính riêng lẻ mà chúng ta có thể xác định và đo đạc được khi quan sát một hiện tượng, sự vật nào đó. Như vậy, tiếp cận với khái niệm đặc trưng (chứ không phải là hệ giá trị, các chuẩn mực) là nhằm hướng vào việc so sánh, đối chiếu, giúp cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ các thuộc tính để nhận biết, tập trung xây dựng, phát triển phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong điều kiện mới. Hay nói cách khác, các đặc trưng cơ bản phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ sẽ giúp chủ thể phân biệt rõ những điểm khác nhau (hoặc khác biệt) với đặc trưng của các bộ phận, giai tầng lực lượng xã hội khác. Đặc trưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ sẽ có thuộc tính riêng biệt hoặc riêng có, không thể pha lẫn với đặc trưng của các đối tượng xã hội khác; ví như đặc trưng phẩm chất của công chức, viên chức nhà nước, đặc trưng phẩm chất của lực lượng Công an nhân dân, của công nhân, nông dân, tri thức... Trên cơ sở nắm chắc, hiểu sâu về 5 đặc trưng cơ bản thì sẽ rất thuận lợi cho việc tạo lập mục tiêu, xác định phương hướng, xây dựng kế hoạch, chương trình, với lộ trình, bước đi, tiến độ phù hợp... để sớm đạt được các thuộc tính trong từng đặc trưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.

Hơn thế, việc đưa ra 5 đặc trưng cho thấy tính chất mở trong lý luận và chủ trương lãnh đạo. Có nghĩa, đặc trưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ không phải là cái bất biến, mà nó luôn vận động phát triển qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau. Có thể các giá trị Bộ đội Cụ Hồ đã có là khá vững chắc, nhưng qua năm tháng vẫn có sự bổ sung, phát triển, hoàn thiện và nhận diện nó qua các đặc trưng (ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có sự khác nhau). Nhờ đó mà các cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị sẽ thiết lập, hoàn thiện cơ chế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi nhất giúp các giá trị Bộ đội Cụ Hồ được gìn giữ, bổ sung, phát triển; hoặc nảy nở, hình thành nên những phẩm chất mới của Bộ đội Cụ Hồ trong điều kiện xã hội hiện nay.

Tiếp cận như vậy để thấy, hệ thống các quan niệm, quan điểm trong Nghị quyết 847 là đúng đắn, sáng tạo, có tính phát triển trên cơ sở bám sát diễn biến mau lẹ, sinh động của tình hình; giúp cho lý luận thể hiện được tính “đi trước đón đầu”, dẫn dắt, định hướng thực tiễn.

Linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng, triển khai

Nghiên cứu 5 đặc trưng cơ bản phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong Nghị quyết 847 cho thấy tính khái quát lý luận rất cao về nội dung đề cập. Một mặt, các đặc trưng thể hiện rõ những thuộc tính vốn đã có trong phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ; mặt khác lại khái quát, đúc rút nên những đặc trưng mới (thậm chí đang hình thành, củng cố), có tính thời sự và cấp thiết, ví như đặc trưng về “tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”, “kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí”... Đây là bước cập nhật hóa, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp của Trung ương; cũng là vấn đề được đúc rút từ thực tiễn; minh chứng cho yêu cầu ngày càng cao về phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Nói cách khác, việc gìn giữ, phát huy các phẩm chất đã có từ trước phải gắn chặt với nỗ lực hình thành, hoàn thiện, phát triển những phẩm chất đặc trưng mới của Bộ đội Cụ Hồ hiện nay và trong tương lai.

Một điểm khá ấn tượng trong Nghị quyết 847 là việc sử dụng các khái niệm, câu từ, văn phong dù có tính hệ thống, tính khái quát cao nhưng rất dễ hiểu, dung dị, gần gũi để mô tả các thuộc tính của 5 đặc trưng. Hơn thế, dù đề cập một cách hệ thống, đầy đủ, khái quát thuộc tính của 5 đặc trưng nhưng Nghị quyết 847 chỉ thể hiện trong 343 từ, cho thấy sự ngắn gọn, súc tích; minh chứng cho kết quả nghiên cứu nghiêm túc, công phu, sâu sắc; hướng đến tinh thần: Ban hành nghị quyết nhằm mục tiêu cao nhất là để quán triệt, thực hiện nhanh nhất, sớm nhất, hiệu quả nhất trên thực tế!

Quán triệt Nghị quyết 847, các cấp ủy, cơ quan, đơn vị cần linh hoạt, sáng tạo, cụ thể hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, các thuộc tính trong đặc trưng Bộ đội Cụ Hồ sát với từng đối tượng, loại hình và đặc thù cơ quan, đơn vị. Ví như đặc trưng phẩm chất của cán bộ chủ trì, chủ chốt; đặc trưng phẩm chất cán bộ cơ quan chiến lược; các đặc trưng của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức, hạ sĩ quan chiến sĩ; hoặc các nhóm đặc trưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ công tác ở từng lĩnh vực, quân, binh chủng khác nhau...

Thể hiện rõ tinh thần đó, ngay trong nghị quyết, QUTƯ nêu lên các quan điểm và giải pháp lãnh đạo cụ thể, yêu cầu các cấp tránh sự áp đặt, vận dụng máy móc. Có nghĩa, các cấp vừa xác định các thuộc tính đặc trưng cần gìn giữ, phát huy; vừa tập trung nuôi dưỡng những giá trị Bộ đội Cụ Hồ tốt đẹp mới được hình thành; khai phá các giá trị tiềm năng, giúp “đâm chồi nảy lộc”, kết nên các giá trị đặc trưng mới trong điều kiện xã hội hiện đại, tiếp cận và thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại, hoàn thành các nhiệm vụ, nghĩa vụ quốc tế và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cũng bởi tính chất đó, quá trình triển khai nghị quyết, các cấp ủy, cơ quan, đơn vị cần chú trọng định kỳ sơ kết, rút kinh nghiệm thực hiện Nghị quyết 847 nói chung, xây dựng, hoàn thiện các đặc trưng Bộ đội Cụ Hồ nói riêng. Cần chú trọng phát hiện, nuôi dưỡng các thuộc tính mới trong mỗi đặc trưng; tập trung lãnh đạo xây dựng và nhân rộng bằng những giải pháp, mô hình mới, cách làm sáng tạo; kết hợp với sớm phát hiện, nhận diện những dấu hiệu thuộc tính tiêu cực, các biểu hiện lệch chuẩn trong xu hướng phát triển nhân cách quân nhân... để kịp thời ngăn chặn, xử lý triệt để, nhất là 10 dấu hiệu của chủ nghĩa cá nhân cũng được đề cập trong Nghị quyết 847 lần này.

PHẠM THỊ ĐOAN TRANG MỘT CON RỐI CỦA “GIẢI THƯỞNG TỰ DO BÁO CHÍ CANADA - VƯƠNG QUỐC ANH NĂM 2022”

 Vào ngày 10/2/2022, Bộ ngoại giáo Canada và Vương quốc Anh đã trao “Giải thưởng Tự do Báo chí Canada - Vương quốc Anh năm 2022” cho Phạm Thị Đoan Trang với lý do cơ quan này đưa ra là “để ghi nhận những đóng góp của bà cho việc thúc đẩy tự do báo chí tại Việt Nam”. Trong thông cáo báo chí nêu rõ: “Giải thưởng Tự do Báo chí Canada - Vương quốc Anh ghi nhận công việc của những người đã bảo vệ các nhà báo hoặc đi đầu trong tự do báo chí ở cấp địa phương, tôn vinh các tổ chức, chiến dịch và cá nhân ít được biết đến trong cuộc đấu tranh với việc không trừng phạt những hành vi chống lại nhà báo. Ra mắt năm 2020, giải thưởng ghi nhận những người thúc đẩy tự do báo chí, bất kể trực tiếp hay gián tiếp. Bà Trang được tổ chức này biết đến với những cuốn sách về dân chủ và những bài viết về xã hội dân sự và những người bất đồng chính kiến ở Việt Nam. Là người thúc đẩy sự tiến bộ về quyền con người và tinh thần thượng tôn pháp luật, bà Trang viết về các vấn đề môi trường quan trọng. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới đã trao Giải Tự do báo chí cho bà Trang năm 2019 để ghi nhận công lao này.

Sự kiện này đã khiến dư luận trong nước “dậy sóng”, thực hư việc Phạm Thị Đoan Trang là người đáng được tôn vinh hay là kẻ đáng được lên án tại đất nước sinh ra và nuôi lớn Ả? Quay lại thời gian Trang trước khi bị bắt sẽ trả lời được câu hỏi trên.

Ngày 18-10, Viện Kiểm sát nhân dân TP Hà Nội ban hành cáo trạng truy tố Phạm Thị Đoan Trang về tội "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định tại Điều 88 Bộ luật hình sự năm 1999. Theo cáo trạng, từ ngày 16/11/2017 đến 5/12/2018, Phạm Thị Đoan Trang có hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, Phạm Thị Đoan Trang cùng Trịnh Hội - đối tượng cầm đầu VOICE lập ra cái gọi là “Luật khoa tạp chí”, tiếng là thuần phân tích hệ thống luật pháp các nước nhưng bạn đọc kiểu gì cũng sẽ nhìn vào nó có hơi hướng chống lại hệ thống luật pháp Việt Nam. Không dừng lại ở đó, Phạm Thị Đoan Trang còn viết hàng trăm tài liệu nội dung xuyên tạc, phản động; thực hiện trên 50 lượt trả lời phỏng vấn các đài báo nước ngoài; viết, tán phát 10 cuốn sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc thực trạng dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, đả phá, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hướng dẫn "kỹ năng", cách thức đối phó với cơ quan An ninh như Cẩm nang truyền thông”, “Cẩm nang pháp lý dành cho các bạn hoạt động xã hội”, “Từ facebook xuống đường”. “Bầu cử phi dân chủ ở Việt Nam”, “Chính trị bình dân”, “Toàn cảnh thảm họa môi trường Formosa ở Việt Nam”,... kích động lật đổ chế độ.

Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội khẳng định, các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền "luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" và bị kết án 9 năm tù hồi tháng 12/2021 là hoàn toàn đúng người đúng tội. Việc Bộ ngoại giao Canada và Vương quốc Anh đã trao “Giải thưởng Tự do Báo chí Canada - Vương quốc Anh năm 2022” cho Phạm Thị Đoan Trang ghi nhận những đóng góp của Trang đối với việc thúc đẩy tự do báo chí tại Việt Nam là việc làm phi lý, không thực tế. Đáp trả việc này, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nêu rõ: Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin…Phạm Thị Đoan Trang bị bắt và xét xử do có những hành động vi phạm pháp luật nhiều lần, nghiêm trọng, liên hệ với các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài, xuất bản các ấn phẩm trái phép có nội dung… nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Như vậy hành vi của Phạm Thị Đoan Trang trên thực tế là rất nguy hiểm, đi ngược lại với đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc Bộ Ngoại giao Canada và Anh trao giải thưởng cho cá nhân vi phạm pháp luật ở Việt Nam là một hành động thiếu khách quan, không phù hợp, là cách nhìn nhận phiến diện, chỉ nhìn thấy một phía. Văn hóa của người Việt Nam là “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại” khuyên con người ta nên tha thứ bỏ qua cho những người đã nhận ra lỗi lầm của mình, để họ có cơ hội sửa sai, làm lại. Nhưng với Phạm Thị Đoan Trang là người có trình độ, Trang thừa sức biết việc gì nên hay không nên làm cho dân tộc mình. Nhưng Ả vẫn cố tình đi ngược con đường mà cả dân tộc đánh đổi bao xương máu có được, chống lại chính quyền của toàn thể nhân dân lao động dày công xây dựng nên và với tư tưởng, việc làm hoàn toàn sai trái, cần phải lên án những việc làm của Ả, cũng như phản bác việc Bộ Ngoại giao Canada và Anh trao giải thưởng cho Phạm Thị Đoan Trang “Giải thưởng Tự do Báo chí Canada - Vương quốc Anh năm 2022” là một hành động không thể chấp nhận./.

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VIỆT NAM

 Thời gian qua, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực và với dã tâm thâm độc, âm mưu nham hiểm, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không từ thủ đoạn nào để chống phá, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam.

Trước hết, các thế lực thù địch căn cứ vào những điểm mới trong sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 để đưa ra luận điệu sai trái, suy diễn không có căn cứ và xuyên tạc nguyên tắc “bốn không”. Họ cho rằng: Việt Nam đưa ra cái “không” thứ 4 khi đang ở thế bị động và sẽ nghiêng vào một nước khác khi cần thiết. Rằng: “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là “tự trói tay chân mình” và không phù hợp với tình hình thực tế, đi ngược lại với xu thế toàn cầu hóa; “không sử dụng vũ lực” nghĩa là Việt Nam từ bỏ việc dùng vũ lực trong bảo vệ đất nước. Đặc biệt, lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, họ đả kích, cho rằng nếu thực hiện chính sách quốc phòng như trên thì Việt Nam sẽ không thể giữ vững chủ quyền, không thể bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc rồi tìm cách hô hào cổ súy tư tưởng dựa dẫm, lệ thuộc vào các nước lớn, đặc biệt là Mỹ, hoặc khối NATO, v.v. Các luồng thông tin sai lệch được các đối tượng đưa ra nhằm kêu gọi, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự; đặc biệt, là liên minh với các quốc gia khác và từng bước làm lệch lạc nhận thức về chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ của Việt Nam. Những luận điệu sai trái này nhằm thúc đẩy ý đồ gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và Quân đội ta.

Thứ hai, chúng tung tin thất thiệt rằng, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh để chống lại một nước thứ ba; quy kết Việt Nam khơi mào cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực. Đây là luận điệu hết sức xảo trá. Ngân sách quốc phòng của nước ta được công khai với tỷ lệ phần trăm GDP luôn là một con số rất nhỏ so với các nước trong khu vực. Xây dựng tiềm lực quốc phòng cũng chính là yếu tố để tự vệ, không ngoài mục đích giữ gìn hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Sách trắng Quốc phòng 2019 cũng khẳng định, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược. Chúng ta đầu tư xây dựng tiềm lực quốc phòng phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, nhưng kiên quyết không chạy đua vũ trang thì làm sao chúng ta có thể khơi mào cho một cuộc chạy đua vũ trang!

Trong các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước ta đều khẳng định nhất quán chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chất chính nghĩa, hòa bình và tự vệ. Điều 4, Luật Quốc phòng chỉ rõ: “… không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 tiếp tục khẳng định: “Chính sách Quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế…”. Trên thực tế, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đắn chính sách quốc phòng đã đề ra với đường lối quốc phòng, quân sự độc lập, tự chủ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tạo sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đồng thời, tích cực thực hiện cam kết trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Thực chất các đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam là nhằm phá hoại chính sách ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta; làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, Quân đội, cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Vì vậy, cảnh giác và nhận diện rõ những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc về bản chất chính sách quốc phòng của Việt Nam chính là giữ gìn, bảo vệ vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.