Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

Một số thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay

 


 

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ _Ảnh: Tư liệu

Mục đích cao nhất, có tính chiến lược của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm làm cho Đảng và nhân dân ta xa rời, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xa rời, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là làm cho cán bộ, đảng viên ta từ bỏ nền tảng tư tưởng - vũ khí tinh thần, từ bỏ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Thực hiện mục đích đó, chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức tinh vi, xảo quyệt thích ứng với mọi tình hình, mọi đối tượng, mọi thời điểm, hoàn cảnh khác nhau. Công tác đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của Đảng và Nhà nước ta vì thế cũng vô cùng phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải có tư duy mới và hành động hiệu quả hơn.

Trong thực tế thật khó có thể tách bạch âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch về tư tưởng, lý luận đối với Đảng và nhân dân ta hiện nay. Chúng được tiến hành đan xen, ẩn hiện trong nhau rất tinh vi, khó xác định dưới nhiều màu sắc, cấp độ khác nhau, lẫn lộn thật - giả, đúng - sai... khiến người ta khó phân biệt, dễ lầm lẫn, khó đấu tranh.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng ở những biểu hiện chính sau:

Một là, phủ nhận, chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trên phương diện tư tưởng, lý luận, chúng luôn tìm mọi cách phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tung ra những luận điệu cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo là “mất dân chủ”, là “chuyên chế”, “đặc quyền, đặc lợi”, là “bóp nghẹt dân chủ”...; rằng, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ” trong Đảng và trong đời sống xã hội. Chúng đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng. Đây là mục tiêu không mới nhưng chúng kiên trì với thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” bằng những chiêu trò mới, hòng thực hiện đến cùng việc chống phá Đảng ta.

Từ tuyên truyền theo kiểu lô-gíc hình thức rằng, “có nhiều đảng cạnh tranh mới là dân chủ” chúng lờ đi mục đích của Đảng ta là kiên trì đấu tranh xóa bỏ mọi bất công, mang lại quyền bình đẳng, thực hiện dân chủ, quyền làm chủ thực sự cho nhân dân. Gần 90 năm qua, Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người tự do, làm chủ  và xây dựng đất nước không ngừng phát triển như ngày nay, sánh vai với các nước trên thế giới. Âm mưu chống phá vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với nhiều “lý sự” trắng trợn hòng lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn ngộ nhận tin theo, đòi “đa nguyên, đa đảng” dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Chúng tỏ ra “khách quan”, “bảo vệ quyền lợi chính đáng” của người dân, “bênh vực dân” nên làm cho không ít người ngộ nhận tin theo. Âm mưu rất thâm độc, có tính chiến lược này của chúng được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn mới, kết hợp cả tư tưởng, lý luận, chính trị, kinh tế để chống phá ta từ bên trong kết hợp với bên ngoài, làm một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hóa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từng bước làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng.

Âm mưu, thủ đoạn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được chúng tiến hành từ lâu. Đặc biệt, từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đã “chớp thời cơ”, coi đây là “thời cơ vàng” tấn công nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản ở các nước kiên trì phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, trước công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta, các thế lực thù địch ra sức cổ vũ cho “chủ nghĩa tự do”, thị trường tuyệt đối, làm giàu bằng bất cứ giá nào, phủ nhận những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng đưa ra cách “lập luận” kiểu lô-gíc hình thức, rằng chủ nghĩa Mác ra đời cách đây đã hơn 150 năm, bối cảnh lịch sử hiện đã thay đổi cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể cứ khư khư giữ lấy “cái học thuyết đã lỗi thời đó” làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Từ đấy, chúng xuyên tạc rằng, một đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi. Chúng trắng trợn bác bỏ tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng Hồ Chí Minh “không phải là nhà tư tưởng” mà chỉ là “nhà hoạt động thực tiễn” nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng lờ đi những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh giàu chất lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người đã soi đường cho dân tộc ta và ảnh hưởng đến nhiều dân tộc khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.

Bằng âm mưu, thủ đoạn lấy tư duy hình thức thay cho phương pháp tư duy biện chứng, chúng chống phá, bác bỏ hệ thống tư tưởng, lý luận của Đảng ta; chống phá, bác bỏ nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Chúng còn trắng trợn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua hơn 30 năm đổi mới. Những thành tựu đó đã làm thay đổi lớn bộ mặt đời sống kinh tế - xã hội, giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được cả thế giới thừa nhận và ngợi ca. Thế nhưng, chúng vẫn lừa bịp, lố bịch mê hoặc, lôi kéo không ít người do thiếu hiểu biết, trình độ tư tưởng, lý luận hạn chế đã ngộ nhận tin theo chúng. Thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” của chúng được tiến hành dưới nhiều hình thức một cách kiên trì, gây chia rẽ, kích động, lôi kéo từng cá nhân bất mãn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh vững vàng tin theo chúng. Rõ ràng, âm mưu, thủ đoạn tấn công bằng tư tưởng, lý luận để làm thay đổi nhận thức, thay đổi niềm tin của con người là rất thâm độc và tinh vi, xảo quyệt. Âm mưu, thủ đoạn này đã từng được các thế lực thù địch thực hiện có hiệu quả ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây và được chúng tích cực áp dụng trong điều kiện hiện nay.

Ba là, chống phá đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.

Các thế lực thù địch luôn coi đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta là mục tiêu chống phá. Thực hiện mục tiêu ấy, chúng dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc, bác bỏ, chống phá. Mặc dù “lý lẽ” đã cũ rích, nhưng chúng vẫn không từ bỏ, luôn rêu rao rằng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin “đã sai lầm”, “lỗi thời”, “lạc hậu”, thể hiện ở sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng dẫn ra các hiện tượng, hình thức, trái với bản chất để mê hoặc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết khoa học, như “lý sự” rằng: “đã kinh tế thị trường thì đâu còn là chủ nghĩa xã hội”; “chủ nghĩa xã hội không phải là cái đích của loài người đi tới”; “chủ nghĩa tư bản là trường cửu”; Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam “bảo thủ” duy trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới” v.v và v.v..

Chúng cố lờ đi những cơ sở khoa học, tính khách quan của quy luật phát triển xã hội là chỉ có kết hợp giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc và giải phóng con người thì cách mạng mới đạt được kết quả trọn vẹn. Chúng không thấy con đường đổi mới, hội nhập quốc tế, độc lập, tự chủ là sự sáng tạo của Đảng và nhân dân ta để đưa đất nước ngày càng phát triển, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chúng gây nên hoài nghi vào quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc những đặc điểm, đặc trưng, mô hình xã hội mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận giá trị những thành tựu đạt được trong hơn 30 năm đổi mới của đất nước. Chúng cố tình quên đi những biện pháp, con đường, hình thức, bước đi, nhiệm vụ trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội đầy sáng tạo của nhân dân ta. Tất cả những điều đó với âm mưu của chúng nhằm đẩy người nghe rơi vào tâm trạng hoài nghi, thất vọng, suy giảm niềm tin, rồi đi đến xa rời, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng gieo rắc tâm lý trông chờ, dựa dẫm, cầu mong sự giúp đỡ của nước ngoài, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì giàu nhanh hơn, sung sướng hơn một cách ảo tưởng, hoài vọng.

Bốn là, chia rẽ khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân.

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ, suy giảm sức mạnh của Đảng, của nhân dân. Chúng chia rẽ nội bộ Đảng, giữa cơ quan Đảng, chính quyền các cấp, bịa đặt về sự hình thành “phe này”, “phái nọ” để gây hoang mang trong nhân dân. Chúng lợi dụng việc thực hiện công khai, minh bạch của Đảng trong đấu tranh chống tham nhũng và xử lý nghiêm minh một số cán bộ, đảng viên vi phạm để chia rẽ nội bộ. Chúng xuyên tạc rằng “đây chỉ là sự thanh trừ phe này, phe nọ”, không thấy đây chính là quá trình làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có tính quy luật trên đường phát triển, là việc làm phù hợp với lòng dân, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình ủng hộ. Chúng ra sức kích động chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo; giữa cán bộ và nhân dân; giữa đảng viên và quần chúng... Chúng thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên rồi đi đến khái quát một cách hàm hồ, nói xấu Đảng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng ra sức lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để kích động gây bất ổn chính trị - xã hội; lợi dụng các bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời để kích động tụ tập đông người gây mất trật tự, an ninh, xung đột xã hội, làm cho nhân dân không tin cán bộ, đảng viên, dẫn đến không tin Đảng, tìm “con đường khác”, “cách sống khác” do chúng vẽ ra. Đây là âm mưu, thủ đoạn phá hoại ta từ bên trong, từ trong nội bộ, từ trong lòng dân, từ trong tư tưởng, tình cảm của con người trong xã hội.

Năm là, cản trở sự phát triển của đất nước.

Các thế lực thù địch luôn có âm mưu, thủ đoạn cản trở sự phát triển của đất nước, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo suốt hơn 30 năm qua. Chúng tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong từng lĩnh vực, chúng khai thác triệt để những sơ hở, yếu kém của ta để xuyên tạc, nói xấu, móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài cản trở mọi hoạt động của ta. Chúng tạo cơ hội hoặc tiếp tay cho các cá nhân, tổ chức gây rối, các hoạt động tội phạm, các hoạt động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây rối loạn, bất ổn xã hội.

Bên cạnh đó, chúng cổ vũ, tiếp tay cho các hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng dẫn đến “tự chuyển hóa” của một số cán bộ, đảng viên với những biểu hiện, như tự xa rời, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, chạy theo “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”... Chúng tuyên truyền, cổ vũ lối sống thực dụng, hưởng lạc, tôn thờ đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, bất chấp đạo lý, pháp luật, kỷ cương, hòng tạo nên tình trạng xã hội rối loạn, bất ổn, gây mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước

Cùng với những âm mưu, thủ đoạn trên, các thế lực thù địch đã thực hiện các phương thức mới chống phá ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay một cách tinh vi, phức tạp, có thể khái quát ở những điểm chính sau:

Thứ nhất, chúng luôn chủ động tấn công, chống phá ta bất cứ lúc nào, bằng mọi hình thức.

Các thế lực thù địch tận dụng các phương tiện thông tin hiện đại bằng cách lập những trang mạng xã hội, có bộ máy chuyên nghiệp rỉ rả tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta dưới nhiều hình thức suốt đêm ngày để lừa bịp nhân dân theo phương châm “nói nhiều rồi sẽ tin”. Phương thức, biểu hiện mới của các thế lực thù địch chống phá trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là khi còn ở dạng dự thảo, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân thì chúng “kiến nghị”, đề xuất hướng lái theo mục tiêu, ý đồ của chúng; khi đường lối, chủ trương mới ban hành thì chúng chủ động tuyên truyền bới móc, xuyên tạc gây hoài nghi trong quần chúng nhân dân. Chúng luôn nắm bắt kịp thời bất kỳ chủ trương, biện pháp hoạt động mới nào của ta từ cấp Trung ương xuống địa phương để xuyên tạc, bóp méo, chống phá một cách trắng trợn. Các thế lực thù địch rất “nhạy bén” trong phương thức tiến hành chống phá ở mọi nơi, mọi lúc, đặc biệt lợi dụng các thời điểm chuẩn bị tổ chức đại hội các cấp, bầu cử Quốc hội, ban hành luật... Bởi vì tư tưởng, lý luận là lĩnh vực rất nhạy cảm, đi trước dẫn đường cho hành động của con người. Có thể thấy, nhanh nhạy linh hoạt, chọn thời điểm để gia tăng cường độ chống phá là phương thức hoạt động chống phá nổi bật của các thế lực thù địch đối với ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay. Chúng có cả kế hoạch, đầu tư kinh phí, tổ chức, bộ máy, công nghệ, thiết bị máy móc hiện đại thường xuyên chống phá.

Thứ hai, kiên trì chống phá.

Trong xã hội hiện đại, mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra và biến đổi rất nhanh chóng, không ngừng. Trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận cũng diễn ra như vậy, cho dù nó vẫn có tính ổn định tương đối. Các thế lực thù địch luôn kiên trì bám sát mục tiêu, đối tượng mà chúng nhằm vào để chuyển hóa tư tưởng, lý luận, thực hiện âm mưu chống phá ta. Song song với hoạt động chống phá ta một cách thường xuyên, trắng trợn hằng ngày, chúng có sẵn kế hoạch, chương trình dài hạn, chiến lược chống phá ta về tư tưởng, lý luận.

Thứ ba, chống phá tinh vi, bịa đặt trắng trợn.

Các thế lực thù địch thường cập nhật, theo dõi rất kỹ lưỡng các vấn đề tư tưởng, lý luận của ta để tìm ra những mâu thuẫn giữa nhận thức và hành động; giữa lý luận và thực tiễn để khoét sâu những “nghịch lý”, những “độ chênh” giữa tư tưởng, lý luận với thực tiễn để gây hoài nghi, mất lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Chúng tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, giữa thật và giả, kể cả bịa đặt trắng trợn để gây hoài nghi trong nhân dân. Thậm chí, chúng dựng lên những sự việc, sự kiện không có thật, gây hoang mang, thất thiệt trong quần chúng nhân dân.

Thứ tư, chống phá với những phương thức đa dạng, nhiều chiều.

Các thế lực thù địch xác định một trong những mục tiêu chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm thủ tiêu tinh thần, ý chí cách mạng của nhân dân. Vì thế, chúng sẵn sàng dùng mọi phương thức, biện pháp, phương tiện, hình thức có thể để thực hiện. Tuyên truyền miệng, các phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, xuất bản, báo chí,... đều được chúng tận dụng tối đa.


Chúng thông qua các hoạt động “khoa học”, giáo dục, đào tạo, các “diễn đàn” để tán phát các quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc, chống phá ta. Chúng đầu tư kinh phí dưới dạng “hỗ trợ nhân đạo”, các tổ chức phi chính phủ để tuyên truyền, lôi kéo nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Chúng tổ chức truyền đạo, lập đạo trái pháp luật, tuyên truyền mê tín dị đoan để mê hoặc, lôi kéo những người kém hiểu biết. Chúng mua chuộc cán bộ dưới nhiều hình thức, như tổ chức “tham quan”, “du lịch”, “hội nghị”, “đầu tư dự án”, “đào tạo”... cũng như các “mồi nhử” kinh tế khác khá “hấp dẫn” làm mê muội nhiều người; không loại trừ cả những hình thức ép buộc, giả danh cán bộ để lừa dối, tán phát các luận điệu sai trái, đối lập với quan điểm của Đảng.

Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của nhiều lợi ích, nhiều xu thế phức tạp của quá trình toàn cầu hóa, của sự phát triển khoa học, công nghệ..., các thế lực thù địch đang thực hiện những âm mưu, thủ đoạn, phương thức mới chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận với sự đan xen nhiều lĩnh vực: kinh tế với chính trị, tư tưởng, lý luận, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Vì thế, trong cuộc đấu tranh này đòi hỏi chúng ta vừa đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, vừa tổ chức hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, phát huy thế mạnh, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ màu sắc nào. Điều cốt lõi là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Nêu cao cảnh giác, chủ động phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch

    Trong những năm qua, các thế lực thù địch, phản động tăng cường sử dụng internet, mạng xã hội để móc nối, cấu kết với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất nhằm lôi kéo, mua chuộc, tạo lực lượng chống phá từ bên trong. Đặc biệt, chúng lợi dụng internet, mạng xã hội để lan truyền các clip, tài liệu xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,... nhằm phá hoại nội bộ, tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, dẫn đến hoang mang, hoài nghi, làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Các thế lực thù địch lợi dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ thành công cụ hữu hiệu cho tuyên truyền xuyên quốc gia nhằm xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thông qua công nghệ, hoạt động chống phá gia tăng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian; làm mờ đi hệ tư tưởng, bạn - thù. Con người dễ bị cuốn vào thế giới ảo dưới sự dẫn dắt bởi tin giả, tin xấu, độc của các thế lực phản động xuyên tạc, đưa người đọc đi vào ma trận của thật - giả, giả - thật trên không gian mạng. Nếu người đọc không tỉnh táo thì rất dễ bị dẫn dắt, đánh lừa, ru ngủ đến mức làm cho chúng ta đôi khi mất cảnh giác, không thể biết rằng mình đang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Để thực hiện mục tiêu phá hoại tư tưởng, việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc trên không gian mạng là hoạt động phổ biến hiện nay của các thế lực thù địch với hàng loạt tin, bài, hình ảnh, bịa đặt, cắt ghép, thậm trí là xây dựng cả phim phóng sự điều tra để phát tán, lan truyền với tốc độ nhanh chóng trên mạng xã hội như facebok, blog… Tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều trở thành mục tiêu lợi dụng của các thế lực thù địch, trong đó có lịch sử. Điều đáng nói ở đây, họ thường lợi dụng một số vấn đề lịch sử phức tạp, để tung ra những tư liệu mà họ cho là mới, nhưng thực ra thiếu những chứng cứ khoa học. Những phân tích, bình luận họ đưa ra thường mang nặng tính suy diễn chủ quan, phiến diện, mập mờ. Và chính sự mập mờ đó, gây nhiễu thông tin, làm cho người đọc cảm thấy hoang mang. Đất nước Việt Nam đã trải qua một quá trình hồi sinh, phát triển đi lên vững chắc. Chiêu trò chúng tung ra trước đây đã không mang lại kết quả. Bởi vậy, những năm gần đây chúng đã thay đổi chiêu trò chống phá kiểu mới, núp bóng dưới quan điểm khác, góc nhìn khác. Thông qua cái gọi là "xét lại lịch sử, lật lại lịch sử hay sự thật lịch sử” nhằm vào một số tướng lĩnh, một số sự kiện hay chi tiết lịch sử để hy vọng dễ đánh vào lòng người, dễ ru ngủ, dễ làm cho người ta tin. 

Ngày 30/4/1975 là mốc son vĩ đại trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó là thành quả của ý chí đoàn kết “muôn người như một” và tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của toàn dân tộc. 46 năm trôi qua kể từ ngày 30/4/1975 lịch sử, đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, non sông liền một dải đang ngày càng ổn định và phát triển. Vậy nhưng, sau 46 năm, vẫn còn những ý kiến sai lệch, xuyên tạc lịch sử, cố tình bóp méo sự thật về các sự kiện diễn ra tại Dinh Độc lập vào trưa 30/4/1975. Chúng tăng cường xuyên tạc lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta, với ý đồ làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta nhận thức sai lệch về lịch sử dân tộc, từ đó dao động, nghi ngờ, thiếu lòng tin vào Đảng và chế độ. Thực tế trên các trang mạng xã hội có nhiều trường hợp không phân biệt được đúng, sai, chưa hiểu được cốt lõi của vấn đề như thế nào nhưng đã vội vã comment bày tỏ chính kiến, đó là hành động a dua theo đám đông. Sẽ là bình thường nếu chính kiến là đúng đắn, trách nhiệm với xã hội, trách nhiệm với lịch sử của quốc gia, dân tộc. Nhưng thật đau lòng, có những sự việc, hiện tượng mà số đông tham gia bàn tán, bình luận lại thuộc lĩnh vực mà trước đó đã được các cơ quan chức năng có thẩm quyền thẩm tra, xác minh, kết luận nhưng nay bị một nhóm người phủi đi tất cả vì cho rằng kết luận có sự thiên vị. Khi trả lời phỏng vấn các báo, đài trong nước, thậm trí còn đăng đàn trả lời phỏng vấn của các báo, đài hải ngoại, thường xuyên có các quan điểm chống phá Đảng, Nhà nước và dùng những từ ngữ rất nặng nề để bôi xấu, quy chụp người này, nâng đỡ người kia. Họ lật lại sự việc bằng những lời lẽ và hình ảnh thiếu thuyết phục, thông tin thiếu khách quan, không chính thống và họ tự cho mình cái quyền phán xét về lịch sử của dân tộc. Họ nhân danh “sự thật” để đăng đàn trên mạng, viết báo hoặc làm phóng sự, thoạt nghe có vẻ chính đáng nhưng sự thật chỉ phục vụ mưu đồ của một cá nhân hoặc một nhóm người thiếu thiện chí nhằm xuyên tạc, bóp méo sự thật để dẫn dắt sự việc phát triển theo mong muốncủa họ là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và reo rắc sự hoài nghi vào thế hệ trẻ đối với lịch sử Quân đội, lịch sử dân tộc và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với Quân đội, là sự xúc phạm đến các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì độc lập - tự do của đất nước.

          Để tăng cường phòng chống “tư diễn biến”, “tự chuyển hóa” trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối cần chú trọng nâng cao ý thức tự giác, kỷ luật trong tiếp xúc thông tin, nắm vững và chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin của công dân theo quy định của Hiến pháp, Luật tiếp cận thông tin và Luật An ninh mạng, đồng thời chấp hành nghiêm Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn nghiêm túc thực hiện Điều lệ và các quy định của Đảng, của tổ chức mình mà mình là thành viên, đồng thời thể hiện là cán bộ, đảng viên gương mẫu khi tham gia mạng xã hội; tỉnh táo, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi phát ngôn, chia sẻ, bình luận, nhận định, đánh giá về vấn đề, sự kiện hoặc hiện tượng nào đó. Đây cũng là trách nhiệm của đảng viên nhằm góp phần bảo vệ, giữ vững uy tín của Đảng và của chính bản thân mình. Khi tham gia mạng xã hội phải thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị công tác và nhân dân tại địa phương nơi cư trú. Qua đó, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp của mình và nhân dân bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội. Cần hết sức tỉnh táo để không bị lợi dụng và tránh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy đảng tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và tiếp tục đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tích cực đấu tranh phản bác thông tin sai sự thật, xấu độc trên Internet, mạng xã hội giúp cán bộ, đảng viên nhận thức đúng vấn đề, nhất là liên quan đến các sự kiện lịch sử, sự kiện chính trị; các vụ việc phức tạp, nhạy cảm được dư luận xã hội quan tâm./.

Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Một là, đối với các trang mạng chính thống của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể  chính trị - xã hội cần phải tiếp tục đổi mới về nội dung và hình thức cho phong phú, sinh động, cập nhật thông tin và có sức hấp dẫn đối với cộng đồng mạng. Nhất là đối với các vấn đề chính trị - xã hội, các thông tin trên các mạng này phải đi trước một bước so với các trang mạng khác để định hướng dư luận. Trên các trang này, ngoài các bài viết chính luận, phê phán cần có xen kẽ các bài viết bàn về các vấn đề văn hóa, gia đình và xã hội…, có như vậy mới vừa thu hút được cộng đồng mạng, đồng thời vừa có tính linh hoạt, mềm dẻo. Cần làm mới kết cấu giao diện và phong phú hơn góc trao đổi, bình luận của cộng đồng mạng. Có thể có ý kiến trái chiều nhưng phải có định hướng dư luận. Đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho các trang mạng điện tử chính thống.

 Hai là, đối với các nhà báo, cán bộ làm công tác tư tưởng, các nhà lý luận chính trị phải thường xuyên định hướng dư luận khi có các bài viết xuyên tạc, bóp méo nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam như đăng các bài viết phê phán vạch trần sự bôi nhọ, xuyên tạc để cộng đồng mạng hiểu đúng bản chất nền tảng, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia bình luận định hướng dư luận.

 Ba là, các đơn vị có chức năng cần đưa nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên MXH ở Việt Nam hiện nay thành các chuyên đề tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong đó có các trang MXH.

 Bốn là, tổ chức tuyên truyền, giáo dục trực tiếp cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là các đối tượng thường xuyên gắn trực tiếp với MXH: cán bộ, đảng viên, về luật an ninh mạng, có văn hóa ứng xử trên MXH, có ý thức và bản lĩnh chính trị vững vàng khi tham gia MXH để họ có được “sức đề kháng” và tự tạo được “bức tường lửa” chống lại các thông tin độc hại.

 Năm là, thông qua các loại hình văn hóa, văn nghệ lồng ghép vào chương trình các nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH. Đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của những người có uy tín, những người nổi tiếng thông qua các trang mạng cá nhân để họ tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên MXH với nhiều cách thức khác nhau.

 Sáu là, xử lý nghiêm đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm về luật an ninh mạng; cần có cơ chế pháp lý trong việc đăng bài, duyệt bài, xóa bài, xóa bình luận nếu vi phạm qui định về an ninh mạng.

 

Nhận diện một số hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa

 

Những năm qua, bằng nhiều thủ đoạn, vừa công khai, trắng trợn, vừa ngấm ngầm hòng phá hoại, bôi nhọ, công kích chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, nền văn hóa mới của dân tộc nhưng không mang lại kết quả, các thế lực thù địch đang có sự điều chỉnh thủ đoạn chống phá hòng chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

Chúng cho rằng, vấn đề trước tiên, cốt yếu nhất là phải xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Đồng thời, xây dựng hệ thống lý luận khác, có khả năng triệt tiêu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy đó làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng một xã hội mới, theo mong ước của chúng.

Như vậy, mục tiêu tiến công trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch không hề thay đổi. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, chúng đã và đang sử dụng những chiêu thức mới, tiếp cận theo hướng quan hệ “mềm dẻo”, thân thiện hơn, hợp tác toàn diện, thâm nhập sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó tác động, phá hoại nền tảng tư tưởng, bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.

Trước hết, cần nhận rõ chiêu thức mới của các thế lực thù địch là, chủ động thâm nhập, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua con đường quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế, đối ngoại, giáo dục và đào tạo. Đây là những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, mở rộng trong quá trình hội nhập quốc tế.

Trên lĩnh vực kinh tế, chúng âm mưu thông qua hoạt động hợp tác, đầu tư để làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng XHCN, thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam; từ đó, tạo ra nền tảng vật chất, xã hội thuận lợi, hình thành nền “chính trị dân chủ” và “xã hội dân sự” kiểu phương Tây.

Đây chính là môi trường, điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị đối lập xuất hiện, công khai chống Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đặc biệt, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những tồn tại, vướng mắc trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để xuyên tạc, phủ nhận đường lối lãnh đạo, thành tựu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, kích động tâm lý hoài nghi trong xã hội; cổ súy, tung hô việc phát triển nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, làm mất phương hướng, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, gây bất ổn về tư tưởng, xuất hiện tình thế mới về chính trị.

Lợi dụng tình thế đó, chúng sẽ kích động đòi “dân chủ kinh tế”, yêu cầu Đảng, Nhà nước phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây.

Đồng thời, kêu gọi “dân chủ hóa chính quyền”, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, tạo áp lực về chính trị - xã hội, thậm chí gây bạo loạn, lật đổ, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Chúng thực hiện chính sách “thân thiện giả hiệu”, thâm nhập sâu vào hoạt động của nền kinh tế, tạo điều kiện, cơ hội tiếp cận rộng rãi với các đối tượng, tầng lớp nhân dân để xây dựng lực lượng, kích động, phá hoại nền tảng tư tưởng, thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.

Cùng với âm mưu, thủ đoạn thâm nhập vào lĩnh vực kinh tế, các thế lực thù địch đẩy mạnh “tiến công” trên lĩnh vực đối ngoại.

Chúng chủ trương, một mặt, thông qua hoạt động ngoại giao chính thức, “ngoại giao thân thiện”, tăng cường giao lưu, trao đổi, đối thoại với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực nhằm quảng bá hình ảnh, giá trị tư bản chủ nghĩa; chủ động tiếp cận móc nối, hỗ trợ, mua chuộc, lôi kéo các đối tượng, nhất là những phần tử có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, thoái hóa, biến chất, hữu khuynh, cực đoan, thân phương Tây, tạo lực lượng nòng cốt cho “chuyển hóa” và “tự chuyển hóa” tư tưởng ngay từ bên trên, bên trong.

Mặt khác, chúng đa dạng các kênh quan hệ để tìm kiếm cơ hội, tiếp cận sâu hơn, dùng vật chất, tiền bạc mua chuộc, làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.

Trong đó, vấn đề hợp tác, giao lưu về giáo dục và đào tạo, nhất là việc đi học tập, đào tạo tại các nước tư bản của thế hệ trẻ được chúng hết sức quan tâm, bởi đây là “con đường” ngắn nhất, thuận lợi nhất để xâm nhập, tác động, chuyển hóa tư tưởng ở Việt Nam hiện nay.

Thông qua việc học tập ở nước ngoài, chúng truyền bá các quan điểm, giá trị dân chủ tư sản, làm cho thế hệ trẻ có tư tưởng sùng ngoại, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, chỉ coi trọng giá trị vật chất, bàng quan về chính trị,... tạo mầm mống thúc đẩy dân chủ, nhân quyền tư sản, tiến tới xóa bỏ nền dân chủ và chế độ XHCN ở nước ta.

Một trong những chiêu thức vô cùng nguy hiểm mà các thế lực thù địch sử dụng hòng làm chuyển hóa, tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là, thúc đẩy hình thành “xã hội dân sự” theo mô thức phương Tây.

Chúng núp dưới chiêu bài “dân chủ hóa”, hình thành “kênh phản biện” để cho ra đời các tổ chức đối trọng với các cơ quan, tổ chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đòi giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Đồng thời, lợi dụng các diễn đàn tư tưởng, thông qua hoạt động hợp tác, nghiên cứu khoa học,... để tuyên truyền về “xã hội dân sự”, đề cao dân chủ tư sản, nhằm chuyển hóa lập trường, tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trên cơ sở đề cao “xã hội dân sự”, các thế lực thù địch âm mưu phủ nhận học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN, về đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới; làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, xây dựng xã hội “dân chủ”, “tự do” theo kiểu phương Tây.

Để thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền tác động hướng lái truyền thông. Đây là những vấn đề rất “nhạy cảm”, luôn được chúng triệt để lợi dụng để xuyên tạc, vu cáo, chống phá ta. Một số nước phương Tây còn áp đặt “dân chủ và bảo vệ nhân quyền” là yếu tố không thể thiếu trong chính sách ngoại giao và quan hệ quốc tế.

Những năm qua, các thế lực thù địch đã dùng nhiều hình thức, biện pháp, huy động tối đa các phương tiện truyền thông để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo trắng trợn tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và vấn đề dân tộc ở Việt Nam.

Chúng đưa ra yêu sách đòi mở rộng dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do lập hội để tập hợp lực lượng, kích động gây bạo loạn, dẫn đến mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Đặc biệt, chúng luôn tìm mọi cách hướng lái truyền thông nhằm tác động vào quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là thời điểm sửa đổi các văn bản pháp luật về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hoặc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng,… để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước; kích động, lôi kéo, chia rẽ nội bộ, nhằm gây áp lực với Đảng, Nhà nước ta.

Đồng thời, thành lập nhiều tổ chức và đưa người vào Việt Nam để theo dõi, tìm hiểu, thu thập thông tin về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tiến hành móc nối, cài cắm, truyền bá tư tưởng sai trái, vu cáo, xuyên tạc tình hình thực tế ở Việt Nam.

Để đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, âm mưu các thế lực thù địch là nhất thiết phải thực hiện “dân chủ” trong đời sống xã hội. Trước hết là thúc đẩy “dân chủ hóa” trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp đó thực hiện “dân chủ hóa” trong truyền thông và xã hội.

Hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, yếu tố thứ nhất mang tính quyết định đến tiến trình “dân chủ hóa” từ bên trên, bên trong nội bộ ta; yếu tố thứ hai sẽ đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của toàn xã hội.

Quá trình “dân chủ hóa” truyền thông là đưa dân chủ vào mạng truyền thông quốc gia và đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí, truyền thông. Con đường xâm nhập để hướng lái truyền thông của các thế lực thù địch là tác động thông qua các hoạt động hợp tác giáo dục, hội thảo, giao lưu, “mượn” các phương tiện truyền thông của Nhà nước, các địa phương, cơ quan, đơn vị để tuyên truyền cho chúng.

Lợi dụng sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), các thế lực thù địch sẵn sàng mạnh tay đầu tư tài chính cho quảng cáo, đầu tư, tài trợ các chương trình nhằm tác động, dẫn dắt giới truyền thông hoạt động theo ý đồ của chúng, đưa truyền thông tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Mặt khác, chúng còn lợi dụng các trang mạng xã hội, Facebook, blogger và một số báo, đài phương Tây, hệ thống phương tiện truyền thông của lực lượng phản động người Việt lưu vong,… để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, kêu gọi dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí và cạnh tranh trên lĩnh vực truyền thông, gây nhiễu loạn tư tưởng, mất phương hướng trong đời sống xã hội.

Ngoài ra, các thế lực thù địch còn tăng cường hoạt động xâm nhập, móc nối, xây dựng nhân tố bên trong để tác động tư tưởng, phá hoại bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện xâm lăng văn hóa để thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta...

Đây là những con đường mà các thế lực thù địch đang tìm mọi cách, bằng nhiều biện pháp tiến hành thường xuyên hòng chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần không ngừng nâng cao cảnh giác để giữ vững môi trường hòa bình phát triển đất nước, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Một số giải pháp xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị

    Cần quán triệt sâu sắc phương châm: gắn “xây dựng với bảo vệ”, “bảo vệ với xây dựng”; xây dựng là một nội dung của bảo vệ và là biện pháp chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội hiệu quả nhất. Như đã đề cập ở trên, mục đích thúc đẩy “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch hòng làm cho Quân đội ta từ bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, xa rời phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu và cuối cùng dẫn tới xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Âm mưu của họ rất thâm hiểm. Do đó, để xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ đảng viên và cán bộ chủ chốt các cấp. Đề cập đến vấn đề này, thoạt nghe có vẻ giáo điều, “muôn thuở”, nhưng thực tế không phải vậy. Trái lại, nó thật sự quan trọng và cấp thiết, nhất là trong tình hình phức tạp hiện nay, khi mà các thế lực thù địch đang thúc đẩy mạnh mẽ “phi chính trị hóa” quân đội. Quá trình tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng phải coi trọng mọi đối tượng, coi trọng tính toàn diện; nhưng trước hết và quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và nội dung trọng tâm là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục giữ vững bản chất giai cấp công nhân, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu cho Quân đội. Đây là vấn đề cốt yếu nhất, là cơ sở nền tảng vững chắc đảm bảo cho Quân đội bất luận trong hoàn cảnh nào, dù khó khăn phức tạp đến đâu cũng vững vàng, không bị “diễn biến, chuyển hóa”, “phi chính trị hóa”, luôn trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, Tổ quốc XHCN. Đồng thời, còn nhằm trang bị “vũ khí luận” cho cán bộ, đảng viên để họ đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Đi đôi với giáo dục chính trị, tư tưởng, cần coi trọng xây dựng về tổ chức, trước hết là tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh. Các cấp phải thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đảng, coi đó là khâu then chốt, nhằm đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với QĐND. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và cũng là yêu cầu cấp thiết của nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, trong đó có mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Thực tiễn đã khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, quyết định sức mạnh, sự trưởng thành, chiến thắng của QĐND. Vì thế trong thời gian tới chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng công tác này.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, cần chú trọng kiện toàn cấp ủy gắn với tổ chức chỉ huy đảm bảo chất lượng, số lượng và cơ cấu; gắn xây dựng cấp ủy viên với cán bộ chủ chốt các cấp; chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất, năng lực, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt, trong hoạt động lãnh đạo, cấp ủy các cấp phải tăng cường sự đoàn kết, thống nhất; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, đi đôi với phân công cá nhân phụ trách; đồng thời, tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát theo phương châm: “Giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm”, nhất là việc thực hiện Nghị quyết, Điều lệ Đảng, giải quyết kịp thời, minh bạch các đơn thư tố cáo, khiếu nại và xử lý nghiêm các vi phạm. Cấp ủy các cấp lãnh đạo chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về tiến hành chuẩn bị tổ chức đại hội đảng nhiệm kỳ 2015-2020. Đồng thời, thực hiện nghiêm Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 về những điều đảng viên không được làm của Ban Chấp hành Trung ương.

Cùng với đó, phải thực hiện tốt và gắn chặt các mặt công tác cán bộ, tổ chức, dân vận, chính sách, tư tưởng,… Tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tổ chức tốt phong trào Thi đua Quyết thắng, các cuộc vận động, nhất là Cuộc vận động: “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp  và là nguồn động lực tinh thần to lớn cho toàn quân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Trong bối cảnh các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội, chúng ta càng phải nêu cao cảnh giác, tăng cường các biện pháp phòng ngừa những phát sinh phức tạp về tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ. Gắn liền với đó, phải hết sức coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chống việc lộ, lọt thông tin, các hiện tượng móc nối, cài cắm, xâm nhập hoặc thẩm thấu quan điểm xấu từ bên ngoài vào Quân đội dưới mọi hình thức; phấn đấu đảm bảo tuyệt đối an toàn về an ninh, chính trị, tư tưởng của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, phải thường xuyên chăm lo kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng, đoàn thể, hội đồng quân nhân. Bởi, đây là các tổ chức, cá nhân trực tiếp chỉ đạo và tổ chức triển khai các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị - yếu tố quyết định chất lượng xây dựng Quân đội về chính trị. Từ thực tiễn, nhất là qua Sơ kết 9 năm thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Nghị quyết 513/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) chúng ta cần đánh giá đúng thực chất (cả ưu điểm và hạn chế, tồn tại), rút ra những bài học kinh nghiệm, để tiếp tục vận dụng thực hiện có hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, cần coi trọng nâng cao phẩm chất, năng lực cho chính ủy, chính trị viên để họ hoàn thành tốt chức trách, cương vị được giao; đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính ủy, chính trị viên với người chỉ huy, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các mặt công tác, các nhiệm vụ của đơn vị.

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của quân và dân ta được tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường; do đó bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, cũng có không ít khó khăn, thách thức. Trong đó, thách thức gay gắt nổi lên là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với Quân đội ta, họ thúc đẩy mạnh mẽ “phi chính trị hóa” bằng những hình thức, thủ đoạn mới tinh vi, thâm độc. Cùng với đó là những diễn biến phức tạp mới ở Biển Đông, trực tiếp đe dọa đến chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trước tình hình trên, chúng ra cần chú trọng thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Đặc biệt, trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, mọi thông tin được chuyển tải nhanh, lan tỏa rộng, thì công tác này lại càng quan trọng, nhưng trong thực hiện có không ít khó khăn, phức tạp. Vì thế, công tác thông tin, tuyên truyền càng cần phải được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời, chính xác. Trong đó phải bảo đảm sự chủ động, giữ vững “trận địa thông tin”, làm chủ nguồn tin và độ tin cậy nguồn tin, nhằm tạo dư luận tốt trong xã hội nói chung và trong Quân đội nói riêng. Trong khi thông tin, tuyên truyền về những sự kiện nhạy cảm cần gắn với định hướng tư tưởng, giúp cho bộ đội và nhân dân nhận thức đúng và hiểu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước, trên cơ sở đó không bị kích động bởi những thông tin xấu độc, trái chiều. Trong thời gian qua, nhìn chung chúng ta thực hiện khá tốt công tác này, nhưng bên cạnh đó cũng còn những hạn chế, vô tình tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Một vấn đề không thể thiếu của quá trình xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị đó là công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Quân đội ta đã trải qua 70 năm xây dựng và đã tiến hành tổng kết, sơ kết, tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, từ đó đúc kết nhiều bài học kinh nghiệm về công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng Quân đội về chính trị. Mặc dù thực tiễn luôn vận động, phát triển, nhưng phần lớn những bài học kinh nghiệm đó vẫn rất quý báu, còn nguyên giá trị đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị hiện nay. Do đó, chúng ta cần tiếp tục quan tâm đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác đảng, công tác chính trị. Vì vậy, Tổng cục Chính trị, các trung tâm nghiên cứu, viện, học viện, nhà trường trong Quân đội có vai trò, trách nhiệm rất lớn trong công tác này. Nếu được quan tâm đầu tư về mọi mặt, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn sẽ góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới.

Chủ động đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

    Trước hết, về mặt nhận thức, tư tưởng, cần xác định rõ: CNĐQ, các thế lực thù địch là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Họ đã và đang tiến hành chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Do đó, chống “Diễn biến hòa bình” thực sự là “cuộc chiến” không khoan nhượng, diễn ra hằng ngày, hằng giờ, hết sức quyết liệt, phức tạp. Trong đó, đối tượng mà họ nhằm vô hiệu hóa, trước hết “phi chính trị hóa” là lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là QĐND và Công an nhân dân. Đây là lực lượng có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của họ nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất chỗ dựa vững chắc, mất vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Và, một khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị vô hiệu hóa, bị xóa bỏ, thì tất nhiên chế độ XHCN sẽ sụp đổ. Để hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và đạt mục tiêu nêu trên, các thế lực thù địch sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, tiền bạc, vật chất và tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi “chiêu bài” xảo quyệt, tinh vi, thâm độc, nhưng nhìn chung các hoạt động diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Nội dung mà họ tập trung tuyên truyền chống phá là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Quân đội ta từng bước rời bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, để chống mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đạt hiệu quả cao thì trước hết và quan trọng nhất là phải chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cốt yếu là nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, cả lực lượng, phương tiện, vật chất đảm bảo,… với phương pháp tiến hành (cách thức) linh hoạt, chủ động và có hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong “cuộc chiến” quyết liệt này.

Về lực lượng, cần có lực lượng đấu tranh rộng rãi là toàn dân và lực lượng nòng cốt được tổ chức thành hệ thống trong các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị, Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là các viện, trung tâm nghiên cứu, học viện, nhà trường…; trong đó, Quân đội, Công an đóng vai trò xung kích của lực lượng nòng cốt. Những người trong lực lượng nòng cốt phải gồm các nhà nghiên cứu, khoa học có trình độ lý luận chính trị cao, kiến thức rộng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu kinh nghiệm viết bài đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương tiện, gồm các phương tiện truyền thông, đấu tranh trên in-tơ-nét, các trang mạng xã hội, Blog,… kết hợp với các phương thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình và đối tượng. Đối với các cơ quan báo chí, cần có sự chỉ đạo chặt chẽ, định hướng kịp thời, phân công và phân cấp tuyên truyền về các sự kiện một cách phù hợp; trong đó báo chí quân đội phải là lực lượng nòng cốt, xung kích trong đấu tranh chống quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương pháp đấu tranh, cần phải chủ động, linh hoạt, tránh thụ động khi có sự việc phức tạp xảy ra mới tổ chức tuyên truyền, đấu tranh. Quá trình thực hiện phải coi trọng đấu tranh trực diện, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, hòng làm phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội, hoặc kích động gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ giữa Quân đội với Công an và Đảng, Nhà nước. Cần kết hợp đấu tranh tuyên truyền chống các luận điểm “phi chính trị hóa” quân đội một cách thường xuyên với tuyên truyền theo đợt (cao điểm), nhất là vào thời điểm tổ chức các sự kiện lớn của đất nước và Quân đội.

Về chính sách và cơ chế, cần có chính sách, cơ chế hợp lý nhằm động viên, khuyến khích và bảo vệ những người viết bài đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, trong đó có “phi chính trị hóa” quân đội. Đồng thời, có cơ chế cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền kịp thời và quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý báo chí và sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí trong và ngoài Quân đội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

Quá trình hình thành, phát triển chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

    Có thể nói, khái niệm “Diễn biến hòa bình” không mới và cũng không lạ đối với mọi người. Người ta biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của Thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống phá các nước đối địch, nhất là nước Nga - Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Ngược dòng lịch sử, thậm chí nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Diễn biến hòa bình” nếu xét ở góc độ mục tiêu, tính chất, nội hàm (bao gồm cả hoạt động phản gián, lật đổ) thì xuất hiện từ thời Xuân Thu (Thế kỷ VI, trước Công nguyên), cách đây khoảng 2.700 năm, do Tôn Tử - nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng của Trung Quốc phát kiến và được nêu tại Thiên 13 của cuốn “Binh pháp Tôn Tử”. Tư tưởng chủ đạo của “Thiên”, hay còn gọi “kế sách” này là “Bất chiến tự nhiên thành”, có nghĩa “không đánh mà thắng”. Có lẽ cũng vì thế mà sau này một số người thường gọi “Diễn biến hòa bình” bằng cái tên rất đặc trưng: “Cuộc chiến tranh không khói súng”. Như vậy, có thể khẳng định: “Diễn biến hòa bình” là cuộc chiến tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế chính trị; mà đã là chiến tranh thì dù “có khói súng” (bằng quân sự) hay “không có khói súng” (phi quân sự) cũng đều chung tính chất quyết liệt và chung mục tiêu là tiêu diệt đối phương bằng sức mạnh “Cứng” hay sức mạnh “Mềm”, hoặc kết hợp cả hai nguồn sức mạnh “Cứng” và “Mềm”. Chúng ta thấy, ngay từ đầu “Diễn biến hòa bình” không phải do CNĐQ phát kiến, nhưng hiện đang là “sản phẩm” của họ và họ có nó trên cơ sở tiếp thu tư tưởng quân sự cổ đại của nhân loại, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng thời điểm, từng giai đoạn, nhằm giành thắng lợi quyết định trong “cuộc chiến” sống còn với các quốc gia khác hệ tư tưởng, đối địch.

    Không phủ nhận CNĐQ đã đạt được những thành công nhất định trong việc sử dụng và phát triển chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Trong giai đoạn đầu, từ khoảng thập niên 20 đến thập niên 50 của thế kỷ trước “Diễn biến hòa bình” được CNĐQ xác định là một giải pháp quan trọng, giải pháp kết hợp; trong khi giải pháp quân sự, sử dụng sức mạnh quân sự đóng vai trò quyết định trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ. Đến giai đoạn kế tiếp, từ khoảng thập niên 50 (CNXH đã phát triển thành hệ thống, gồm 13 nước) đến thập niên 90, cũng như hiện nay, khi điều kiện sử dụng giải pháp quân sự bị thu hẹp và khó thực hiện, trong khi tiến công CNXH là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, thì “Diễn biến hòa bình” được CNĐQ đặc biệt coi trọng và nâng tầm thành chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với việc sử dụng chiến lược nguy hiểm này, CNĐQ đã gây một loạt sự kiện với cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”,… mà thực chất là các hoạt động bạo loạn, lật đổ chính quyền ở một số nước, như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung ga ri,… vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Đặc biệt, cuối thập niên 80, đầu 90, CNĐQ đã sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá quyết liệt CNXH. Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng trong đó có bàn tay chống phá của CNĐQ. Đáng chú ý là, trong quá trình tiến hành “Diễn biến hòa bình”, họ thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhất là “phi chính trị hóa” quân đội, làm cho Quân đội Liên Xô hùng mạnh, với bề dày hơn 70 năm xây dựng bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Biểu hiện cụ thể là, Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mất phương hướng chính trị, không xác định được mục tiêu chiến đấu, mục tiêu bảo vệ và cuối cùng Đảng Cộng sản không còn chỗ dựa, không được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, dẫn tới sụp đổ chế độ XHCN.

Huyênh hoang, tự đắc với chiến quả giành được và nhằm khuyếch trương chiến lược “Diễn biến hòa bình”, những quan chức Nhà Trắng và các triết gia của CNĐQ đã cao giọng dự báo về sự kết thúc của CNXH. Tiêu biểu là Francis Fukuyama - một người Mỹ gốc Nhật Bản - với bài viết “Sự cáo chung của Lịch sử” được công bố lần đầu trên Tạp chí “Lợi ích Quốc gia” Mỹ, số mùa hè 1989, sau này được hoàn chỉnh thành cuốn sách “Sự cáo chung của Lịch sử và con người cuối cùng” xuất bản năm 1992, phát hành rộng rãi ở 14 nước, với nhiều thứ tiếng khác nhau. Ý đồ chính trị của cuốn sách được thể hiện rõ: phủ nhận phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác; phủ nhận giá trị tiến bộ và khoa học của ý thức hệ giai cấp vô sản; tuyên truyền các giá trị của CNTB; luận chứng cho việc thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Tương tự như vậy là cuốn “Sự đụng độ giữa các nền văn minh” của S. Huntington; trong đó, ông ta biện giải và cho rằng nền văn minh phương Tây là “vô giá”, là “độc nhất vô nhị”. Điển hình trong số đó phải kể đến Tổng thống Mỹ R. Ních Sơn với cuốn sách “Chớp thời cơ” và cuốn “Năm 1999 - Chiến thắng không cần chiến tranh” nêu dự báo đến cuối Thế kỷ XX các nước XHCN còn lại sẽ “tự sụp đổ”. Đến nay đã giữa thập niên thứ 2 của Thế kỷ XXI, nhưng thực tế thì sao? Mọi người đã rõ và đều thấy rằng đó chỉ là sự võ đoán, hoàn toàn không có cơ sở, hay nói cách khác là sự ảo tưởng phi lý, phi thực tiễn.

Nhưng không vì thế mà chúng ta mất cảnh giác và xem nhẹ “Diễn biến hòa bình”, đặc biệt là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Bởi lẽ, chống phá các nước XHCN, tiến tới xóa bỏ CNXH, trong đó có nước ta, luôn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của CNĐQ. Chừng nào CNĐQ còn tồn tại thì chừng đó họ còn giữ và theo đuổi mục tiêu đó. Tuy nhiên, tham vọng là một việc, còn đạt được hay không lại là việc khác. Hơn nữa, quyền quyết định trong vấn đề này là ở chúng ta chứ không phải họ, nên cho dù âm mưu của họ có thâm hiểm đến đâu, thủ đoạn có tinh vi, xảo quyệt đến nhường nào thì cuối cùng cũng không tránh khỏi thất bại.

Đối với nước ta, ngay sau khi kết thúc “Chiến tranh Việt Nam” - theo cách gọi của người Mỹ, và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược - theo cách gọi của nhân dân Việt Nam, họ đã nhanh chóng tiến hành một cuộc chiến tranh mới “không khói súng” - “Diễn biến hòa bình”. Ngoại trưởng Mỹ Kitxinhgơ khi đó đã ngạo mạn tuyên bố: “Chúng ta thất bại trong chiến tranh, nhưng sẽ giành chiến thắng trong hòa bình”. Để hiện thực hóa tham vọng, họ đã liên tục tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh,… bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; trong đó, thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Đáng chú ý là những năm gần đây, lợi dụng việc nước ta mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,… họ đã sử dụng những hình thức, thủ đoạn mới hết sức tinh vi, thâm độc, nguy hiểm, hòng gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo khủng hoảng niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Đặc biệt, nhằm thúc đẩy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân - công cụ bạo lực bảo vệ chế độ XHCN ở nước ta - họ đã phối hợp hoạt động các lực lượng phản động trong và ngoài nước để chống phá toàn diện, kể cả từ hệ thống pháp luật Nhà nước. Điển hình là, lợi dụng việc Đảng, Nhà nước và Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia sửa đổi Hiến pháp cũng như hiện nay đang tổ chức thực thi Hiến pháp mới, các thế lực thù địch, phản động đã ra sức chống phá dưới dạng tham gia “góp ý”, “kiến nghị”,… trong đó trắng trợn đòi bỏ Điều 4 của Chương I, đòi bỏ hiến định “Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; rằng, cần phải sửa Chương IV - “Bảo vệ Tổ quốc” với biện giải lố bịch: “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân, theo đó chỉ có chức năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chứ không có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước hay bất cứ tổ chức chính trị nào”; rằng, “Quân đội không chịu sự lãnh đạo của Đảng”. Rõ ràng đây là những luận điểm hết sức phản động, hoàn toàn trái với cơ sở lý luận, thực tiễn. Thế nhưng đáng quan ngại là, không phải ai cũng thấy, trong đó có một số ít người do thiếu thông tin và nhận thức hạn chế đã ngộ nhận, cả tin, thậm chí bị “thuyết phục” bởi những luận điệu tuyên truyền độc hại đó. Cũng không nằm ngoài mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội, họ còn sử dụng thủ đoạn “vàng thau lẫn lộn”, đánh đồng sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam với binh sĩ quân đội Ngụy quyền Sài Gòn, bằng cách ngụy biện: “họ đều hy sinh vì Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc”, từ đó đòi Nhà nước ta ghi công và cho hưởng chế độ liệt sĩ. Thật nực cười, phi lý! Điều đó cho thấy, các thế lực thù địch không từ bất cứ một thủ đoạn nào hòng đạt cho được mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội. Và, khi không thực hiện được, họ dở chiêu bài bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín của Quân đội. Cho nên chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, đồng thời gắn liền với đó, xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị là vấn đề đặc biệt quan trọng, cấp thiết hiện nay.

    Thực chất đây là mối quan hệ giữa “bảo vệ và xây dựng”; trong đó, mỗi nội dung có nội hàm riêng, nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Khi giải quyết vấn đề này, cần gắn chặt hai nội dung, không được xem nhẹ bất cứ nội dung nào. Sẽ là không đúng, nếu chúng ta chỉ chú trọng một chiều đến yếu tố “bảo vệ”, tức là đấu tranh chống “phi chính trị hóa” quân đội, mà xem nhẹ yếu tố “xây dựng”, mà ở đây là xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị; tương tự như vậy, nếu chỉ xem trọng yếu tố “xây dựng”, mà không quan tâm đúng mức đến yếu tố “bảo vệ” cũng là sai. Phương pháp nghiên cứu, xem xét và giải quyết đúng đắn vấn đề này là, phải trên cơ sở tư duy biện chứng, khoa học; coi trọng giải quyết đồng bộ cả hai nội dung: đấu tranh làm thất bại mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch và đẩy mạnh xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị.

TẤT CẢ 54 ANH EM DÂN TỘC ĐỀU LÀ MÁU MỦ, LÀ NGƯỜI VIỆT NAM MÁU ĐỎ DA VÀNG!!!! BẤT CỨ HÀNH VI CHIA RẼ, KỲ THỊ DÂN TỘC ĐỀU ĐÁNG LÊN ÁN!!!

 

Nhiều người trong tư duy, suy nghĩ còn có sự khá là kì thị người đồng bào. Mà chủ yếu là toàn các vùng miền khác không hiểu biết gì về văn hóa, con người ở đây.
Chính những người và suy nghĩ như vậy mới là mầm mống của sự bất ổn, mất đoàn kết.
Văn hóa và con người Tây Nguyên mang đậm tính sử thi, hào hùng núi rừng như tiếng cồng chiêng. Tính cách con người nơi đây rất hiền hậu, thật thà chất phác. Chính vì thế nên mới có chuyện một số người tự nhận họ khôn nên họ chuyên đi "lừa tộc" và coi đó là sự tự hào cho sự khôn lỏi đó.
Cũng như mọi dân tộc khác trên dải đất hình chữ S này, đồng bào Tây Nguyên cũng
đã đổ máu xương, đóng góp công sức to lớn cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính mãnh đất này đã sinh ra những người anh hùng dân tộc vĩ đại như Đinh Núp, Kpă Klơng, N'Trang Lơng, Kpă Ó, Y Buông, "Người lái đò trên sông Pô Cô" - Puih San (A Sanh), Ama Jhao, N'Trang Gưh, Y Jut, Săm Brăm... và hàng vạn những anh hùng Tây Nguyên khác đã ngã xuống cho đất nước được bình yên.
Trong thời bình, nhân dân Tây Nguyên đã cùng toàn Dân tộc ta thi đua giữ gìn trật tự an toàn xã hội, chủ quyền an ninh quốc gia, văn hóa - khoa học - kỹ thuật và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng; luôn tin tưởng và tuân theo vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Chỉ một bộ phận rất rất nhỏ, một số cá nhân còn thiếu hiểu biết nên mới bị các thế lực phản động lôi kéo, dụ dỗ, thậm chí đe dọa để thực hiện hành vi vi phạm an ninh quốc gia. Và chắc chắn không chờ các bạn ở các vùng miền khác mà chính bản thân người Tây Nguyên hơn ai hết mong muốn pháp luật trừng trị nghiêm khắc những thành phần này, mang lại cuộc sống yên ổn cho buôn làng cũng như toàn vùng.
Tây Nguyên có hai mùa nắng mưa, phong cảnh hùng vĩ, sông ngòi ao hồ dày đặc, đất đai bạt ngàn đỏ ba dan màu mỡ, khí hậu trong lành, mát mẻ, khoáng sản dồi dào, giao thông kết nối liên vùng ngày càng được đầu tư hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại như một số tuyến cao tốc chuẩn bị khởi công Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Đăk Nông - Bình Phước... Tạo ra cơ hội phát triển kinh tế to lớn trong tương lai, là vùng đất còn quá nhiều tiềm năng cần khai thác, vậy đây là cơ hội, là vùng đất đầy hứa hẹn hay là vùng đất dữ như trong suy nghĩ của một số bạn!?
Không phải ngẫu nhiên mà Đảng, Nhà nước xác định Tây Nguyên là ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC về quốc phòng và an ninh, có vai trò quan trọng trong kinh tế xã hội của cả nước. Đăk Lăk là trung tâm vùng Tây Nguyên, là cái lõi của địa bàn chiến lược. Với vị trí và tầm quan trọng như vậy, chắc chắn thời gian tới Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng sẽ được đầu tư mạnh hơn nữa để cất cánh.
Với những ai đã từng lên Buôn Ma Thuột thì chắc chắn không nhiều thành phố trong cả nước có thể để lại ấn tượng sâu sắc như nơi này, say cái nắng, say cái gió, say nếp nhà sàn, say hương vị cà phê Ban Mê và hơn hết là say đắm con người hồn hậu nơi đây ngay từ những cảm xúc đầu tiên.
Tây Nguyên luôn thân thiện, gần gũi, bình dị, nhưng cũng không kém sự hùng vĩ, truyền thống xen lẫn hiện đại, luôn chào mừng tất cả du khách từ khắp mọi miền đất nước ghé thăm, đầu tư, định cư và cùng phát triển!
Sau vụ việc đau lòng vừa qua tại huyện Cư Kuin, một lần nữa, chúng ta xin chia buồn đến các gia đình nạn nhân đã ra đi vì vụ việc vừa rồi, quả thực là quá đau lòng!
Người đã hi sinh và có người đã ra đi mãi mãi, những kẻ gây nên tội ác cũng đã bị bắt gần hết và chúng sẽ phải chịu hình phạt thích đáng cho hành vi man rợ của chúng.
Tuy nhiên, chúng ta không vì quá đau lòng, hay căm phẫn mà đánh đồng, gắn tội lên hết những người đồng bảo máu mủ hiền lành lương thiện của đất nước ta như một số thành phần trên mạng xã hội. Không nên kỳ thị và phân biệt họ như những kẻ man rợ kia vì họ là người dân Việt Nam vô tội. Họ cũng lao động và làm việc,họ cũng chiến đấu anh dũng trong các cuộc chiến tranh và cống hiến cho Đất Nước.
Chúng ta không nên “vơ đũa cả nắm” vì như thế là đã đạt được mục đích của các thế lực thù địch luôn muốn chia rẽ khối Đại Đoàn Kết Các Dân Tộc Việt Nam. Chúng ta phải tỉnh táo và cảm thông cho những người đồng bào trên chính quê hương của mình. Họ vô tội. Những kẻ có tội mới đúng là những người chúng ta cần lên án.
Ai trên đất nước ta cũng là Dân tộc cả! Từ "Đồng bào" là để chỉ ra rằng, chúng ta được sinh ra từ cùng một cái bọc như truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân.
Chúng ta, 54 Dân tộc anh em đã cùng nhau sinh sống trên Đất nước này và phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau như lời dạy của CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VĨ ĐẠI. Đừng vì bị kích động mà đánh mất đi sức mạnh Đại Đoàn Kết Các Dân Tộc. Vì đó là truyền thống Quý Báu của Dân Tộc Việt Nam.
Vì thế nên xin tất cả mọi người, hãy yêu nước một cách sáng suốt!
ST

THIẾU TƯỚNG, GIÁO SƯ, VIỆN SĨ TRẦN ĐẠI NGHĨA: "ÔNG VUA" VŨ KHÍ VIỆT NAM

 Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa là nhà khoa học lớn, đại diện xuất sắc cho đội ngũ khoa học Việt Nam. Ông được biết đến với danh hiệu “ông vua” vũ khí, người có công lớn trong việc xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Ông tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913 tại làng Chánh Hiệp, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long). Năm lên 6 tuổi, Phạm Quang Lễ chứng kiến sự ra đi của người cha thân yêu. Lời trăn trối của cha “con phải chăm lo học hành, sau này mang kiến thức của mình ra để giúp ích cho đời” đã theo ông suốt cả cuộc đời. Ông lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ và chị gái. Với tư chất thông minh vượt trội, sau khi kết thúc Đệ nhất cấp trường tỉnh Mỹ Tho, ông lên Sài Gòn theo học trường Trung học Pétrus Ký nổi tiếng. Ông luôn được thầy cô và bạn bè chú ý bởi sự thông minh và trí tuệ khác người.
Năm 1935, ông du học Pháp và sau những năm tháng học tập cần cù, với trí thông minh và nghị lực cao, Phạm Quang Lễ đã nhận được cùng lúc ba bằng đại học: Kỹ sư cầu đường, kỹ sư điện và cử nhân toán học. Sau đó ông học lấy tiếp bằng Kỹ sư hàng không, bằng của Trường mỏ và Đại học bách khoa. Trong 11 năm du học ở nước ngoài, ông đã âm thầm nghiên cứu kỹ thuật, công nghệ và hệ thống tổ chức chế tạo vũ phòng.Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị Fontainebbeau. Trong thời gian ở Pháp, Bác Hồ đã thu hút được đông đảo trí thức Việt kiều về nước phục vụ kháng chiến.
Cuộc gặp gỡ giữa ông và Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Paris đã trở thành cuộc gặp gỡ định mệnh làm thay đổi cuộc sống của Phạm Quang Lễ. Rời thủ đô Paris hoa lệ, Phạm Quang Lễ trở về Tổ quốc mang theo tâm nguyện phụng sự đất nước. Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gay go, ác liệt, ngày 5-12-1946, ông được Bác Hồ giao làm Cục trưởng Cục Quân giới với trọng trách là nghiên cứu, chế tạo ra vũ khí để bộ đội ta đánh giặc. Bác nói: “Đây là việc đại nghĩa. Vì thế, từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa...”.
Những cống hiến vô giá cho ngành công nghiệp quốc phòngĐảm nhiệm chức Cục trưởng Cục Quân giới trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ là một thử thách không nhỏ đối với Trần Đại Nghĩa. Tuy nhiên, với vốn kiến thức tích lũy được trong thời gian học tập ở nước ngoài, cộng với sự thông minh, trí sáng tạo, ông đã nhanh chóng bắt tay vào trực tiếp nghiên cứu và chỉ đạo nghiên cứu sản xuất vũ khí phục vụ cuộc chiến đấu của quân và dân ta.
Trong điều kiện khó khăn và thiếu thốn về nhiều mặt, ông cùng các đồng chí của mình đã chế tạo thành công súng và đạn bazoka, súng đại bác không giật (SKZ), bom bay - những loại vũ khí có trình độ hiện đại của thế giới lúc bấy giờ.
Ngày 3-3-1947 đã trở thành một mốc son của ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế tạo khí tài, khi đạn bazoka góp phần bẻ gẫy cuộc tấn công của địch ở vùng Chương Mỹ, Quốc Oai (Hà Tây cũ). Trong chiến dịch Thu Đông năm 1947, bazoka còn bắn chìm cả tàu chiến Pháp trên sông Lô.
Sau đạn bazoka, những năm 1948 - 1949, Trần Đại Nghĩa và các đồng nghiệp trong Cục Quân giới bắt đầu nghiên cứu và chế tạo loại súng có sức công phá mạnh - súng không giật SKZ. Đây là dòng vũ khí hiện đại, mới xuất hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa của Nhật Bản hồi cuối chiến tranh thế giới thứ hai.
SKZ Việt Nam xuất trận lần đầu trong trận Phố Lu, đánh phá nhiều lô cốt địch. Năm 1950, tại chiến trường Nam Trung Bộ, trong một đêm, với loại súng không giật này ta đã loại bỏ 5 đồn giặc. Địch hoảng sợ tháo chạy khỏi hàng loạt đồn bốt khác.
Để có thể đánh đòn chí mạng vào các điểm co cụm của địch, Trần Đại nghĩa tiếp tục nghiên cứu và chế tạo thành công loại bom bay tương tự loại V1, V2 của Đức. Bom bay được cấp tốc đưa đến các vùng chiến sự khốc liệt, góp phần làm nên những thắng lợi quan trọng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược..
Trong cuốn sách “Chiến tranh Đông Dương” của Lucien Bodard, xuất bản 1963 tại Paris (Pháp), có viết: “Trước đây, người Việt chỉ có thể đột phá vào đồn bốt bằng cách lấy sức liều mạng. Nhưng bây giờ họ làm việc đó bằng bazoka hoặc SKZ (một loại đại bác không giật do Việt Minh chế tạo). Cái thứ gây khó khăn cho chúng tôi, cái thứ xuyên thủng bê tông dày 60cm là những quả đạn SKZ 8kg mà người Việt chế tạo ở Đông Dương. Chỉ cần vài quả là đủ tiêu diệt tháp canh của chúng tôi”.
Sự ra đời của những vũ khí mang tên Trần Đại Nghĩa đã đưa trí tuệ Việt Nam vươn tới đỉnh cao của nền khoa học thế giới lúc bấy giờ./.
ST


BÀN ĐÁ CHÔNG CHÊNH DỊCH SỬ ĐẢNG

 

Tôi còn nhớ hồi ấy, Già Thu còn làm việc ở một hòn đá kê bên bờ suối ngay dưới hang. Nhưng khi trời chiều, ánh mặt trời bị bóng núi và những tán cây rậm rạp che khuất, đồng chí thường chuyển chỗ làm việc sang bên kia bờ suối cách cửa hầm mấy chục mét. Bàn làm việc là một phiên đá phẳng kê trên mấy hòn đá nữa cho với tầm ngồi, ghế cũng là một phiến đá nhỏ và nhẵn. "Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng" chính nơi đây, Người đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô. Bàn đá kê ngay cạnh suối nên mỗi khi rỗi rãi sau những giờ làm vệc căng thẳng, Người thường ra suối vứt cơm thừa để câu cá. Người đặt tên cho con suối ấy là suối Lênin và ngọn núi cao đối diện, có vóc dáng sừng sững, là núi Các Mác.
Người sống rất giản dị và kham khổ. Nước lá ổi thay chè, cải soong là thức ăn chủ yếu. Ngày ấy đồng bào quanh vùng ăn độn bắp, mọi người trong cơ quan cũng ăn độn bắp. Riêng "Đồng chí già" tuổi cao, sức yếu, chúng tôi mua gạo nấu riêng cho Người ăn, nhưng Người không đồng ý. Có lần bắp non xay để lâu mới ăn đến, bị chua, chúng tôi lại đề nghị Người ăn cơm gạo không, Người vẫn không nghe. Suy nghĩ rất nhanh, Người hỏi bọn tôi:
- Có cách nào làm cho bắp non khỏi bị chua không?
Chúng tôi thưa:
- Nếu rang lên thì có thể ăn được, nhưng không ngon...
- Không ngon cũng được. Thế thì rang lên mà ăn, không nên bỏ phí. Một hạt bắp lúc này cũng quý. Về sau nên phơi khô, rồi hãy xay.
Từ đấy mỗi khi thu hoạch bắp về nhà chúng tôi thành lệ phơi khô rồi mới cho vào cối, do đó bắp để lâu vẫn ăn được. Câu thơ "cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng" chính là ra đời trong thời kỳ này, gian khổ nhưng đầy lạc quan.
Ở đâu, Người cũng luôn luôn tìm mọi cách tự cải thiện đời sống. Thời kỳ ở Pắc Bó không dài, nhưng một vườn rau quả nho nhỏ đã bén rễ, có cả cà chua và ớt (dân vùng chúng tôi trước đó chưa bao trồng ớt). Người còn cùng anh em trong cơ quan câu cá, mò ốc suối. Năm thỉnh mười hoảng, anh em mới ra chợ mua cua nấu bát canh rau ngót rừng, rau cải, hoặc mua một, hai cân thịt lợn, chỗ béo thì lạng riêng rán lấy mỡ ăn dần, còn chỗ nạc thì kho mặn, cô lại như mắm khô để dự trữ gọi là món ăn chiến lược"./.
ST