Thứ Tư, 2 tháng 3, 2022

Nâng cao hiệu quả việc cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị

 Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và bất cập nêu trên, trong những năm gần đây, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn... nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; xác định rõ chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền của tập thể và cá nhân; quy định cụ thể những việc, những vấn đề phải đưa ra tập thể thảo luận, quyết định và chịu trách nhiệm; những việc cá nhân, trong đó có người đứng đầu, được đề xuất hoặc quyết định và chịu trách nhiệm về đề xuất, quyết định của mình, làm cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực của tập thể và cá nhân từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Cụ thể là:

Thứ nhất, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, tại hội nghị trung ương lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương đều bổ sung, sửa đổi và ban hành Quy chế làm việc của Trung ương; trong đó, quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và thẩm quyền, trách nhiệm của Tổng Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương... Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng bổ sung, sửa đổi và ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương và ban hành quy chế làm việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng trực thuộc Trung ương để thực hiện.

Thứ hai, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017, “Về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”, nhằm xác định rõ nguyên tắc, đối tượng, nội dung công tác cán bộ và quy trình thực hiện việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử theo quy trình 5 bước và quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp; chỉ rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và của mỗi thành viên trong tập thể lãnh đạo đó, nhất là thẩm quyền của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và trách nhiệm của tập thể, cá nhân khi để xảy ra sai phạm. Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2018, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”, quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi thành viên trong tập thể đó; thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và các cá nhân trong việc tham mưu, đề xuất về công tác cán bộ; quy định rõ những việc tập thể và cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán bộ phải làm và những việc không được làm; việc xử lý đối với tập thể và cá nhân khi để xảy ra sai phạm, kể cả khi cán bộ đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Quy định số 10-QĐi/TW, ngày 12-12-2018, của Bộ Chính trị, về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp tỉnh và của mỗi thành viên trong tập thể đó. Đồng thời, chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể thuộc thẩm quyền quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp tỉnh trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, công tác đối ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên và của người đứng đầu cấp ủy; các mối quan hệ công tác của cấp ủy và việc xử lý trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai phạm...

Thứ ba, Ban Bí thư khóa XII đã ban hành Quy định số 202-QĐ/TW, ngày 2-8-2019, về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện”, nhằm quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện và của mỗi thành viên trong tập thể đó; chỉ rõ những nhiệm vụ thuộc thẩm quyền quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, công tác đối ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở địa phương; những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên và của người đứng đầu cấp ủy cấp huyện; các mối quan hệ công tác của cấp ủy và việc xử lý trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai phạm... Đối với cấp cơ sở, Ban Bí thư các khóa gần đây đã ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng để thực hiện, trong đó có 2 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; 3 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng cơ quan; 3 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng đơn vị sự nghiệp; 10 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị quân đội; 6 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị công an; 7 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp.

Thứ tư, ngoài các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cấp ủy, tổ chức đảng nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI, khóa XII đã ban hành các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp, với phương châm “cán bộ có chức vụ càng cao, thì càng phải gương mẫu” để thực hiện và đem lại những kết quả tích cực.

Qua thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế... của Trung ương nêu trên, các cấp ủy, tổ chức đảng đã có chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; từng bước xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, bảo đảm sự lãnh đạo của tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế các sai phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong thực hiện nhiệm vụ chính trị vẫn còn một số hạn chế, bất cập và chưa được như mong muốn; vì thế, cần tiếp tục cụ thể hóa để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ phát triển mới của đất nước./.

Diễn đạt lại một cách không rõ ràng, xuyên tạc làm méo mó Chủ nghĩa Mác (tiếp)

 


          Có mấy biến thể Chủ nghĩa Mác-Lênin mà bấy lâu nay một bộ phận người cộng sản đã ngộ nhận, ở mức độ này hay khác, lầm lẫn dù tự giác hay không tự giác, trực tiếp làm lệch lạc nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, vô hình bôi nhọ và phủ định nó.

          Dạng biến thể Chủ nghĩa Mác-Lênin được dựng lên một cách giả trá theo chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội. Trên bình diện này, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, với bản chất cố hữu của nó, đã sử dụng một cách khôn ngoan chủ nghĩa thực dụng làm cơ sở phương pháp luận cho nó. Họ nhân danh Chủ nghĩa Mác-Lênin để thực hiện mưu toan tước bỏ nội dung giai cấp và tính cách mạng cốt làm méo mó, sai lệch ý tưởng của Mác, kỳ thực nhằm chống phá, phủ định Chủ nghĩa Mác-Lênin.

          Tất cả các luận đề của Mác, Ăngghen (Friedrich Engels), Lênin đều bị diễn đạt lại một cách không rõ ràng, hết sức trừu tượng đến mức phi lô-gích và lịch sử... bằng những mánh khóe bịp bợm, điều hòa đến mức không thể nào hiểu được một cách rõ ràng và dứt khoát. Nói như Lênin, bao giờ nó cũng tìm con đường trung dung, nó quanh co, uốn khúc như con rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau, nó tìm cách “thỏa thuận” với cả quan điểm này lẫn quan điểm kia, vì nó quy những bất đồng ý kiến của mình lại thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô hại...

          Từ đó Chủ nghĩa Mác-Lênin, qua bàn tay “nhào nặn” của những kẻ cơ hội và xét lại, chỉ còn là nhãn hiệu, chỉ còn là “xác” bằng sự tưởng tượng ngây thơ nhưng có sức nặng đủ để tự phản lại và giết chết chính nó, khi nằm trong tay họ, vô hình bóp nghẹt công tác lý luận, như lịch sử đã từng cảnh cáo.

Nhận diện những biến thể chủ yếu của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dù chưa đầy đủ nhưng cốt để nói rằng, chúng ta cần tỉnh táo và cấp bách trở về với Chủ nghĩa Mác-Lênin, như nó vốn có và trả lại cho nó những giá trị đúng như nó đã có và đang được hiện thực hóa một cách không gì cưỡng nổi. Cố nhiên, đây là một công việc cực kỳ khó khăn nhưng không thể nào khác được, nếu muốn tiếp tục phát triển công tác lý luận ngang tầm sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.

 

Kinh tế Việt Nam 2 tháng đầu năm 2022 với những chỉ số tốt.

 Trong 2 tháng đầu năm 2022, nhiều chỉ số kinh tế quan trọng ghi nhận mức tăng như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 10,2%, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 11,9%...





Cắt xén, chắp vá một cách thực dụng, làm méo mó Chủ nghĩa Mác

 


          Có mấy biến thể Chủ nghĩa Mác-Lênin mà bấy lâu nay một bộ phận người cộng sản đã ngộ nhận, ở mức độ này hay khác, lầm lẫn dù tự giác hay không tự giác, trực tiếp làm lệch lạc nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, vô hình bôi nhọ và phủ định nó.

          Biến thể Chủ nghĩa Mác-Lênin được tồn tại một cách phổ biến theo kiểu bị cắt xén, chắp vá một cách thực dụng. Bằng cách phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, với các quy luật khách quan cũng như mối liên hệ hữu cơ giữa các sự vật, hiện tượng, người ta tuyệt đối hóa vai trò ngẫu nhiên, vai trò cảm giác và kinh nghiệm chủ quan.

Và điều tệ hại, nguy hiểm nhất là người ta không thừa nhận tính chất khách quan của chân lý mà cho rằng chân lý do chủ quan cá nhân quyết định, không phải chỉ có một chân lý mà có nhiều chân lý, chỉ có cái gì có lợi cho họ mới là chân lý (!). Chủ nghĩa Mác-Lênin được nhào nặn và tạo ra dưới bàn tay của họ, theo cách đó. Và thế là Chủ nghĩa Mác-Lênin bị biến thành chủ nghĩa công cụ, chủ nghĩa hành vi, là thứ triết học của sức mạnh, dưới sự chi phối của chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa cơ hội.

                       

 

Chia cắt, biệt lập Mác thời trẻ, đối lập Mác với Lênin biến thể làm méo mó Chủ nghĩa Mác

 


          Có mấy biến thể Chủ nghĩa Mác-Lênin mà bấy lâu nay một bộ phận người cộng sản đã ngộ nhận, ở mức độ này hay khác, lầm lẫn dù tự giác hay không tự giác, trực tiếp làm lệch lạc nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, vô hình bôi nhọ và phủ định nó.

          Biến thể Chủ nghĩa Mác-Lênin được tạo ra tồn tại dưới dạng sản phẩm của sự diễn dịch chủ quan và giáo điều. Đây là dạng mà ngay lúc còn sinh thời, chính Mác phải thốt lên: “Tôi không phải là Mác và người theo Chủ nghĩa Mác”, khi ông đọc lại chính tư tưởng của mình, qua sự giới thiệu của những người cùng thời.

          Giờ đây, người ta lại chia cắt, biệt lập Mác thời trẻ và đem đối lập với Mác sau này; đem đối lập Mác với Lênin.Với Lênin, người ta cũng làm vậy. Nhất là sau khi Lênin mất, những di sản tư tưởng vĩ đại của ông bị người ta giải thích một cách thiên kiến, cứng nhắc, chủ quan và thô lậu. Và để tạo ra một thứ, theo họ được gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin, người ta đánh một dấu cộng đơn thuần, giữa Mác và Lênin, một cách hình thức, rồi coi như hoàn tất mọi việc.

           

 

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Ngày 3 tháng 3 - Ngày này năm xưa

 * Ngày 3/3/1951, Đảng Lao động Việt Nam chính thức ra mắt quốc dân, công khai lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc. Tại buổi lễ ra mắt, đồng chí Trường Chinh thay mặt Đảng trình bày mục đích, tôn chỉ và chính cương của Đảng. Đồng chí nhấn mạnh: Đảng Lao động Việt Nam trong Mặt trận dân tộc thống nhất đoàn kết chặt chẽ, cộng tác thân mật với các Đảng phái, các đoàn thể và nhân sĩ yêu nước trong mặt trận. Việc Đảng Lao động Việt Nam ra công khai là một sự kiện vô cùng quan trọng, đánh dấu một thắng lợi lớn của Cách mạng Việt Nam, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi.

* Mặt trận Liên Việt bao gồm tất cả các đoàn thể nhân dân, tôn giáo, đảng phái, các nhân sĩ yêu nước nhằm thắt chặt khối Đại đoàn kết toàn dân để kháng chiến cứu nước, Mặt trận được thành lập ngày 3/3/1951 trên cơ sở hợp nhất Việt Minh và Liên Việt. Lấy tên là Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam. Gọi tắt là Liên Việt.
* Ngày 3/3/1955, Trung đoàn Không quân Việt Nam đầu tiên được thành lập, đánh dấu bước phát triển lên chính quy, hiện đại của quân đội ta.
Hơn 40 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Không quân nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bắn rơi, bắn cháy hàng trăm máy bay địch, góp phần chi viện và hợp đồng chiến đấu cho các chiến trường. Ngày nay Không quân Việt Nam có lực lượng mạnh cấp sư đoàn. Có truyền thống anh hùng. Nhiều đơn vị và cá nhân thuộc Quân chủng Không quân được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
* Ngày 3/3/1959, Bộ đội Biên phòng được thành lập. Đây là lực lượng vũ trang có chức năng bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ quốc gia khu vực biên giới. Dù thay đổi tên gọi hoặc thuộc thành phần của quân đội hay công an thì bộ đội biên phòng vẫn là lực lượng bảo vệ an ninh biên giới của Tổ quốc. Bộ đội biên phòng đã được Đảng và Nhà nước tuyên dương là Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang và tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.

- Theo Baothainguyen.vn –

Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cán bộ, đảng viên khi tham gia mạng xã hội

 Ngày nay, trong thời đại thông tin bùng nổ, mạng xã hội đã trở nên phổ biến với mọi người dân, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên. Tận dụng ưu thế của mạng xã hội, nhiều cán bộ, đảng viên sử dụng mạng xã hội như một phương thức có hiệu quả trong công việc cũng như trong cuộc sốngbiến mạng xã hội thành công cụ hữu ích. Thông qua mạng xã hội, có thể nhanh chóng chia sẻ, trao đổi, nhận biết thông tin. Nhiều cán bộ, đảng viên biết tận dụng mạng xã hội để chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm công tác; thông tin, tuyên truyền, quảng bá các hoạt động, hình ảnh của Đảng, Nhà nước, địa phương, đơn vị đến với Nhân dân; mạng xã hội cũng là công cụ đắc lực trong việc đổi mới, nâng cao chất lượng trong điều tra, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ cho công tác tuyên giáo…

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy vẫn còn hiện tượng một số cán bộ, đảng viên sử dụng mạng xã hội khá tùy tiện, gây ảnh hưởng không tốt hình ảnh, lợi ích của cá nhân, tổ chức, địa phương. Không ít trường hợp cán bộ, đảng viên dùng mạng xã hội để nói xấu, xúc phạm, miệt thị người khác bằng loại ngôn từ thiếu văn hóa; đăng tải, chia sẻ thông tin độc hại, bịa đặt, xuyên tạc, không kiểm chứng nguồn gốc, không bảo đảm tính chính xác; đăng tải những nội dung mang tính bất mãn, gây mất đoàn kết... Nhiều trường hợp cán bộ, đảng viên đã bị cơ quan chức năng nhắc nhở, xử phạt hành chính, thậm chí bị cách chức, khai trừ khỏi Đảng...

Thực tế này cho thấy việc xử phạt các sai phạm trên không gian mạng nói chung, và việc truy cứu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên để xảy ra sai phạm khi tham gia mạng xã hội nói riêng cần phải nghiêm khắc, kiên quyết hơn nữa, để mỗi người luôn ý thức rằng bản thân là cán bộ, đảng viên thì càng phải có trách nhiệm cao trong tự giác điều chỉnh nhận thức và hành xử đúng đắn trên môi trường mạng.

Ðến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định quyền tự do thông tin của công dân và trách nhiệm của người dân khi sử dụng internet nói chung và mạng xã hội nói riêng như: Luật Báo chí năm 2016; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật An ninh mạng năm 2018; Nghị định số 72/2013/NÐ-CP quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 174/2013/NÐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện; Quy định về những điều đảng viên không được làm…Tuy nhiên, đối với những văn bản luật này vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa chịu khó tiếp cận, nghiên cứu, nên vẫn còn có sự hiểu biết mập mờ, dẫn đến sự thiếu trách nhiệm và dễ sai phạm trong sử dụng mạng xã hội. Vậy nên, các địa phương, cơ quan, đơn vị cũng cần thiết phải nghiên cứu, ban hành văn bản quy định về việc tham gia mạng xã hội của cán bộ, đảng viên trong phạm vi điều chỉnh của mình.

Thủ trưởng cơ quan, đơn vị; cấp ủy; các tổ chức đoàn thể cần nâng cao trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, định hướng, theo dõi, nhắc nhở cán bộ, đảng viên, đoàn viên về những nguyên tắc cần tuân thủ khi tham gia mạng xã hội; đồng thời, có biện pháp xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm theo quy định.

Và quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực nghiên cứu và tuân thủ nghiêm túc các quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và cơ quan, đơn vị mình đang công tác khi tham gia mạng xã hội; phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật, tổ chức nếu sai phạm trong quá trình tham gia. Khi tham gia mạng xã hội phải lan tỏa các nội dung, hình ảnh tích cực, có tính tuyên truyền, giáo dục cao....Sử dụng mạng xã hội để trao đổi, chia sẻ, chuyển tải các nội dung thông tin phục vụ nghiệp vụ công tác. Xây dựng quan điểm, lập trường vững vàng; chung tay, góp sức nhận diện, phản bác, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn và các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng. Làm được những điều trên thì mạng xã hội sẽ trở thành công cụ hữu ích cho mỗi người trong thời đại mới.

-         St-

Ngày 2 tháng 3 - Ngày này năm xưa

 Ngày 2-3-1926

Học sinh Trường Kỹ nghệ thực hành Huế đã kéo đến toà Khâm sứ Trung kỳ đưa ra 3 yêu sách: Nâng cao chương trình học - Không nhục mạ học sinh - Cải thiện đời sống học sinh. Chính quyền thực dân một mặt hứa hẹn chấp nhận yêu sách, một mặt điều lính đến đàn áp. Các học sinh kiên trì bãi khoá và kéo dài cuộc đấu tranh. Cuối cùng chính quyền thực dân ở đây phải nhượng bộ.

Ngày 2-3-1946

8 giờ sáng ngày 2-3-1946 tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội hơn 300 đại biểu đã dự phiên họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Một trong những công việc quan trọng của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I là việc thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Chính phủ gồm 10 vị bộ trưởng và Bác Hồ được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Chính phủ. Vào lúc 10 gờ 30 phút Chính phủ tuyên thệ (do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc): "Chúng tôi, Chính phủ kháng chiến nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Tối cao cố vấn đoàn và uỷ viên kháng chiến, trước bàn thờ thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội, xin thề cương quyết lãnh đạo nhân dân kháng chiến, thực hiện nền dân chủ Việt Nam, mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc..."
Đúng 11 giờ cùng ngày, phiên họp bế mạc. Trước khi kết thúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu thay mặt Chính phủ và Người đề ra khẩu hiệu sau: Kháng chiến thắng lợi - Kiến quốc thành công - Việt Nam độc lập muôn nǎm.

 

Ngày 2-3-1973

Sau khi hiệp định Pari về lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký, ngày 2-3-1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam được triệu tập ở Pari. Gồm đại biểu của Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, 4 bên tham gia ký hiệp định và 4 nước trong uỷ ban giám sát quốc tế (Ba Lan, Canađa, Hunggari và Inđônêxia). Tất cả các nước dự Hội nghị đã ký vào bản định ước ghi nhận và bảo đảm hiệp định Pari và các nghị định thư kèm theo được thi hành nghiêm chỉnh.

 Ngày 2-3-1979

Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam được ban hành theo quyết định số 121 - TCTK/PPCA. Danh mục này được xác lập trên cơ sở các đặc điểm sinh hoạt vǎn hoá và ý thức của các dân tộc ở Việt Nam. Hiện nước ta có 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có phong tục, tập quán và sắc thái riêng đã góp phần làm rực rỡ vườn hoa dân tộc Việt Nam đủ mầu sắc. Truyền thống Đại đoàn kết các dân tộc ngày nay được tôn trọng và phát huy.

 

- Theo Baothainguyen.vn –

 

Những sai lầm cần tránh khi dùng kit xét nghiệm nhanh Covid

 Theo các chuyên gia y tế, sau khi tiếp xúc F0 việc xét nghiệm ngay sẽ không có giá trị, gây tốn kém kinh phí vì khi đó tải lượng virus còn rất thấp. Người dân nên thực hiện xét nghiệm sau 3 - 4 ngày tiếp xúc. Với các trường hợp khác chỉ cần xét nghiệm khi có các biểu hiện nghi ngờ như ho, sốt, đau họng...

PGS Trần Đắc Phu - nguyên cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) - cho biết hiệu quả sàng lọc của các sinh phẩm xét nghiệm kháng nguyên phụ thuộc vào tình huống sử dụng và hướng dẫn của nhà sản xuất. "Các sinh phẩm này thường sử dụng tốt nhất khi tải lượng virus cao nhất từ 5 - 7 ngày sau khi khởi phát triệu chứng hoặc những người không triệu chứng nhưng tiếp xúc với ca nhiễm COVID-19 ở phạm vi tiếp xúc rất gần", ông Phu chia sẻ.

PGS Đỗ Văn Dũng - trưởng khoa y tế công cộng Trường đại học Y dược TP.HCM - lưu ý người dân khi mua các loại kit xét nghiệm nhanh cần kiểm tra kỹ các hộp, bao bì, hướng dẫn sử dụng để tránh các sản phẩm hư hại gặp phải trong quá trình vận chuyển. "Không nên sử dụng khi thấy bất kỳ thành phần nào của bộ xét nghiệm chưa được đóng gói cẩn thận hoặc bị rách, ướt. Nên đợi thời gian sau 15 - 30 phút để đọc kết quả chính xác nhất, đọc kết quả quá sớm có thể tạo ra kết quả âm tính giả", ông Dũng nói.

Ngoài ra, theo khuyến cáo của CDC Hà Nội, dung dịch thử sẽ không hoạt động tốt ở nhiệt độ lạnh, tất cả thành phần bộ sinh phẩm được để ở nhiệt độ phòng 15-30oC trước khi xét nghiệm khoảng 30 phút. Bộ sinh phẩm bị nhiễm ẩm có thể làm giảm độ ổn định của chất thử. Vì vậy, người dân cần sử dụng ngay khi mở khay thử ra khỏi giấy bạc.

Hiện nay, với biến chủng Omicron hầu như người mắc đều có tải lượng virus thấp và không xuất hiện triệu chứng bệnh, trong khi cơ chế của test nhanh chỉ có thể phát hiện bệnh khi nồng độ virus trong cơ thể người bệnh cao.

Theo Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA), hiệu quả của các xét nghiệm kháng nguyên biến thể Omicron cho thấy các xét nghiệm kháng nguyên vẫn phát hiện ra biến thể Omicron nhưng có thể làm giảm độ nhạy.

Các chuyên gia y tế khuyến cáo người dân luôn theo dõi tình trạng sức khỏe, nếu nghi ngờ bản thân có khả năng mắc COVID-19 với các triệu chứng bệnh hoặc qua yếu tố dịch tễ nhưng xét nghiệm nhanh âm tính, có thể thực hiện lại xét nghiệm nhanh lần 2 cách một khoảng thời gian hoặc xét nghiệm PCR để xác định chính xác.

Theo Tuoitre.vn

Thực trạng việc cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị

 Thực tiễn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những năm qua cho thấy, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã có nhiều cố gắng trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; xác định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và của mỗi cá nhân, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và kết quả bước đầu đạt được, việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là việc xác định trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với tập thể cấp ủy, ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị vẫn chưa thật rõ ràng và còn những hạn chế, bất cập. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; có vai trò “là thủ lĩnh”, là “đầu tàu” để dẫn dắt, truyền cảm hứng và lôi cuốn đối với tập thể cấp ủy, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhưng người đứng đầu cũng chỉ là một thành viên dự họp và khi biểu quyết cũng chỉ có một phiếu như các thành viên khác.

Trong thực tế, cũng có không ít cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đơn vị hành chính chưa thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Một mặt, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, độc đoán, chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, nhưng không được tập thể theo dõi, giám sát, giúp đỡ kịp thời, dẫn đến vi phạm nguyên tắc tổ chức và các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Mặt khác, cũng do chưa cụ thể hóa và phân định thật rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu nên còn có sự lúng túng giữa thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở nhiều nơi. Cũng có nơi đã xảy ra sai phạm do nhầm lẫn giữa thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy (thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định theo đa số) với người đứng đầu cơ quan, đơn vị (thực hiện nguyên tắc thủ trưởng quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó), nhất là đối với những đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Vì thế, nhiều nơi có biểu hiện là, khi địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị có ưu điểm, thành tích thì ai cũng thấy có công lao, thành tích của mình đóng góp ở trong đó; nhưng khi có sai lầm, khuyết điểm, thậm chí để xảy ra sai phạm, thì không xác định được trách nhiệm của tập thể và cá nhân đến đâu, nhất là của người đứng đầu; và cuối cùng là đổ cho nguyên nhân khách quan và lỗi chung của tập thể, mà không có cá nhân nào chịu trách nhiệm.

Cũng không ít nơi còn biểu hiện dân chủ xuôi chiều, dân chủ hình thức, ý kiến phát biểu của các thành viên lãnh đạo chủ yếu dựa theo ý kiến của người đứng đầu, theo kiểu “gió chiều nào che chiều ấy”. Đây thực chất là thông qua cơ chế dân chủ của tập thể để hợp thức hóa ý chí áp đặt và sự chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị. Vì vậy, trong công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, đã xảy ra không ít trường hợp là, mặc dù thực hiện “đúng quy trình” nhưng vẫn không lựa chọn được đúng người, đúng việc, trong khi đó có một số trường hợp được bổ nhiệm “thần tốc” lại là con, em, người thân của cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, nên đã gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực trạng trên có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có nguyên nhân chủ quan là việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và việc phân định chưa thật rõ ràng trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong tập thể.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

 Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đó là nguyên tắc số một về tổ chức và hoạt động của một Đảng Cộng sản. Điều lệ của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều khẳng định và chỉ rõ những nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng 92 năm qua, Đảng ta luôn xác định tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011) nhấn mạnh: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong Đảng thống nhất với thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước và trở thành một phong cách làm việc cần thiết của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hiện nay, việc thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và phong cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Thực chất, việc cụ thể hóa nguyên tắc này là xử lý hài hòa mối quan hệ giữa cấp ủy, tập thể lãnh đạo và mỗi thành viên, mà quan trọng nhất là đối với vị trí, vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó... Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”. Trong hoạt động lãnh đạo, một mặt, nếu tập thể lãnh đạo cùng tham gia, đóng góp ý kiến, thảo luận, bàn bạc thấu đáo, kỹ lưỡng, thì quyết định lãnh đạo, chủ trương, chính sách mới sẽ bảo đảm được tính khách quan, chính xác hơn, khắc phục được tình trạng chủ quan, duy ý chí; mặt khác, khi tập thể đã thảo luận một cách dân chủ, kỹ lưỡng và có quyết định chính xác, đúng đắn về chủ trương, thì không thể hô hào chung chung, mà tất cả mọi người phải cùng thực hiện, phải phân công, giao nhiệm vụ cho từng thành viên phụ trách trong từng lĩnh vực, từng công việc cụ thể. Chỉ có như vậy, hoạt động của cơ quan, đơn vị sẽ vừa phát huy được dân chủ, tập hợp trí tuệ của các thành viên và nâng cao vai trò lãnh đạo của tập thể, vừa đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, phát huy được năng lực, sở trường và tính chủ động, sáng tạo của mỗi thành viên khi được phân công phụ trách, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.

“Tập thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ trách” có mối quan hệ gắn bó mật thiết, biện chứng với nhau, là hai mặt thống nhất trong một chỉnh thể không thể tách rời. Khi một tập thể lãnh đạo gương mẫu, thực sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, tất cả vì lợi chung của Đảng, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, sẽ tạo được môi trường thuận lợi cho mỗi thành viên lãnh đạo rèn luyện, phấn đấu, phát huy hết phẩm chất, năng lực, sở trường để đóng góp cho sự nghiệp chung. Bên cạnh đó, khi mỗi thành viên cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, thực sự tiền phong gương mẫu, luôn năng động, sáng tạo, dám đổi mới, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, sẽ làm tăng thêm vai trò, sức mạnh và năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Trong mối quan hệ giữa “tập thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ trách”, thì mối quan hệ giữa cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và người đứng đầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy, tập thể lãnh đạo và vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Khi tập thể lãnh đạo thực sự đoàn kết, thống nhất, gương mẫu, giữ vững nguyên tắc tổ chức và các quy định của Đảng, tất cả vì lợi ích của nhân dân, các thành viên ban lãnh đạo đều đề cao tinh thần trách nhiệm, thẳng thắn đấu tranh với quan điểm và hành vi sai trái..., sẽ làm tăng thêm vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, trở thành chỗ dựa vững chắc để người đứng đầu quyết đoán, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành công việc theo chức trách, nhiệm vụ được giao; đồng thời, sẽ ngăn ngừa, hạn chế được những biểu hiện chủ quan, duy ý chí và hành vi vi phạm nguyên tắc của người đứng đầu. Điều đó là bởi, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền chỉ là một thành viên trong cấp ủy, tập thể lãnh đạo, nhưng có vị trí rất quan trọng, đóng vai trò “thủ lĩnh”, định hướng, dẫn dắt cả tập thể trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Thực tiễn cũng chỉ ra rằng, nếu người đứng đầu có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gương mẫu về mọi mặt, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ, sẽ góp phần xây dựng tập thể lãnh đạo đoàn kết, thống nhất, trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đưa địa phương, cơ quan, đơn vị vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nơi nào và lúc nào người đứng đầu thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu, chấp hành không nghiêm chủ trương, đường lối, các nguyên tắc, quy định của Đảng, có tư tưởng vụ lợi, cá nhân chủ nghĩa..., thì sẽ dẫn đến thiếu đoàn kết, thống nhất trong nội bộ lãnh đạo; nhiệm vụ chính trị không được hoàn thành, trong cơ quan, đơn vị thường xảy ra tiêu cực, thậm chí tham nhũng, lãng phí, vi phạm Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không những gây thiệt hại về kinh tế, mà còn làm tổn thất, mất mát về cán bộ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước..../.

Thực trạng việc phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng

 Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá việc phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, rút ra bài học kinh nghiệm; trong đó, nhấn mạnh Đảng phải thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định những ưu điểm: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định liên quan trực tiếp đến phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Trước đó, Đảng cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ này. Nhờ đó, công tác tiếp dân và đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp từng bước đi vào nền nếp. Các cấp ủy đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức hơn 90.000 hội nghị đối thoại giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân.

Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và nhân dân được đẩy mạnh, có chuyển biến tích cực. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức 10 chương trình giám sát về các vấn đề, lĩnh vực có ý nghĩa cấp bách đối với toàn xã hội; phản biện một số văn bản quan trọng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh tổ chức 721 cuộc giám sát, 784 hoạt động phản biện; cấp huyện tổ chức 6.404 cuộc giám sát, 4.403 hoạt động phản biện và cấp xã tổ chức 49.564 cuộc giám sát, 25.834 hoạt động phản biện. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và nhân dân đã có 32.064 ý kiến góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Bên cạnh những kết quả và thành công đó, Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm: “Công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế; một số cấp ủy, tổ chức đảng còn xem nhẹ công tác dân vận; việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là ở những địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát. Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả còn thấp, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”.

Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội XIII của Đảng rút ra năm bài học kinh nghiệm; trong đó, bài học thứ hai là bài học về vị thế, vai trò của nhân dân: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội XIII cũng rút ra 5 bài học kinh nghiệm; trong đó, bài học thứ hai có đoạn nhấn mạnh việc cần thường xuyên tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và thật sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng./.

Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của Đảng

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, hình thành nên tư tưởng về dân vận, về phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Người khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng không chỉ là công việc quan trọng, sống còn của Đảng, mà còn là công việc, trách nhiệm của nhân dân, bởi Đảng ta không có mục tiêu nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhân dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn gốc mọi sức mạnh của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu duy nhất, mục tiêu tối thượng, là bản chất của Đảng. Phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng là một nguyên tắc xây dựng Đảng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Đảng ta luôn thấm nhuần và hết sức coi trọng việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá thực trạng về phát huy vai trò của nhân dân để xây dựng Đảng, cũng như xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ này trong thời gian tới./.

Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ!

Một trong những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, chỉ ra rất rõ đó là: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác để tham ô, nhận hối lộ hoặc để người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác của mình trục lợi; cố ý làm trái các quy chế, quy định, dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, tiêu cực...”. Từ sự “vạch mặt chỉ tên” chủ nghĩa cá nhân đó, càng cho thấy, việc giữ gìn và phát huy truyền thống quân đội, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn cần thiết, nó như “ngọc càng mài càng sáng”. 1. Một đồng chí cán bộ lãnh đạo vốn trưởng thành từ người chiến sĩ cầm súng trên chiến trường rồi chuyển ngành, phát triển thành cán bộ cấp cao. Ông đã trải qua tất cả thăng trầm của sự nghiệp và cuộc sống cho đến lúc về hưu. Vậy nhưng mỗi khi nói điều gì đó về mình, ông luôn nhận rằng: “Tôi là người lính chiến”. Đọc kỹ lý lịch của ông tôi biết, những năm tháng là người chiến sĩ cầm súng trên chiến trường của ông không dài, thậm chí rất ngắn so với quãng thời gian ông đã chuyển ngành cho đến lúc về hưu. Vì sao ông vẫn luôn hoài niệm, tự hào với những năm tháng trong quân ngũ? Điều gì làm nên giá trị đó? Không khó lý giải, đó là phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, một nét đẹp độc đáo trong văn hóa Việt Nam và lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Khi còn sống, Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cho rằng, Bộ đội Cụ Hồ là một danh hiệu vinh dự mà nhân dân trao tặng. Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là một giá trị văn hóa, là những giá trị cao quý nhất, đẹp đẽ nhất của Quân đội ta được hun đúc qua nhiều thế hệ, trở thành bản chất, truyền thống của quân đội. Bộ đội Cụ Hồ là sự kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc và đây là thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị. Trong khi đề cập rất sâu kỹ những giá trị tốt đẹp của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, Nghị quyết 847 của Quân ủy Trung ương cũng chỉ rõ: “Còn một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức chưa sâu sắc, trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ chưa cao; thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, băn khoăn dao động trước diễn biến phức tạp của tình hình...; trong đó có cả cán bộ cao cấp, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm kỷ luật, pháp luật, quy định về những điều đảng viên không được làm, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, quân đội, làm ảnh hưởng đến truyền thống, uy tín của quân đội, phẩm chất và hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. 2. Nhận định của Quân ủy Trung ương thể hiện trong Nghị quyết 847 là thẳng thắn, khách quan. Thời gian qua, hàng loạt cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những cán bộ giữ các cương vị quan trọng của Đảng, Nhà nước có vi phạm kỷ luật, pháp luật bị xử lý. Trong quân đội, số cán bộ, chiến sĩ bị kỷ luật rất đáng suy nghĩ, trong đó có cả các đồng chí là cán bộ cấp cao. Qua nhiều vụ án, tìm hiểu về lai lịch chính trị của các cá nhân vướng vào vòng lao lý, mỗi chúng ta không khỏi xót xa, tiếc nuối. Nhiều người trong số đó đã từng vào sinh ra tử trên chiến trường, cận kề giữa cái sống và cái chết. Có những người từng sẵn sàng nhường mạng sống cho đồng đội. Họ không bị gục ngã bởi bom đạn, không bị khuất phục bởi sức mạnh của kẻ thù, vậy mà giữa thời bình, họ đã gục ngã bởi “những viên đạn bọc đường”. Cơ chế thị trường, sự tác động của ngoại lai... khiến một số người không còn giữ được những phẩm chất của anh Bộ đội Cụ Hồ ngày nào. Chủ nghĩa cá nhân đã lấn át, đã ăn sâu vào họ. Các Mác vĩ đại có một câu kinh điển: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội". Bản chất con người không phải trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, đồng thời biến đổi chính bản thân mình. Mọi thay đổi của mỗi con người thường bắt đầu từ những hành vi, thói quen, nhưng nếu là thói quen xấu, lại tự mình không nhận ra, không được người khác góp ý, phê bình sẽ dần dần tạo thành tính cách. Khi có chức vụ, có địa vị, có tiền bạc, con người ta dễ dẫn đến tư tưởng hưởng thụ, thỏa mãn, coi thường. Đôi khi, một số người có được chức vụ, tiền bạc một cách dễ dàng, ít phải đổ mồ hôi, công sức dẫn đến tư tưởng tự mãn, quan liêu, độc đoán, gia trưởng. Và chính họ đã sa vào chủ nghĩa cá nhân mà không nhận ra. Chủ nghĩa cá nhân vừa là nguyên nhân vừa là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Những cá nhân sai phạm sẽ bị pháp luật xử lý. Luật pháp là công bằng. Thượng tôn pháp luật là lẽ sinh tồn của quốc gia. Luật pháp Việt Nam không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào làm phương hại đến lợi ích của nhân dân, của đất nước. Không ai được phép đứng trên pháp luật, đứng ngoài Hiến pháp. Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm chính là bảo vệ hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp của Nhà nước và nhân dân, để giữ vững ổn định và phát triển của toàn xã hội. Nhưng rồi, sau mỗi vụ việc đều để lại bao điều trăn trở, giá như... Trách người vi phạm là lẽ thường, nhưng tổ chức đã ở đâu khiến cho các cá nhân đó lún sâu vào vi phạm? Vì sao các nguyên tắc, quy định của tổ chức, của Đảng lại bị xem nhẹ, bị bỏ qua trong các vụ việc đó? 3. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Điều đó cho thấy, quá trình tu dưỡng, rèn luyện của mỗi con người phải là quá trình thường xuyên, liên tục, nó như việc “rửa mặt” hằng ngày. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, nêu rõ: “Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”. Trong điều kiện hiện nay, việc gìn giữ và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là vô cùng cần thiết, nó vẫn còn nguyên tính thời sự, như Nghị quyết 847 đã đề cập. Phẩm chất, giá trị Bộ đội Cụ Hồ không phải là cái bất biến mà nó đòi hỏi cần luôn gìn giữ và phát huy cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Điều này cũng bác bỏ quan điểm của một số người còn băn khoăn, chần chừ khi cho rằng, phẩm chất, văn hóa Bộ đội Cụ Hồ chỉ được thể hiện sâu sắc trong thời chiến, còn thời bình đã có phần phai nhạt. Cách suy nghĩ này là không thuyết phục. Cái đã trở thành văn hóa thì nó đã trở thành bản chất, thành cái thường xuyên ở trong mỗi con người. Phẩm chất, văn hóa Bộ đội Cụ Hồ không đi ra ngoài quy luật đó. Tuy vậy, nó đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi con người nhận thức đúng về nó. Mỗi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên hay quần chúng đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức người quân nhân cách mạng. Giáo dục, rèn luyện, gìn giữ và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ đi liền với chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm vừa cấp bách, vừa thường xuyên, là trách nhiệm của mọi người để xứng đáng với truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng mà lớp lớp cha ông đã vun đắp.

 

TRIẾT LÝ NGOẠI GIAO CẦN PHẢI HƯỚNG ĐẾN MỤC TIÊU TRÁNH ĐƯỢC CHIẾN TRANH ĐỔ MÁU

Chiến tranh tại Ukraine được cho là một kết quả thất bại của chiến lược ngoại giao. Để chiến tranh xảy ra là một bước lùi, mang lại những hậu quả nghiêm trọng về mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của cả đất nước. Bao nhiêu công sức, tiền của bỏ ra xây dựng cơ sở hạ tầng bị phá hủy, thương vọng thiệt hại, đời sống nhân dân đảo lộn. An ninh khu vực, thế giới bị đe dọa nghiêm trọng, tiềm ẩn những nguy cơ mở rộng xung đột, lan rộng, đe dọa đến hòa bình thế giới.

Thực tế lịch sử thế giới cho thấy, những nước nhỏ nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng rất dễ có nguy cơ bị can thiệp và biến thành nơi cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn. Điều đó, đòi hỏi chính sách đối ngoại của nước đó cần hết sức linh hoạt, mềm dẻo và thực dụng nhằm đạt được mục đích duy trì sự ổn định trong khu vực để phát triển đất nước.

Thành công của Thái Lan

Thái Lan là nước thường được nhắc đến với sự thành công của chính sách ngoại giao mềm dẻo. Trong khoảng 4 thế kỷ gần đây, các chính quyền ở Thái Lan luôn kiên định các lợi ích cốt lõi trong khi lại có thể linh hoạt các biện pháp nhằm ứng biến với sự thay đổi bối cảnh chính trị quốc tế. Từ cuối thế kỷ 19, triết lý ngoại giao linh hoạt được coi là yếu tố chủ chốt giúp Thái Lan giảm thiểu được nguy cơ bị can thiệp bởi các thế lực nước ngoài, bảo toàn được nền độc lập, tránh không bị đô hộ trực tiếp bởi chủ nghĩa thực dân như các quốc gia láng giềng. Cụ thể hơn, giai đoạn Vua Chulalongkorn trị vì đất nước (1868-1910), Thái Lan cân bằng mối quan hệ với cả Anh và Pháp để tránh họa thực dân đô hộ. Giai đoạn 1939-1944, Thái Lan quan hệ hữu hảo với Nhật Bản; từ 1945-1957 thì nghiêng về Mỹ và phương Tây. Thời kỳ chiến tranh lạnh (1960 - cuối 1980), Thái Lan thúc đẩy quan hệ với Mỹ và ASEAN. Những năm đầu thế kỷ 21, Thủ tướng Thaksin Shinawatra đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Mỹ và thắt chặt quan hệ chính trị với các nước ASEAN. Từ sau năm 2010, chúng ta chứng kiến những dấu hiệu phát triển quan hệ nồng ấm hơn giữa Thái Lan với Trung Quốc. 

Chính sách ngoại giao của Thái Lan là sản phẩm từ sự kết hợp giữa tư duy thực dụng (tối đa hóa lợi ích quốc gia, đề cao sự sinh tồn, cân bằng các quan hệ quyền lực) với những ý niệm truyền thống về độc lập dân tộc cũng như các giá trị văn hóa, tư tưởng, chuẩn mực và thông lệ ứng xử hình thành trong lịch sử nước này. Điểm chung của chính sách đối ngoại qua các thời kỳ là Thái Lan luôn có được quan hệ hữu hảo với các quốc gia và tổ chức quyền lực nhất. Cũng vì thế, họ không chỉ duy trì được nền độc lập và tự chủ mà còn tận dụng được cơ hội phát triển.

Tình huống tại Ukraine

Ukraine vốn là một thành viên thuộc Liên bang Xô Viết, tách ra thành quốc gia độc lập từ năm 1992. Giữa Ukraine và Nga có mối quan hệ khá khăng khít trên nhiều phương diện. Bởi thế, từ năm 1992 đến trước 2010, Ukraine vẫn chịu sự ảnh hưởng từ Nga. Tuy nhiên, từ năm 2010 trở lại đây, các chính quyền ở Kiev chủ trương ngả hẳn về phương Tây. Cụ thể hơn, họ không giấu giếm nguyện vọng gia nhập NATO. Trước nguy cơ NATO thâu nạp nốt những thành viên cuối cùng của Liên bang Xô Viết và đưa các mối đe dọa an ninh quốc gia tới sát biên giới, Tổng thống Putin coi sự mở rộng về phía Đông của NATO là mối đe dọa hiện hữu. Viễn cảnh Ukraine gia nhập liên minh quân sự của phương Tây bị cho là "hành vi thù địch". Moscow luôn nhấn mạnh quan điểm "Ukraine không chỉ là quốc gia láng giềng, mà là một phần không thể thiếu trong lịch sử, văn hóa và tinh thần của Nga".

Bất chấp những đề xuất và cảnh báo từ phía Nga, NATO không quan tâm hay xem xét lại chính sách kết nạp thành viên mới, trong đó có Ukraine. Cùng với đó, các hành động trấn áp các lực lượng ly khai do chính quyền Ukraine thực hiện nhiều năm qua đã khiến Nga đi tới quyết định can thiệp quân sự vào ngày 24/2/2022. Hệ quả dễ thấy nhất là chính quyền của Tổng thống Volodymyr Zelensky đang phải đương đầu với quân đội Nga - một đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới hiện nay. Những thiệt hại về người và cơ sở vật chất đã xảy ra. Nghiêm trọng hơn, sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine không còn được bảo đảm, nguy cơ đất nước bị đưa trở lại vòng kiểm soát và ảnh hưởng của nước lớn ngày càng trở nên rõ hơn.

Như vậy, có thể thấy chính sách đối ngoại của Thái Lan và Ukraine đang cung cấp hai cách tiếp cận với những kết quả trái ngược nhau.

Trước nguy cơ can thiệp từ bên ngoài, Thái Lan theo đuổi nguyên tắc mềm dẻo và thực dụng nhưng nhất quán về nền độc lập dân tộc. Ứng xử của Thái Lan từ giữa thế kỷ 20 đến nay cho thấy họ có thể nhanh chóng thay đổi ưu tiên chính sách đối ngoại nhằm xây dựng quan hệ hữu hảo và cân bằng với các nước lớn, cũng như hài hòa trong quan hệ với các nước láng giềng. Thái Lan không chạy theo những tư tưởng, giá trị, hay lợi ích của nước khác mà luôn dựa vào truyền thống và kiên định lợi ích quốc gia để linh hoạt điều chỉnh ưu tiên chính sách trong quan hệ quốc tế.

Ngược lại, bất chấp những mối quan hệ truyền thống hết sức đặc biệt với nước Nga và thực tế cơ hội để gia nhập NATO vẫn còn rất mong manh, các chính quyền gần đây của Ukraine không chỉ cứng rắn trong quan hệ với Nga mà còn tỏ ra đặc biệt đề cao việc gia nhập liên minh phương Tây. Họ đã coi nhẹ nguy cơ bị can thiệp bởi một nước lớn láng giềng trong khi còn mơ hồ về khả năng giúp đỡ của các đồng minh tiềm năng.

Hệ quả nhãn tiền là, với sự can thiệp của quân đội Nga hiện nay, nền độc lập dân tộc và các lợi ích quốc gia khác của Ukraine đứng trước nhiều nguy cơ nghiêm trọng.

 Ngoại giao cây tre Việt Nam

Khái niệm “ngoại giao cây tre” đề cập tới quan niệm coi mỗi nước cùng các lợi ích quốc gia như bụi tre, sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều luồng gió khác nhau đến từ các quyền lực bên ngoài. Để tồn tại và đứng vững, các chính sách đối ngoại phải linh hoạt và thực dụng. Đây chính là hai nguyên tắc nền tảng của ngoại giao cây tre, với mục tiêu tối thượng là độc lập dân tộc và bảo vệ các lợi ích quốc gia gắn với từng thời kỳ khác nhau.

Phát biểu mới đây tại hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh “ngoại giao cây tre Việt Nam”. Theo đó, lợi ích quốc gia, dân tộc được coi là mục đích cao nhất, là cơ sở gốc rễ cho các chính sách đối ngoại của Việt Nam. Cây tre ngoại giao Việt Nam có gốc phải vững, thân phải chắc, và cành phải uyển chuyển để thích ứng với từng bối cảnh cụ thể.

Sự kiên định về lợi ích quốc gia, linh hoạt và mềm dẻo, quyết đoán và nhún nhường, thực tế và thực dụng trong từng hành động chính sách đối ngoại sẽ bảo đảm cho Việt Nam giảm thiểu nguy cơ bị can thiệp từ bên ngoài, bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ và tự chủ trong quá trình phát triển đất nước./.

Mở cửa du lịch?

15 ngày nữa, Chính phủ sẽ cho phép mở cửa du lịch quốc tế, từ 15/3. Đây là cột mốc quan trọng, mang lại rất nhiều hy vọng cho những người làm du lịch sau hai năm dài khó khăn. Mở cửa du lịch quốc tế nghĩa là doanh nghiệp được chủ động lên kế hoạch đón khách vào Việt Nam (inbound) và đưa khách Việt Nam ra nước ngoài (outbound) như trước đây mà không phải lo lắng bất kỳ rào cản hạn chế nào nữa. Khỏi phải nói, chúng tôi hứng khởi chờ đợi ngày này như thế nào. Thế nhưng, khi nhìn vấn đề với con mắt thận trọng và nhiều hoài nghi hơn, tôi tự hỏi liệu mở cửa trở lại du lịch quốc tế sau chừng đó thời gian có dễ dàng như vậy; điều gì sẽ chờ đợi chúng tôi sau sự hứng khởi ban đầu. Mở cửa trong bối cảnh các quốc gia trong khu vực đã hoặc đang tiến hành nối lại bình thường du lịch quốc tế đồng nghĩa Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh sòng phẳng mà ở đó ai chuẩn bị kỹ càng và đầu tư tốt hơn, sẽ nắm trong tay lợi thế. Khi lợi thế về khả năng quay lại sớm hơn nhờ hiệu quả chống dịch đã không còn, chìa khóa quyết định nằm ở nội lực của ngành du lịch Việt Nam, từ điểm đến tới doanh nghiệp. Nhìn cách Thái Lan chuẩn bị cho sự trở lại, tôi thấy áp lực cạnh tranh đè nặng. Khác với Việt Nam, mới thí điểm đón khách quốc tế trong những tháng cuối năm 2021, Thái Lan bắt đầu thử nghiệm đón khách quốc tế từ giữa tháng 7/2021 thông qua mô hình Phuket Sandbox. Trong bối cảnh dịch bệnh vẫn phức tạp thời điểm đó, nhờ các giải pháp chiến lược rõ ràng và cụ thể của Phuket Sandbox, ngành du lịch Thái Lan đã nắm giữ được bài học quan trọng nhất, là biết cách vận hành như thế nào để vừa bảo đảm an toàn, vừa hài lòng du khách. Chỉ tính riêng ở Phuket, du lịch Thái Lan đã kịp đón hơn 28.000 lượt khách và thu về ít nhất 48 triệu USD trong hai tháng triển khai thí điểm. Nhờ đó, du lịch Thái Lan nhanh chóng nhân rộng mô hình tương tự ra các địa phương khác và dần mở cửa trở lại toàn bộ ngành du lịch trên toàn quốc từ đầu tháng 2 năm nay, thông qua chương trình Test&Go. Song song với tuyên bố mở cửa, Thái Lan cũng có chiến lược thị trường rõ ràng và phù hợp với giai đoạn mới: chuyển hướng sang thị trường khách cao cấp bằng những ưu đãi, sản phẩm đặc thù thay cho các thị trường khách truyền thống trước đó. Thậm chí, họ còn mạnh dạn đẩy mạnh chương trình cư trú dài hạn hướng đến thị trường công dân toàn cầu thu nhập cao, những người về hưu và các chuyên gia cao cấp, để đón đầu xu hướng mới của thế giới. Việt Nam bắt đầu thí điểm đón khách quốc tế từ tháng 11/2021 ở Phú Quốc, sau đó mở rộng ra các địa phương Khánh Hòa và Quảng Nam. Tính đến tháng 1/2022, tức là sau gần ba tháng triển khai, chúng ta đón được 8.900 khách quốc tế. Du lịch Việt Nam đạt thành tựu được đánh giá là "thần kỳ" trong giai đoạn 2016-2019. Đặc biệt, năm 2019, toàn ngành đón hơn 18 triệu lượt khách quốc tế (cao nhất từ trước tới nay), phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa, tổng thu đạt khoảng 720.000 tỷ đồng. Với kết quả này, Việt Nam là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới. Nhưng những người trong ngành như chúng tôi đều thấy rõ bên cạnh thành công đó, tồn tại những bất cập cần thẳng thắn nhìn nhận: Phụ thuộc nghiêm trọng vào một số ít thị trường; Chất lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế; Sản phẩm du lịch nghèo nàn; Truyền thông thương hiệu kém hiệu quả. Trong giai đoạn tăng trưởng nóng, đang trên hành trình thành công, sẽ không dễ dàng cho nhà quản lý quyết định làm mọi thứ chậm lại để giải quyết những bài toán tử huyệt từ bên trong như thế này. Chúng tôi đã hy vọng, hai năm Covid vừa qua là một khoảng nghỉ cần thiết sau một giai đoạn tăng trưởng nóng để ngành du lịch Việt Nam tập trung giải quyết những tồn tại lớn, tái cấu trúc hệ thống du lịch để sẵn sàng cho một cuộc chơi mới, khó khăn hơn rất nhiều. Hai năm qua, tôi đã tham gia rất nhiều hội nghị, hội thảo bàn về giải pháp phục hồi du lịch. Thế nhưng, như tôi quan sát, sau tất cả, những vấn đề đó đến nay vẫn chỉ dừng lại ở những câu chuyện nói trong phòng hội nghị, hay tốt hơn nữa là được đặt ra như những điều cần xem xét trên những bản thảo. Chưa một điều gì được thật sự giải quyết triệt để. Khi các "rào cản kỹ thuật" đã không còn, nhiệm vụ tiếp theo của câu chuyện đón khách quốc tế sẽ là vấn đề của chính ngành du lịch. 15 ngày nữa, chúng ta mở cửa. Khách du lịch chắc chắn quay trở lại nhưng sẽ theo một cách hoàn toàn khác biệt. Thị trường đang thay đổi hàng ngày. Ngành du lịch ở quốc gia từng là một trong những điểm đến có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới thời điểm cách đây hai năm sẽ phải sẵn sàng với vô vàn yêu cầu mới từ du khách, về truyền thông, sản phẩm và chất lượng dịch vụ trong bối cảnh hoàn toàn mới. Đây là khối lượng công việc khổng lồ mang tính chiến lược, đòi hỏi không chỉ một mà cần sự hợp tác của rất nhiều bên liên quan trong ngành. Không thể chỉ trông chờ vào tiềm năng sẵn có của đất nước. Chỉ khi giải quyết được các tử huyệt nội tại của ngành, du lịch Việt Nam mới đi được những bước dài sau mở cửa.

Tăng tính tích cực, chủ động, tự giác tu dưỡng, rèn luyện phát huy tinh thần yêu nước của Thanh niên quân đội (TNQĐ)

 Phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay được thể hiện ở tình cảm yêu mến quê hương, đất nước, gia đình, dòng họ, tình đồng chí đồng đội, yêu mến gắn bó với đơn vị, nêu cao ý chí quyết tâm học tập, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện theo mục tiêu yêu cầu xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Để TNQĐ có động cơ mục đích học tập, rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu trưởng thành đúng đắn thì cần phải làm cho họ hiểu rõ mục tiêu yêu cầu xây dựng quân đội đó là: Huấn luyện ra những quân nhân với đầy đủ trình độ, phẩm chất nhân cách, năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mỗi TNQĐ thấy rõ vinh dự và trách nhiệm của mình trong quá trình sống, học tập, công tác, rèn luyện, phấn đấu trưởng thành ở các đơn vị trong Quân đội. Bên cạnh đó cần khắc phục những biểu hiện cơ hội, trung bình chủ nghĩa trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trưởng thành của TNQĐ.

TNQĐ cần nắm vững và vận dụng linh hoạt các hình thức tự học, tự rèn luyện, ý thức về bản chất tinh thần yêu nước trong tác động của dịch Covid-19 hiện nay. TNQĐ ở đơn vị cơ sở cần tích cực tự đọc tài liệu, sách, báo, đây là một trong những hình thức phương pháp quan trọng hàng đầu để nắm vững về bản chất tinh thần yêu nước trong tác động của dịch Covid-19; phải biết lựa chọn những tài liệu, sách, báo có liên quan đến chức trách, nhiệm vụ và liên quan trực tiếp đến tác động của dịch Covid-19; đồng thời, phải thường xuyên ghi chép phù hợp thông qua các hình thức, phương pháp tự phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để nắm bắt, xử lý thông tin liên quan đến bản tinh thần yêu nước qua các thế hệ và trước tác động của dịch Covid-19. Bản thân mỗi TNQĐ phải chắt lọc thông tin, biết chủ động ngăn ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đặc biệt, trên cơ sở tinh thần yêu nước, biết nhận rõ âm mưu của chúng về lợi dụng vấn đề tác động Covid-19 chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ta hiện nay. Thông tin về dịch Covid-19 rất đa dạng, nhiều chiều, TNQĐ cần tích cực tiếp thu các thông tin từ các nguồn tin chính thống, mỗi thông tin nắm bắt được phải được phân tích, đối chiếu, so sánh, bình luận sâu sắc, lý giải thấu đáo, có tính phê phán cao đối với những vấn đề quan tâm, thắc mắc.

TNQĐ cần tích cực, tự giác, tự nguyện tham gia thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 để rèn luyện tính tự giác, ý chí quyết tâm cao, tôi luyện sự bền bỉ, dẻo dai, sức chịu đựng trước những tác động của dịch Covid-19. Đồng thời góp phần nâng cao tính chủ động, độc lập, sáng tạo trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ quan trọng. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề thúc đẩy sự tích cực và tự giác trong việc tự phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ. TNQĐ cần chủ động tuân thủ chặt chẽ kế hoạch huấn luyện, công tác trong thực tiễn phòng, chống dịch Covid-19 cấp trên đã đề ra. Chống mọi biểu hiện trốn tránh nhiệm vụ, chây ì, thiếu tự giác trong công tác, huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần khen thưởng, động viên kịp thời các tập thể, cá nhân tích cực, tự giác trong công tác, nêu gương điển hình tiên tiến, nhân rộng trong đơn vị, làm cho tinh thần yêu nước của TNQĐ ngày càng được phát huy tốt hơn vào nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 hiện nay.

TNQĐ là lực lượng đông đảo, là lớp kế cận trong sự nghiệp xây dựng quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới nói chung và nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 nói riêng. Phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay là một yêu cầu khách quan, một nhiệm vụ quan trong, cấp bách. Việc phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 là một quá trình đầy khó khăn và phức tạp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhiều lực lượng, đặc biệt thực tiễn dịch Covid-19 diễn ra hết sức phức tạp, khó lường. Để góp phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay, cần phải thực hiện đồng bộ, toàn diện, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn của từng đơn vị các biện pháp cơ bản trên.

Các biện pháp trên được hiện thực hoá trong thực tiễn sẽ là cơ sở đánh giá chất lượng hoàn thành tốt nhiệm vụ của TNQĐ hiện nay, góp phần quán triệt và thực hiện hiệu quả lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta đã cố gắng, càng cố gắng hơn nữa; đã đoàn kết, càng đoàn kết hơn nữa; đã quyết tâm, càng quyết tâm cao hơn nữa”, càng khó khăn, phức tạp, càng phải đoàn kết, thống nhất, với tinh thần “mỗi người dân là một chiến sĩ”, “mỗi gia đình, cơ quan, đơn vị, địa phương là một pháo đài chống dịch”, tôi tin tưởng sâu sắc rằng, với sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn Dân, toàn quân “triệu trái tim, một ý chí”, sự ủng hộ, giúp đỡ của đồng bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế, nhất định chúng ta sẽ sớm chiến thắng đại dịch Covid-19...”

Không ngừng đổi mới, tạo sự phù hợp giữa nội dung, hình thức, biện pháp phát huy tinh thần yêu nước của Thanh niên quân đội (TNQĐ) trong tác động dịch Covid-19 hiện nay

 Chú trọng giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là nội dung căn bản để TNQĐ giữ vững bản chất giai cấp công nhân, hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng, là nền tảng để hình thành, phát triển tinh thần yêu nước, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc phòng, chống, khắc phục dịch Covid-19 hiện nay. TNQĐ cần có ý chí quyết tâm cao, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn và phương pháp tác phong công tác tốt, lối sống trung thực, giản dị, không bị cám dỗ bởi lối sống cá nhân chủ nghĩa, thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường; không ngại khó, ngại khổ, ngại học, ngại rèn, nâng cao năng lực, trình độ toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình dịch Covid-19 phức tạp. Do đó, các chủ thể cần chú trọng giáo dục những nội dung này, bằng nhiều hình thức, biện pháp để lồng ghép, truyền tải trong quá trình huấn luyện, rèn luyện, học tập, sinh hoạt của TNQĐ.

Tăng cường tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu, sáng tác, viết báo về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước trong các đơn vị, đấu tranh với các tư tưởng, quan điểm sai trái; thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ trao đổi, tọa đàm, diễn đàn giao lưu với các Anh hùng quân đội, cựu chiến binh, các nhân chứng lịch sử, cá nhân biêu tiểu trong tham gia phòng, chống dịch Covid-19, các buổi sinh hoạt truyền thống,... Thông qua các hoạt động đó, TNQĐ nhận thức sâu sắc hơn, hành động quyết tâm hơn, phát huy tinh thần yêu nước của bản thân tốt hơn trong tác động dịch Covid-19. Để làm tốt các hoạt động này, đòi hỏi các chủ thể cần xác định rõ mục tiêu tìm hiểu, sáng tác ngay từ khi lựa chọn chủ đề và thiết kế các câu hỏi, các tiết mục theo yêu cầu của mỗi hoạt động, trực tiếp hướng các hoạt động này vào phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay.

Đa dạng các loại hình văn hóa, nghệ thuật quần chúng là một trong những kênh truyền dẫn cơ bản để phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19. Thông qua các lần hội diễn nghệ thuật quần chúng với các thể loại nghệ thuật như ca múa, nhạc, kịch, thơ,… nhằm xây dựng, củng cố tinh thần yêu nước của TNQĐ. Khi tổ chức các hoạt động này, các chủ thể cần thường xuyên quan tâm, đầu tư thích đáng về nội dung, thời gian, vật chất, tránh hiện tượng thả nổi, thiếu định hướng hay “khoán trắng”.

Thường xuyên tổ chức các buổi tham quan bảo tàng, các di tích lịch sử, văn hóa, di tích chiến tranh, nghĩa trang liệt sĩ... Đây là những hình thức trực quan sinh động, hấp dẫn, gây cảm xúc và ấn tượng mạnh mẽ cho TNQĐ về lịch sử hào hùng của dân tộc, về những chiến công oanh liệt, những mất mát hy sinh của các thế hệ cha ông trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, từ đó khơi dậy trong họ tinh thần yêu nước, lòng tự hào và biết ơn, kính trọng; bài học sống động, sâu sắc về tinh thần yêu nước của tổ tiên, ông cha ta. Để thực hiện tốt hình thức này, các chủ thể cần có kế hoạch chu đáo, có sự hướng dẫn, giới thiệu, thuyết minh cụ thể, sinh động; sau mỗi lần tham quan cần căn cứ vào tình hình cụ thể để tổ chức viết thu hoạch, trao đổi, mạn đàm, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiểu biết về lịch sử truyền thống, bồi dưỡng tình cảm yêu nước, phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay./.

Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về phát huy tinh thần yêu nước của Thanh niên quân đội (TNQĐ) trong tác động dịch Covid-19 hiện nay

 Đối với các cấp ủy, tổ chức đảng: Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất mọi hoạt động phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ thông qua các chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, hướng dẫn... của cấp ủy. Ban hành các nghị quyết chuyên đề và tổ chức quán triệt thực hiện nghị quyết để các chủ thể nhận thức đầy đủ về việc phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay.

Đối với hệ thống chỉ huy: Chỉ huy các cấp là trung tâm quản lý, chỉ đạo, điều hành sự phối hợp giữa các chủ thể về việc phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay. Cần xây dựng kế hoạch phối hợp hoạt động chặt chẽ, thống nhất giữa các chủ thể để tổ chức thực hiện có hiệu quả kế hoạch đã đề ra. Kế hoạch cần xác định rõ nội dung, chương trình, hình thức và phương pháp phát huy; quy định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ và cách thức, biện pháp phối hợp giữa các chủ thể; xác định rõ quyền lợi gắn với thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của từng chủ thể. Tổ chức hội nghị quán triệt, giao nhiệm vụ và triển khai kế hoạch cho các cơ quan, đơn vị trong toàn quân thực hiện một cách thống nhất, khoa học và hiệu quả. Tổ chức hội nghị sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, đánh giá hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể, kịp thời bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế phối hợp trong việc phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay.

Đối với cơ quan chính trị: Cơ quan chính trị là cơ quan tham mưu cho cấp uỷ, chỉ huy các cấp và đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị của các đơn vị trong toàn quân. Hoạt động của cơ quan chính trị ở các cấp góp phần rất quan trọng để phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay. Vì vậy, muốn quá trình phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ đạt hiệu quả thì cơ quan chính trị phải bám sát chủ trương, nghị quyết của cấp uỷ và kế hoạch của chỉ huy các cấp để lập kế hoạch công tác đảng, công tác chính trị. Tăng cường công tác chỉ đạo, thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị cấp trên của đơn vị, đoàn thể, kịp thời uốn nắn, nhắc nhở việc nhận thức, tư tưởng hành động và kết quả tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của người quân nhân cách mạng, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19.

Đối với tổ chức đoàn thanh niên: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được xem là trường học XHCN, là tổ chức quần chúng ở đơn vị, nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi hoạt động của đơn vị, rèn luyện và nâng cao kỹ năng sống cho TNQĐ. Vì vậy tổ chức đoàn cần chú trọng giáo dục truyền thống, mục tiêu, lý tưởng, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống; xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin, bồi dưỡng lòng yêu nước và thái độ trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ cho đoàn viên, thanh niên. Giáo dục chính trị phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật và kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị; chú trọng đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong TNQĐ. Tăng cường công tác giáo dục lịch sử, truyền thống dân tộc, ý thức tự lực, tự cường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bồi dưỡng, xây dựng nhân cách, lối sống lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật, gương mẫu; cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; nhận rõ đối tượng và đối tác… Thông qua đó sẽ nâng cao nhận thức, trách nhiệm phát huy tinh thần yêu nước của TNQĐ trong tác động dịch Covid-19 hiện nay.

Đối với TNQĐ: Cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và sự cần thiết phải phát huy tinh thần yêu nước của mình trong tác động dịch Covid-19 hiện nay. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, luôn đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị phải tiến hành thường xuyên, liên tục, thiết thực, hiệu quả. Thông qua giáo dục nhằm xây dựng cho TNQĐ ở các đơn vị giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng và lối sống đẹp; có ước mơ, hoài bão, khát vọng xây dựng quân đội, xây dựng đất nước; nâng cao nhận thức của TNQĐ về mối quan hệ giữa phát huy tinh thần yêu nước với thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19./.