Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

Giải pháp tăng cường giữ vững sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đối ngoại

 

          Trước các diễn biến phức tạp của thời cuộc, quan hệ ngoại giao của Việt Nam đã góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với một số nước lớn tuy có lúc trải qua thăng trầm nhưng hợp tác hữu nghị vẫn là dòng chảy chính. Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc, coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

          Việt Nam kiên quyết sử dụng mọi biện pháp phù hợp với luật pháp của Việt Nam và luật pháp quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc; đồng thời quyết tâm, kiên trì, kiên quyết giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Điều này luôn được cộng đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ. Trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, cần tăng cường hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo tình hình, phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia đối ngoại trong nghiên cứu, tham mưu, đóng góp vào việc xây dựng chính sách và triển khai đường lối đối ngoại của Đảng. Tích cực đổi mới nội dung, phương thức thông tin đối ngoại, ứng dụng hiệu quả thành tựu công nghệ thông tin, truyền thông để tăng cường thông tin, quảng bá về đất nước, con người, thành tựu của Việt Nam và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta.
          Cùng với những giải pháp căn cơ trên, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, cần chủ động phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm minh theo pháp luật đối với các hoạt động chống phá đường lối đối ngoại của Đảng. Kiên quyết không để các thế lực thù địch, cơ hội tập hợp lực lượng, gây rối chính trị, làm mất an ninh trật tự, gây rối loạn lòng dân, ảnh hưởng tới lợi ích đất nước.

          Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, internet, mạng xã hội (Facebook, Zalo, Twitter, Telegram...), các cuộc hội thảo, hợp tác nghiên cứu khoa học xã hội về những vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền, đối ngoại... Tuyệt đối không để xảy ra sơ hở khiến kẻ thù có thể lợi dụng xâm nhập, thu thập bí mật, phủ nhận, truyền bá quan điểm tư tưởng thù địch, kích động, xuyên tạc phá hoại đường lối đối ngoại đúng đắn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta./.

Đường lối ngoại giao độc lập tự cường của Đảng ta

 

          Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn nhất quán tư duy độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động đối ngoại, tạo dựng nên truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và đường lối đối ngoại Việt Nam “đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định. Trong thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống và bản sắc ngoại giao đó càng được bồi đắp, phát huy, tỏa sáng.

          Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta không ngừng bổ sung, hoàn thiện quan điểm, phương châm của đường lối đối ngoại, đó là: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội VII); “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội IX); “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội XI, Đại hội XII).

          Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
          Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng, Nhà nước ta nói chung, trong đó có chính sách đối ngoại quốc phòng “4 không” nói riêng là kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đường lối đó có cơ sở lý luận, khoa học, thực tiễn, cơ sở pháp lý vững chắc, có sự tham khảo ý kiến của các tầng lớp nhân dân một cách dân chủ, công khai.

          Thực tế cho thấy, trong quan hệ quốc tế đương đại, các nước, đặc biệt là các nước lớn luôn có xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau như: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ... Do đó, những luận điệu cho rằng việc “đi theo”, “liên minh” với nước này để chống nước khác nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo không những phản động, sai lầm mà còn thể hiện tư tưởng yếu hèn, trái với phương châm đối ngoại thêm bạn, bớt thù của Đảng ta.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

          Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình được sáng tạo từ những giá trị cốt lõi, nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

          Theo Mác, “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”.  Lênin cũng đưa ra chính sách kinh tế mới nhằm khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, phát triển quan hệ hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất là nội dung cốt lõi của kinh tế chính trị Mác - Lênin  mà bất cứ thời đại nào cũng cần chú trọng. Việt Nam đang trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thừa nhận những bất cập do quá trình cải biến cách mạng xã hội tạo thành, để từ đó không ngừng điều chỉnh, xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn, tích lũy cơ sở vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa.

          Ngày nay, các thành phần kinh tế không ngừng phát triển, mang lại những đóng góp tích cực cho nền kinh tế Việt Nam. Song, Đảng cũng thẳng thắn thừa nhận còn tồn tại tình trạng bóc lột trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một hiện tượng kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường, nhưng với sự lãnh đạo, định hướng của Đảng trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta không để tình trạng này trở thành bản chất của nền sản xuất cũng như bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua địa vị thống trị của giai cấp tư sản chứ không phải phủ nhận hoàn toàn những yếu tố tích cực, tiến bộ của chủ nghĩa tư bản.

          Do đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là một mô hình kinh tế phát huy được hết sức mạnh của các nguồn lực, đảm bảo lợi ích kinh tế được đặt trong mối quan hệ sâu sắc với tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là một phép cộng đơn thuần mà là mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa.

          Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giúp chúng ta  thoát khỏivòng luẩn quẩn trong xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội như nhiều nước tư bản lớn hiện nay đang phải đối mặt.

Luận điệu sai trái của những kẻ thù địch về những quy luật cốt lõi trong hệ thống học thuyết của kinh tế chính trị Mác - Lênin

 

          Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa mà đỉnh cao là nền kinh tế thị trường. Những kẻ chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin muốn phủ định quy luật giá trị khi đưa ra những hiện tượng, sự vật cá biệt để chứng minh quy luật này sai, không còn ý nghĩa và giá trị khoa học trong thời đại ngày nay.

          Những kẻ tự cho mình hiểu học thuyết Mác - Lênin đã sử dụng những ví dụ cũ rích và đã sai ngay từ phương pháp tiếp cận khi lấy một sự vật, hiện tượng cá biệt nằm ngoài quy luật kinh tế trong hệ thống học thuyết Mác để phủ nhận giá trị khoa học trong những nghiên cứu của ông. Họ dựa vào những hình thái của hàng hóa trong xã hội hiện đại, đánh đồng giữa trí tuệ nhân tạo với máy móc để khẳng định máy móc cũng tạo ra giá trị thặng dư - từ đó cổ vũ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chỉ trích chủ nghĩa Mác đã lỗi thời, lạc hậu, xóa nhòa đi ý nghĩa to lớn của quy luật sản xuất giá trị thặng dư mà Mác đã dày công nghiên cứu, phát hiện. Những thế lực thù địch còn đề cập đến những nội dung xoay quanh vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, dùng những thứ dân chủ giả hiệu để phê phán sở hữu của chủ nghĩa xã hội. Chúng cho rằng, chủ nghĩa xã hội sẽ cướp đi quyền sở hữu của con người, cổ súy cho việc dùng quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để nô dịch lao động của người khác; khẳng định sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản sẽ xóa bỏ bóc lột thông qua việc đề cập đến những chính sách ưu đãi công nhân, người lao động của các tập đoàn tư bản lớn.

          Cố tình hạ thấp, thậm chí phủ nhận giá trị khoa học của quy luật giá trị, quy luật sản xuất giá trị thặng dư, thế lực thù địch muốn khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của chủ nghĩa tư bản, đánh đồng kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản. Chúng coi kinh tế thị trường là riêng có của chủ nghĩa tư bản, và cả chủ nghĩa tư bản cũng như kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản là xu hướng tất yếu và duy nhất của nhân loại. Chúng cho rằng sẽ không cần và không có một mô hình kinh tế thị trường nào khác kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Từ đó, chúng đưa ra quan điểm phủ nhận chủ nghĩa xã hội, phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

          Dù có cố tình thế nào đi nữa thì Quy luật giá trị trong học thuyết của Mác - Lênin cũng vẫn là một quy luật đúng đắn và khách quan, không thể có thế lực nào muốn xoá bỏ, xuyên tác được. Tất cả những luận điệu xuyên tạc về quy luật giá trị này đều là chủ quan, vì những mục đích thấp hèn, cá nhân mà thôi.

Những luận điệu cố tình, lạc lõng, sai sự thật

 

          Gần đây, bối cảnh quốc tế có nhiều biến động, diễn biến phức tạp như cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt hơn; chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa đơn phương, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy. Đại dịch Covid-19 tác động nghiêm trọng và để lại hậu quả nặng nề trên mọi mặt của đời sống xã hội ở hầu hết quốc gia hơn hai năm qua. Sự kiện Nga thực hiện chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine cũng tác động nhiều mặt đến đời sống chính trị và an ninh quốc tế. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông của một số quốc gia Đông Nam Á tiếp tục diễn biến phức tạp.

          Lợi dụng bối cảnh đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết tung ra những luận điệu xuyên tạc nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam; trong đó, đường lối đối ngoại là một mặt trận mà họ quyết liệt chống phá nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành ngoại giao Việt Nam.

          Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội, nổi cộm như: “Chân trời mới media”, “Hội anh em dân chủ”... đã xuất hiện những quan điểm, ý kiến của cái gọi là “luật sư độc lập”, “nhà báo tự do”, “nhà dân chủ”, “nhà nghiên cứu”, “người Việt yêu nước”... dưới các hình thức “thư góp ý”, “lời kêu gọi”, “tư vấn cho Nhà nước Việt Nam”, “phản biện”, “kiến nghị”... nhằm phê phán, xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.

          Một số hãng truyền thông nước ngoài có phiên bản tiếng Việt như: RFA, VOA, RFI, BBC... còn bịa đặt rằng “đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay là “đu dây”, “tự sát”, bị lệ thuộc, chi phối bởi các cường quốc. Rồi họ đưa ra "lời khuyên" Việt Nam nên bỏ chính sách quốc phòng “4 không” để nghiêng về phương Tây, gắn với thực hiện “dân chủ hóa Việt Nam”...

          Sự nguy hại của những luận điệu phản động nêu trên dễ gây ra sự hoang mang, dao động, chia rẽ từ bên trong, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước, khiến dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về Việt Nam. Chúng ta cần lên án mạnh mẽ những luận điệu xấu, độc nêu trên!

Thêu dệt, bóp méo sự thật

 Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, Người Phát ngôn Bộ Công an cũng như các cơ quan chức năng đã có các thông tin chính thức với báo chí và tại một số hội nghị, diễn đàn có liên quan. Việc thông tin đảm bảo tính chính xác, kịp thời, giúp người dân trong nước và dư luận quốc tế nắm được thông tin, bản chất vụ án, ủng hộ cơ quan chức năng tích cực điều tra, làm rõ để xử lý trước pháp luật; đồng thời lên án các cá nhân, tổ chức đứng sau vụ án, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu gây bất ổn tại khu vực Tây Nguyên.

BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC KHÔNG ĐẾN TỪ VIỆC LIÊN MINH QUÂN SỰ

 BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC KHÔNG ĐẾN TỪ VIỆC LIÊN MINH QUÂN SỰ

 Trong chính sách quốc phòng Việt Nam, không liên minh quân sự là chính sách tối ưu, hữu hiệu để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cũng như lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam. Chúng ta quán triệt và thực hiện nhất quán tinh thần “thêm bạn, bớt thù”. Nếu tham gia liên minh quân sự, buộc chúng ta sẽ phải gắn với một bên, tạo ra sự đối trọng, thế đối đầu với các nước khác - tức là “chuốc” thêm kẻ thù, hoàn toàn trái ngược với tinh thần trên. Đồng thời, tham gia liên minh quân sự thì Việt Nam phải chia sẻ trách nhiệm về tài chính, nhân lực, thậm chí có thể phải nhân nhượng một số lợi ích quốc gia, dân tộc; kéo theo nguy cơ xung đột, chiến tranh, điều mà nhân loại yêu chuộng hòa bình, trong đó có nhân dân Việt Nam không hề mong muốn. Việt Nam chỉ chọn đứng về hòa bình, đứng về lẽ phải, công lý trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc.

Trong chính sách quốc phòng “bốn không”, Việt Nam cũng thực hiện nghiêm nguyên tắc không liên kết với nước này để chống nước kia. Nguyên tắc này giúp cho chúng ta có vị thế phù hợp để đối thoại với các nước hay tham gia vào các cơ chế đối thoại quốc phòng an ninh, quan sát viên các hội nghị, các cuộc tập trận ở khu vực.

Thực tiễn lịch sử cách mạng của nước ta đã chứng minh, thắng lợi trong giải phóng dân tộc, những thành tựu to lớn của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay không đến từ việc liên minh quân sự, không đến từ việc chọn bên, chia phe, thân bên này chống bên kia trong các quan hệ quốc tế. Việt Nam giành được độc lập, thống nhất đất nước đến từ việc kết hợp sức mạnh nội lực với ngoại lực, trong đó xác định nội lực là chính, quyết định, ngoại lực là quan trọng. Thành quả cách mạng ấy là sự kết tinh của ý chí tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trên thế giới. Bác Hồ đã từng chỉ ra rằng: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Bảo vệ Tổ quốc cũng vậy, không thể trông chờ, ỷ lại vào nước khác mà phải bằng chính bản lĩnh, trí tuệ, tiềm lực của đất nước, bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại. Lịch sử dân tộc ta trải qua mấy nghìn năm, công cuộc dựng nước luôn gắn liền với giữ nước. Chính sách quốc phòng “bốn không” được đúc kết từ truyền thống, kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của ông cha, phù hợp với tình hình thực tiễn thế giới, khu vực và trong nước, chính sách ấy ngày càng chứng minh tính đúng đắn, hiệu quả trên thực tế.

GÓP PHẦN NHẬN DIỆN MỘT SỐ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TRÊN LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HIỆN NAY

GÓP PHẦN NHẬN DIỆN MỘT SỐ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TRÊN LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HIỆN NAY

 Giáo dục và Đào tạo là lĩnh vực đặc biệt, có vai trò quyết định đến tiến trình phát triển lâu dài của đất nước, không những thế, nó còn tác động đến mọi gia đình, mọi con người trong xã hội. Do đó, đây là lĩnh vực các thế lực thường xuyên tìm cách tác động theo mục đích của “Diễn biến hòa bình”.

  Mục tiêu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo là làm suy giảm niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, bộ máy chính quyền của Nhà nước, dần dần đi đến thay đổi đường lối chính trị theo những mưu đồ của họ. Thực hiện mục tiêu đó, các thế lực thù địch không từ một thủ đoạn, một lĩnh vực cụ thể nào. Do đó, cần cảnh giác với một số luận điểm của các thế lực thù địch lợi dụng việc cải cách, đổi mới căn bản Giáo dục và Đào tạo để thực hiện mưu đồ ở những nội dung sau:

- Xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về Giáo dục và Đào tạo. Một số yếu kém trong Giáo dục và Đào tạo được họ khai thác triệt để, cho rằng đó là do lỗi của sự lãnh đạo và quản lý, ở đây họ chỉ nhìn thấy lỗi, thấy khuyết điểm mà không hề thấy những thành quả to lớn của giáo dục đã đạt được, những thành quả đó là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Mặt khác, họ còn xuyên tạc là do thể chế chính trị tác động, giáo dục nặng về chính trị, tư tưởng cho nên chương trình, nội dung nặng nề và họ đòi bỏ phần giáo dục lý luận chính trị. Thực chất, bất cứ nền giáo dục nào cũng đều phải hướng đến mục tiêu đào tạo ra những thế hệ nguồn nhân lực có lý tưởng, biết vì dân tộc, vì quốc gia mình trên cơ sở nắm vững tri thức khoa học của nhân loại.

- Thổi phồng một số hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong Giáo dục và Đào tạo, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào giáo dục nước nhà, cũng là giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Hiện nay, cả hệ thống chính trị cũng như ngành Giáo dục và Đào tạo đang đổi mới tự làm lành mạnh, trong sạch bên trong; quá trình này tất yếu phải loại bỏ những yếu tố tiêu cực, cản trở sự phát triển, đương nhiên những cái đó cần được lên án mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc lên án này không được quy chụp cho cả hệ thống chính trị và ngành giáo dục, không được xuyên tạc từ một vài hiện tượng để đi đến kết luận bản chất. Hiện tượng tiêu cực trong giáo dục có ở mọi quốc gia, mọi nền giáo dục, ngay ở các nước phương Tây và Mỹ cũng không tránh được những hiện tượng này. Việc vi phạm pháp luật trong tuyển sinh ở một số địa phương vừa qua tại các tỉnh phía Bắc đã có pháp luật giải quyết, không được nhân đó bôi nhọ thanh danh của một số đồng chí lãnh đạo, vơ thêm các địa phương khác đang rất nghiêm túc, rất minh bạch trong công tác này.

- Sùng ngoại, bài nội trong vấn đề giáo dục, một số người chưa biết giáo dục các nước như thế nào, nhưng lại nức tiếng khen họ và chê bai nền giáo dục nước nhà. Một số khác cố gắng dành dụm để cho con mình ra nước ngoài học bằng được để mong con mình hơn con người; cứ tưởng học được như vậy là tài và nói xấu, chê bai giáo dục nước nhà, cho là lạc hậu, yếu kém; học xong không trở về quê hương để phục vụ, đóng góp sáng kiến cho dân tộc phát triển. Giáo dục nước ngoài mặt này, mặt khác tiến bộ khi chúng ta nhìn vào, nhưng chưa chắc đã mang lại hiệu quả trong điều kiện cụ thể của nước ta, cho nên chúng ta chỉ có thể tham khảo, tiếp thu những điểm, những cách làm xét thấy phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta không đóng cửa mà sẳn sàng giao lưu với các nền giáo dục khác, nhưng cũng không thái quá trong vấn đề mở cửa giáo dục.

- Ra sức quảng bá, tô vẽ, khuếch trương nền giáo dục phương Tây và Mỹ coi đó là điểm đến lý tưởng, con đường duy nhất để thế hệ trẻ Việt Nam có điều kiện làm “rạng rỡ tương lai, mở mang tiền đồ của đất nước”. Nguy hiểm hơn, họ còn đòi loại bỏ các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi chương trình đào tạo; giảng viên, sinh viên phải được tự do về tư tưởng, không bị chi phối hoặc phụ thuộc vào bất cứ hệ tư tưởng nào.  

Bóc mẽ cái gọi là giải thưởng dành cho người âm ỉ chống phá Việt Nam

 

Chúng ta luôn trân trọng quá khứ, trân trọng những người góp phần làm nên giá trị Việt Nam, nhưng chúng ta cũng lên án việc làm sai trái của những ai đi ngược lại tương lai tốt đẹp của dân tộc. Người Việt rất ân nghĩa, ân tình: “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Thế hệ đi trước đã “trồng” cây độc lập tự do, thế mà có những kẻ vô lương đi “chặt” cây ấy thì tất nhiên chúng ta phải lên án thì mới phần nào xứng đáng với tiền nhân. Còn nếu cứ dửng dưng, bàng quan thì lại là có lỗi, thậm chí đó cũng là một cách tiếp tay cho kẻ xấu và các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam.

Vang vọng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác

 

Vang vọng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác

Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác đã mở đầu cho các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, lan rộng khắp cả nước, góp phần đắc lực vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam; là nguồn cảm hứng bất tận, có giá trị không chỉ trong quá khứ mà ngay cả với hiện tại và tương lai, là di sản vô giá mãi trường tồn với dân tộc Việt Nam!

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng di sản Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta là cả kho tàng di sản vô giá. Cả một đời vì nước vì dân, lời Bác cũng là lời của non nước, luôn thôi thúc, khơi dậy ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. 75 năm đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (ngày 11/6/1948) chính thức phát động phong trào thi đua ái quốc. Trong những thời khắc cam go, ác liệt của dân tộc, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến mọi tầng lớp Nhân dân, có giá trị hiệu triệu, lôi cuốn, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi hy sinh gian khổ, nhất là trong bối cảnh cần giải quyết đồng thời những nhiệm vụ cấp bách của dân tộc nhằm chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.

Bác kêu gọi toàn thể đồng bào, dù ở cương vị nào, làm công việc gì, đều phải tích cực thi đua yêu nước: “Bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh, bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau: Làm cho mau/ Làm cho tốt/ Làm cho nhiều. Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến/ Toàn diện kháng chiến. Cách làm là: dựa vào Lực lượng của dân/ Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các phong trào thi đua yêu nước đã phát triển khắp cả nước, có sức lan tỏa rộng rãi, nhiều sáng tạo mang lại khí thế sôi nổi trong các hoạt động thi đua:“Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm,” “Hũ gạo kháng chiến,” “Sóng Duyên Hải” “Gió Đại phong,” “Cờ Ba nhất”… đến các phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng,” “Phụ nữ ba đảm đang,” “Tuổi nhỏ chí lớn,” “Dạy tốt, học tốt”… thu hút đồng bào và chiến sĩ cả nước tích cực lao động sản xuất, học tập, kiên cường, dũng cảm chiến đấu diệt giặc ngoại xâm, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong thời kỳ đất nước đổi mới, nhiều phong trào thi đua yêu nước vẫn tiếp tục tạo được sức lan tỏa rộng khắp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thu hút mọi tầng lớp Nhân dân tích cực tham gia hưởng ứng. Nhất là các hoạt động thi đua yêu nước gắn với học tập và làm theo Bác ngày càng nở rộ, xuất hiện ngày càng nhiều mô hình, cách làm hay, sáng tạo trong các hoạt động thi đua yêu nước, mang lại nhiều hiệu quả thiết thực như phong trào:"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", "Ðền ơn đáp nghĩa", "Vì Trường Sa thân yêu", "Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi", "Thanh niên lập nghiệp", "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới"... đã góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng.

 

Các phong trào thi đua yêu nước đã hun đúc tinh thần Đại đoàn kết toàn dân tộc, kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc Việt Nam vượt lên mọi khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không chỉ được kiểm nghiệm từ thực tiễn của hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, một lần nữa, phong trào thi đua yêu nước được hưởng ứng của đông đảo quần chúng Nhân dân, tạo ra động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ vượt qua những thời điểm khó khăn của đất nước, vượt qua cuộc chiến giữa thời bình - cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, cuộc chiến không tiếng súng nhưng cũng đầy cam go và thách thức, hiểm nguy. Chưa bao giờ con người lại có cảm giác giữa sự sống và cái chết mong manh đến thế. Có đi qua những khó khăn, hiểm nguy mới thấu hiểu những giá trị của sự bình yên, giá trị của đoàn kết, tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách… tất cả được khơi dậy từ lòng yêu nước, thương nòi!

Chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn từ những phong trào thi đua yêu nước, song giờ đây, trong bối cảnh thời đại mới, rất cần những phong trào thi đua yêu nước có sự sáng tạo đột phá để thực sự tạo ra động lực mới, tư duy mới, khơi dậy sự vươn lên mạnh mẽ, xây dựng đất nước giàu mạnh, hiện thực hóa khát vọng dân tộc hùng cường; xây dựng xã hội tích cực học tập, hăng say lao động, sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra nhiều của cải, vật chất, mang lại sự giàu có cho người dân và đất nước.

Muốn vậy, các hoạt động thi đua yêu nước phải thiết thực, gắn với công việc hàng ngày của mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên trong thực thi chức trách không được hời hợt, thờ ơ, vô cảm trước các nhu cầu của doanh nghiệp và người dân, không đùn đẩy trách nhiệm, hoặc “mắc bệnh sợ trách nhiệm”… đây chính là nguyên nhân gây ra nhiều hệ lụy xấu, làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, những người làm việc trong bộ máy công quyền Nhà nước luôn phải ý thức được bổn phận trách nhiệm của mình là phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, mang lại lợi ích cho xã hội, cho Nhân dân và cho đất nước; cần phải làm tốt nhiệm vụ được giao, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc hàng ngày cũng chính là thi đua yêu nước.

Nhất định phải phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là vai trò của Nhà nước đối với các phong trào thi đua yêu nước. Phải gắn các phong trào thi đua với các mục tiêu phát triển đất nước phù hợp với bối cảnh của thời đại. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh hoàn thiện, cải cách và nâng cao chất lượng thể chế cũng như thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Đổi mới thể chế, trong đó, đổi mới tư duy về thể chế, tư duy quản lý nhà nước phải đi đầu… tức là phải đổi mới tư duy lãnh đạo và tầm nhìn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là căn cốt có tính nền tảng cho các phong trào thi đua yêu nước. Và mọi đổi mới, cải cách cũng phải được bắt đầu từ đội ngũ lãnh đạo có khát vọng, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, quan trọng hơn là dám thay đổi và từ bỏ những thứ đã cũ và lạc hậu, xóa bỏ tư tưởng giáo điều, bảo thủ, trì trệ trong cả tư duy và hành động.

 

Theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc làm hàng ngày. Thật ra, công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ: Từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch sẽ, cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng. Nay ta thi đua làm cho đất ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn. Mọi việc đều thi đua như vậy”. Người khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”, như vậy, muốn phong trào thi đua yêu nước có hiệu quả thiết thực thì cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải làm gương sáng cho mọi người, tập thể noi theo, “Nói thì phải làm”, “Nói đi đôi với làm”. Theo Người: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho Nhân dân, dù khó khăn đến mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho dân, dù khó khăn mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ hết”. Người nhấn mạnh: “Cán bộ phải thi đua với quần chúng, xung phong làm gương mẫu cho quần chúng để kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc chóng thành công”; “Một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.

Suy cho cùng, phong trào thi đua yêu nước phải được bắt đầu từ những cán bộ, đảng viên… Cho dù ở góc độ vĩ mô, vi mô hay trong phạm vi quản trị nào đó, kể cả các hoạt động phong trào thi đua thì tư duy và tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo, quản lý Nhà nước luôn là một trong những nhân tố quyết định hàng đầu. Một dân tộc có trở nên thịnh vượng, hùng cường hay không, phần lớn ảnh hưởng bởi khát vọng, tư duy quản lý Nhà nước và tầm nhìn của các nhà lãnh đạo. Quốc gia nào cũng cần đội ngũ cán bộ, lãnh đạo có năng lực tư duy: “Lo cho dân, nghĩ cho dân, làm lợi cho dân và làm việc vì dân…” Theo đó, cán bộ, đảng viên phải tiên phong, đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước, cũng như khả năng truyền cảm hứng tới người dân cùng hướng về mục tiêu khát vọng hùng cường của dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam cũng chính là thắng lợi của các hoạt động thi đua yêu nước - thắng lợi của những gian khổ, hy sinh. Chúng ta càng thấm thía ý nghĩa sâu sắc từng câu, từng chữ trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác, với những ngôn từ hết sức dung dị, gần gũi nhưng vô cùng sâu sắc và thiết thực, thể hiện rõ biện chứng nhân - quả, không chỉ phù hợp với bối cảnh của lịch sử lúc bấy giờ. Đến nay, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên ý nghĩa lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, là kim chỉ nam, nền tảng quan trọng cho toàn Đảng, toàn dân ta nỗ lực phấn đấu, thực hiện có hiệu quả công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.

Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác đã mở đầu cho các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, lan rộng khắp cả nước, góp phần đắc lực vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử dần lùi xa theo năm tháng, song lời Bác vẫn vang vọng mãi với non sông, đất nước Việt Nam. Mọi thành quả của cách mạng Việt Nam gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn liền với muôn vàn lời dạy của Người. Cả một đời vì nước vì dân, lời Bác cũng là lời của non nước, luôn thôi thúc, khơi dậy ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng di sản Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta là cả kho tàng di sản vô giá. Trong đó, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Người vẫn là nguồn cảm hứng bất tận, có giá trị không chỉ trong quá khứ mà ngay cả với hiện tại và tương lai, là di sản vô giá mãi trường tồn với dân tộc Việt Nam.

 

NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của dân tộc; là ngọn đuốc soi đường cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay. Với bản chất cách mạng, khoa học và mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho các các dân tộc, cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Đại hội XIII đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo quá trình đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Đó là: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây được coi là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”.

Giá trị hiện thực của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 Giá trị hiện thực của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của Cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh (vào cuối thế kỷ XVIII), đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản – một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội. Cuộc đấu tranh đó đã đặt ra yêu cầu khách quan: phải có lý luận dẫn đường. Và, chủ nghĩa Mác ra đời để đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời, chính thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản đã trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và không ngừng bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chủ nghĩa Mác.

Gần hai thế kỷ kể từ khi C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng đầu tiên tại nước Đức, được V.I. Lênin kế tục và phát triển tại nước Nga, điều đó càng khẳng định tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bởi, nó không những chỉ ra bản chất bóc lột, phơi bày bản chất sâu xa, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong lòng chế độ tư bản - nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, mà còn dự báo chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời, vạch ra cho giai cấp vô sản phương pháp cách mạng để giải phóng giai cấp, đưa xã hội loài người tiến lên.

Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các phong trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đều bị thất bại vì không có đường lối phù hợp. Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan, cấp thiết là phải khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Từ thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; trong đó, tập trung trước hết vào việc thành lập một chính đảng để lãnh đạo cách mạng. Và ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời, đánh dấu một sự kiện đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ điều kiện đặc thù của xã hội Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã giải quyết sáng tạo và thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ phong kiến, thực dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Thành tựu phát triển toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó khẳng định tầm vóc, ý nghĩa, giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, nhằm thực hiện mưu đồ thay đổi đường hướng chính trị ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng trên mọi phương diện, bằng mọi biện pháp, hòng phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giai đoạn hiện nay; làm phai nhạt niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với mục đích cuối cùng là xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi đời sống chính trị - tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng bằng các luận điệu xuyên tạc, công kích, chống phá rất đa dạng:

Về tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Các thế lực thù địch sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau để phủ nhận, xuyên tạc. Trước hết, họ phủ nhận tài năng kiệt xuất của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin; đồng thời, cho rằng: C. Mác và V.I. Lênin là những nhà xã hội duy tâm, siêu hình và không tưởng; học thuyết Mác chỉ là sự sao chép sống sượng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh và triết học cổ điển Đức; là sản phẩm lai tạo hỗn hợp mang tính chủ quan, áp đặt được tua lại nhiều lần. Đây là sự xuyên tạc vô căn cứ và có chủ đích của các thế lực thù địch. Cần thấy rằng, tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin được đúc rút, khái quát nhờ tài năng kiệt xuất của cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin trong thực tiễn hoạt động chính trị sôi động của các ông. Nhờ đó mà các ông đã  tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lý luận, xác lập một thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong xem xét và cải tạo hiện thực, từ đó xây dựng nên Học thuyết của mình. Nhìn vào thực tiễn lịch sử, nếu không có những bộ óc vĩ đại, với một thế giới quan khoa học, cách mạng thì không thể đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử.

Đối với những quan điểm, nguyên lý có tính chất nền tảng, là những phát kiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lênin, họ tập trung xuyên tạc hòng hạ thấp, phủ nhận các nội dung: học thuyết hình thái kinh tế - xã hội; học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ còn phê phán quan điểm của C.Mác về luận điểm đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội; cho rằng: những luận điểm này làm nghèo đi những hình thức tiến hóa của xã hội, khuyến khích hận thù, cổ vũ cho chiến tranh, độc quyền, độc đoán, mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp liên miên không phù hợp với xu thế của thời đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển, v.v. Các thế lực thù địch, phản động không chỉ tìm cách phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin về mặt lý luận mà dựa vào sự sụp đổ của mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu (trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX), họ rêu rao: đó là do sự sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin, cho nên đó là sự sụp đổ đã báo trước. Đây là thể hiện của nhận thức phiến diện, thiếu khách quan và khoa học trước sự vận động và phát triển của các mô hình xã hội. Nói về sự sụp đổ, tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, chúng ta coi đó là một tổn thất to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng không phải là tất yếu và càng không phải là sai lầm của học thuyết Mác. Nguyên nhân chính, trực tiếp, có tính quyết định dẫn đến sự tan rã đó là do những sai lầm trong đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ của Đảng Cộng sản cầm quyền, cùng sự phản bội của một số lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”. Do đó, đây chỉ là sự sụp đổ một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể, không đồng nghĩa với “sự cáo chung của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” như xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao.

Về vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam, họ dựa vào bối cảnh thời gian, không gian ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin để phủ nhận, xuyên tạc với luận điệu: chủ nghĩa Mác – Lênin không nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn đầy đủ, nó chỉ phù hợp với các nước châu Âu; trong khi đó, ở châu Á có sự phát triển kinh tế khác, có trình độ văn hóa, cùng phong tục, tập quán khác các nước châu Âu. Do vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin đối với Việt Nam chỉ là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống, văn hóa dân tộc, việc vận dụng vào Việt Nam là khiên cưỡng. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra những quy luật vận động chung của lịch sử loài người và các ông cũng đều nhấn mạnh việc vận dụng những quy luật chung ấy vào điều kiện cụ thể của mỗi nước cũng phải có những cải biến trong những vấn đề chi tiết cho phù hợp với đặc điểm của quốc gia, dân tộc. Bản thân các ông cũng không hề coi lý luận của mình là tối cao, tuyệt đỉnh, mà cần phải có sự bổ sung, phát triển, cụ thể hóa vào từng điều kiện lịch sử cụ thể: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Còn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: trong quá trình vận dụng những quy luật chung, những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác – Lênin, của chủ nghĩa cộng sản, phải chú ý đến đặc thù của dân tộc mình. Người khẳng định: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Do đó, việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn.

Về vai trò và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác – Lênin, các thế lực thù địch cho rằng: chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời vào thế kỷ XIX trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (động cơ hơi nước), nền sản xuất dựa trên máy móc cơ khí nên chỉ hợp với thời điểm đó, cùng lắm là thế kỷ XX, còn hiện nay loài người đã chuyển mình sang Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa, tin học hóa, thời đại “hậu công nghiệp”, kinh tế - xã hội có rất nhiều đổi thay, vì vậy hiện nay chủ nghĩa Mác – Lênin không còn phù hợp. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học xã hội, khoa học nhân văn. Vì thế, nó mang đặc trưng tích lũy, kế thừa, chứ không mang đặc trưng thay thế như những tri thức thuộc ngành khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ hiện đại ngày nay vốn không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản là “bóc lột”; ngược lại, nó làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm sâu sắc. Điều này được biểu hiện cụ thể trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại, như: mâu thuẫn giữa tư bản và người lao động vẫn tồn tại và gia tăng, khoảng cách giàu - nghèo mở rộng, phân phối của cải không công bằng, nạn thất nghiệp tăng lên, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội trở nên trầm trọng, v.v. Điều đó càng chứng tỏ thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là đúng đắn và có ý nghĩa thời đại như thực tiễn đã và đang minh chứng: Cải cách chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc (từ năm 1978), đổi mới ở Việt Nam (từ năm 1986) và các quá trình tương tự ở các nước xã hội chủ nghĩa khác được triển khai với các nguyên tắc đúng đắn; vừa toàn diện, đồng bộ; vừa có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, giải pháp phù hợp; vừa kiên định và sáng tạo, kế thừa và phát triển, gắn lý luận với thực tiễn, gắn quốc gia với thế giới. Nhờ vậy, Trung Quốc đã trở thành cường quốc có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới. Việt Nam đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; Cuba hiên ngang trước bao vây cấm vận, kiên định xây dựng quốc gia xã hội chủ nghĩa độc lập, có chủ quyền, dân chủ, thịnh vượng và bền vững; các nước xã hội chủ nghĩa khác đều có nhiều thành công trong xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội. Đây thật sự là một quá trình cải cách, đổi mới thành công cả về tư duy lý luận, nhận thức, tầm nhìn và thực tiễn, chủ trương, chính sách, khẳng định xung lực của chủ nghĩa xã hội trước mọi sóng cồn, gió cả của thời cuộc.

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động sử dụng thủ đoạn tấn công trên nhiều phương diện. Họ xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh không có tư tưởng riêng, mà chỉ là ảo tưởng do Đảng Cộng sản nghĩ ra. Hơn thế, họ còn đưa ra luận điệu: tư tưởng Hồ Chí Minh không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay và cho rằng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến đấu tranh dân tộc, theo chủ nghĩa dân tộc nên chỉ có giá trị trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc chứ không có giá trị đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là sự xuyên tạc vô căn cứ, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin với giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam.

Thực hiện mưu đồ phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động tiến hành thủ đoạn vô cùng nham hiểm, đó là tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là một thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc, nhằm làm đứt gãy từng bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ biện luận rằng: chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ phù hợp với phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Điển hình là việc Hồ Chí Minh không bao giờ “bê nguyên xi” chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà đều có sự thay đổi. Do đó, các thế lực thù địch ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua chủ nghĩa Mác – Lênin” hay “chỉ cần chủ nghĩa Mác – Lênin là đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam”. Họ còn cho rằng: “chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh”. Việc tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở để các thế lực thù địch, phản động tiến thêm một bước nữa đòi lấy tư tưởng Hồ Chí Minh thay thế cho chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam. Từ đó, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam và cũng gián tiếp phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng: tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lênin ở bản chất khoa học và cách mạng, ở lý tưởng và mục tiêu nhân văn vì con người, vì giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại. Về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lênin chứ không hề có sự khác biệt, đối trọng nhau như những luận điệu của thế lực thù địch rêu rao. Có được điều đó là do chính Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu, kế thừa, phát triển lên tầm cao mới, vận dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Giá trị và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với nhân loại nói chung và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng là không thể phủ nhận. Do vậy, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ tất yếu khách quan, đòi hỏi phải kết hợp giữa kiên định và phát triển; trung thành và vận dụng sáng tạo; giữa lý luận và thực tiễn; giữa tổng kết với bổ sung, phát triển; giữa bảo vệ và đấu tranh, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin luôn và mãi là nền tảng tư tưởng vững chắc của các đảng cộng sản cầm quyền, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga luôn soi đường cho Cách mạng Việt Nam

 Ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga luôn soi đường cho Cách mạng Việt Nam

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định giá trị lịch sử to lớn, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga và lãnh tụ V.I. Lênin đối với thế giới nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng.

Năm 1967, nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài: “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” trên Báo Pravda (Sự thật) của Liên Xô. Người tiếp tục khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”, đồng thời nhấn mạnh: “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”.

Sau cách mạng dân chủ Tư sản tháng Hai năm 1917, ở Nga tồn tại tình trạng hai chính quyền song song, một bên là Chính phủ lâm thời tư sản và một bên là Xô viết, các đại biểu công nhân và binh sĩ, đứng đầu là Xô viết Pê-tơ-rô-grát. Trước tình hình đó, V.I. Lênin và Đảng Bôn-sê-vích đã xác định cách mạng Nga là chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tháng 4/1917, V.I. Lênin về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Nga. Đêm 24/10/1917 theo lịch cũ nước Nga (tức đêm 6/11/1917), khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Thủ đô Pê-tơ-rô-grát.

Ngày 25/10/1917, các lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở Thủ đô Pê-tơ-rô-grát, trừ Cung điện Mùa Ðông và một vài nơi. Tới 2 giờ 10 phút rạng sáng 26/10/1917, Cung điện Mùa Ðông được giải phóng, các bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời bị bắt giữ. Cuộc khởi nghĩa vũ trang tại Pê-tơ-rô-grát kết thúc thắng lợi. Ngày 7/11/1917 đã được ghi vào lịch sử là ngày thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại.

Cách mạng Tháng Mười Nga là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nó đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người, đưa giai cấp vô sản bị áp bức, bóc lột nặng nề thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã hội; giải phóng nhân dân lao động, đưa người lao động từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước.

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã dẫn tới sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa - Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Đồng thời, mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử loài người, từ thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay “chính quốc”, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga Hoàng, mở ra thời kỳ vùng dậy không gì ngăn cản được của các dân tộc bị áp bức, giành độc lập, tự do, làm lay chuyển hậu phương rộng lớn của chủ nghĩa đế quốc thế giới.

 

Với dân tộc Việt Nam, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước cách mạng đều bị thất bại vì không có đường lối cứu nước đúng đắn. Giữa lúc đó, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sau gần 10 năm bôn ba tìm con đường cứu nước đã tiếp thu được ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười. Tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc sớm nắm bắt được cốt lõi trong tư tưởng của V.I. Lênin: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.

Luận cương đã giải đáp cho Người về con đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào Việt Nam mà Người đang kỳ công tìm kiếm. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đi đến nhận thức rõ ràng về con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam. Người khẳng định rằng, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt Nam với xu thế thời đại.

Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930), Đảng đã khẳng định đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, với đường lối đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; từ đó xây dựng và phát triển đất nước ta ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

 Từ những giá trị Cách mạng Tháng Mười Nga, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững

Kế thừa những giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười Nga, ngay từ khi bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt tinh thần đổi mới trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội. Đó vừa là tư tưởng, vừa là sự lựa chọn cách thức, bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng để từng bước hiện thực hóa con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

 Hơn 90 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn mang tính bước ngoặt lịch sử; kiên định sự nghiệp đổi mới, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đó là một vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng tư tưởng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”. Đó cũng chính là khẳng định phương hướng, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo những giá trị thời đại khởi nguồn từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

 

Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển tất yếu; là truyền thống của dân tộc ta qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời là quy luật của mọi cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay. Tuân thủ quy luật và kế thừa bài học truyền thống đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng nền quốc phòng Việt Nam – xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ Tổ quốc “từ xa, từ sớm”.

Tư tưởng Quân sự Hồ Chí Minh là một vấn đề quan trọng trong hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là hệ thống các quan điểm về chỉ đạo hoạt động quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng Việt Nam vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Quân sự Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo, kế thừa truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc và tiếp thu tinh hoa nghệ thuật quân sự của nhân loại thông qua bản lĩnh Hồ Chí Minh.

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh có cội nguồn từ tư tưởng chính trị, vì mục tiêu chính trị. Điều đó được khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập: “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống hòa hiếu và nhân nghĩa của ông cha. Cho nên trong quan điểm về sử dụng bạo lực cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ tinh thần tự vệ dân tộc: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”; “đánh giặc phải có quân đội”. Quan điểm về bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo và hòa bình, khác xa với tư tưởng hiếu chiến, tàn bạo của quân xâm lược. Người luôn nhắc nhở: Nhân dân ta buộc phải cầm súng để tự vệ, nhưng chúng ta không coi đánh tiêu diệt là con đường duy nhất để kết thúc chiến tranh, mà dùng “mưu phạt, tâm công”, coi trọng binh vận, địch vận, tranh thủ đàm phán hòa bình, đánh bại ý chí xâm lược.

Ghi nhớ công ơn của tiền nhân, trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm 1954, tại Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ Đại đoàn quân Tiên phong: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam thành một đội quân cách mạng vững mạnh về mọi mặt, từng bước chính quy hiện đại. Trong đó, Người chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị - tinh thần vì đó là nền tảng để xây dựng quân đội; quan tâm xây dựng tinh thần dân chủ, kỷ luật, đoàn kết cho bộ đội; xây dựng quân đội thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân.

Sức mạnh “bách chiến bách thắng” của quân đội Việt Nam có cội nguồn và được tăng lên gấp nhiều lần là từ Nhân dân: “Lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng chí chung câu quân hành”; thế hệ này tiếp tới thế hệ khác lần lượt lên đường tòng quân. Biết bao thế hệ những người mẹ, người vợ, người chị, người em đã tiễn những người con, người chồng, người anh, em yêu quý nhất của mình cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử đã khắc sâu dấu ấn về sức mạnh vĩ đại của những người dân luôn quyết tâm cao nhất để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”…

Tất cả là nhờ có tư tưởng của Người luôn soi sáng: “dân như nước, mình như cá, lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân”; “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ bộ đội”. Đồng thời, sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối sáng suốt của Đảng đối với quân đội là một nhân tố quan trọng để tạo nên sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng. Bác nói: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”.

Trong xây dựng lực lượng vũ trang, “Người trước, súng sau” là quan điểm đặc biệt quan trọng của ồ Chí Minh, cần luôn nhận thức sâu sắc và thực hiện.

Lẽ đương nhiên ai cũng biết rằng: con người và vũ khí tạo nên sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Nhưng với Hồ Chí Minh thì: “vũ khí là cần nhưng con người vác vũ khí, sử dụng vũ khí là quan trọng hơn” - con người là nhân tố quyết định.

Lấy việc bồi dưỡng xây dựng con người là chính yếu, Người luôn nhắc cán bộ, chiến sĩ ra sức phấn đấu để có phẩm chất và năng lực toàn diện: “một quân đội văn hay, võ giỏi là một quân đội vô địch”; “tư tưởng vững, chính trị vững, kỷ luật khá, thân thể khỏe mạnh thì nhất định thắng”.

 “Trí là phải có óc sáng suốt để suy xét địch cho đúng”. Trong chiến đấu, các nhà chỉ huy quân đội không chỉ đấu sức mà còn đấu trí; nếu chỉ có dũng mà không có trí thì hy sinh cũng là vô ích; người làm chỉ huy phải biết mình, biết người, biết thời, biết thế; phải biết tổ chức huấn luyện để binh sĩ có sự đúng đắn trong nhận thức và hành động; biết linh hoạt, quyền biến.

“Dũng là không nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh”. Biết bình tĩnh trước hiểm nguy, dám chịu trách nhiệm trước những điều đã quyết định.

"Nhân là biết thương yêu nhân dân, thương yêu chiến sĩ, biết thắng địch bằng nhân nghĩa. Đối với địch hàng thì phải biết khoan dung”. Bác đã từng nhấn mạnh: quân đội cần có “Mãnh tướng”. “Hổ tướng”, nhưng quân đội Việt Nam cần có nhiều “Nhân tướng” vì mục tiêu của nền quốc phòng Việt Nam là vì con người, do con người nhằm bảo vệ nền hòa bình và độc lập, tự do.

“Tín là phải làm cho người ta tin mình”; Tín là tự tin vào sức mình nhưng không phải là tự cao. Muốn vậy phải biết giữ uy tín, phẩm hạnh.

“Liêm là giữ kỷ luật nghiêm minh, có lối sống trong sạch, giản dị, không tham của, không tham sắc, không tham danh vọng”. “Trung là trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng và với Đảng”. Người làm chỉ huy phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Người chỉ huy về quân sự, cũng như về chính trị phải làm kiểu mẫu; phải giữ đạo đức của quân nhân; phải hết sức gần gũi, thương yêu, chăm sóc chiến sĩ.

Trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần chú trọng vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, với những nội dung, gồm:

 

- Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với quân đội. Chú trọng công tác xây dựng Đảng trong quân đội. Đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm nền tảng để nâng cao sức mạnh toàn quân. Bác nói: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”. Đấu tranh kiên quyết để làm thất bại âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình, “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch.

- Phải gìn giữ phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” theo tinh thần Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương ban hành về phát huy phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ", kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới.

- Củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; đảm bảo giữ vững mối quan hệ hai chiều để xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận Quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; luôn ghi nhớ và thực hành lời của Bác thường nhắc nhở: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Quân dân đoàn kết, là đường thành công”.

- Quân đội phải phối hợp với Công an chặt chẽ, nhịp nhàng trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và giữ gìn trật tự an ninh của Tổ quốc: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, ra sức phát triển ưu điểm, khắc phục những tư tưởng không đúng”.

Kiên quyết bảo vệ, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng

 Bảo vệ, giữ vững nguyên tắc TTDC là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta và sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực hiện nay, trước sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, để bảo vệ, giữ vững nguyên tắc TTDC trong tổ chức và hoạt động của Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên những vấn đề cốt lõi về nguyên tắc TTDC, làm cơ sở để đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về nguyên tắc TTDC của Đảng 

Nguyên tắc TTDC chỉ có thể được bảo vệ và giữ vững khi nhận thức của cán bộ, đảng viên về nguyên tắc TTDC được nhận thức đúng đắn, quán triệt sâu sắc. Thực tiễn các vụ việc vi phạm bị xử lý vừa qua đã cho thấy, bất kỳ tập thể, cá nhân nào, dù là ai, ở cương vị nào, nếu cố tình nhận thức không đúng, hành động không chuẩn mực, chấp hành không nghiêm, vi phạm nguyên tắc TTDC thì đều phải “trả giá” đắt cho những sai phạm của tập thể hoặc của cá nhân đó. Hơn nữa, nguyên tắc TTDC có nội dung và phạm vi rất rộng. Áp dụng nguyên tắc này trong thực tế nếu không nắm chắc, hiểu sâu sẽ rất dễ dẫn đến vi phạm, tạo cơ sở để các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị xuyên tạc, kích động mâu thuẫn, làm biến dạng nguyên tắc. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc TTDC: TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, nguyên tắc này chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng tổ chức, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng chi phối các nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác của Đảng.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị “về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới.

Tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nắm vững các quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện nguyên tắc TTDC; nghiên cứu làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc TTDC trong tình hình mới, làm cho mọi cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nắm chắc bản chất TTDC.

Đồng thời, cũng cần tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên hiểu thấu rằng, tùy tình hình, nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ, cách thực hiện và phạm vi áp dụng nguyên tắc TTDC có sự khác nhau, nội dung chi tiết của nguyên tắc TTDC có sự điều chỉnh nhất định, nhưng bản chất và nội dung cơ bản của nguyên tắc không bao giờ thay đổi.

Hai là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc TTDC trong Đảng

Các thế lực thù địch, phản động và đối tượng cơ hội chính trị không có cớ để lợi dụng xuyên tạc, trong Đảng cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc TTDC.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa mở rộng dân chủ và tăng cường kỷ cương trong Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần nhận thức đầy đủ về mở rộng, phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương xã hội là vấn đề có tính nguyên tắc; dân chủ và kỷ cương trong Đảng là hạt nhân, có ý nghĩa quyết định thực hiện dân chủ và kỷ cương trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy dân chủ, gương mẫu, tự giác chấp hành nghiêm minh kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật và các quy định của cơ quan, đơn vị.

Thực hiện nghiêm tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong cơ quan lãnh đạo của Đảng. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là một nội dung của nguyên tắc TTDC. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”(6); “lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”(7). Vì vậy, thực hiện tốt chế độ này có ý nghĩa rất quan trọng, là điều kiện để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của các cơ quan lãnh đạo đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt các quy chế, quy định, nhất là quy chế làm việc của cấp ủy, cơ chế kiểm soát quyền lực, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với người đứng đầu; chế độ bảo lưu ý kiến của thiểu số, từng bước xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, bảo đảm sự lãnh đạo của tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế các sai phạm. Các cán bộ lãnh đạo đảng cần tự giác thực hiện tốt các các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp; nghiêm túc tự phê bình và phê bình, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật và quy định của cơ quan, đơn vị.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; xử lý nghiêm minh, kịp thời những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm nguyên tắc TTDC; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch. Đại hội XIII của Đảng đã xác định: nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Do đó, cấp ủy và ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm vững quan điểm, quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Xây dựng và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ và hằng năm; coi trọng khâu nắm tình hình, giám sát hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu; chủ động ngăn ngừa, phát hiện, kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Xử lý nghiêm minh tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc TTDC và những hành vi dung túng, bao che khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên.

Nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc TTDC với nhiều hình thức, phương pháp sáng tạo, thiết thực, hiệu quả, nhất là trên không gian mạng và internet. (trích TCCS)

Không thể phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng; là tiêu chí để phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng khác. Đảng ta đã khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(1). Thực hiện tốt nguyên tắc TTDC là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản. Vì thế, không thể phủ nhận nguyên tắc TTDC.

Dù nghiên cứu ở góc độ nào, nhìn nhận ở bình diện nào, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, TTDC là một nguyên tắc thống nhất, không thể tách rời, càng không thể đối lập giữa tập trung và dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ, nhưng dân chủ phải hướng tới tập trung, thống nhất, có sự lãnh đạo để bảo đảm tập trung. Dân chủ là điều kiện, tiền đề của tập trung, tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được thực hiện và phát huy.

V.I.Lênin viết: “chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(2). Vì vậy, nếu tuyệt đối hóa tập trung sẽ dẫn đến quan liêu, chuyên quyền, độc đoán; ngược lại, tuyệt đối hóa dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng, vô tổ chức, vô kỷ luật. Cả hai biểu hiện trên đều không đúng bản chất của nguyên tắc TTDC và làm giảm sức mạnh của Đảng.

Nguyên tắc TTDC thuộc bản chất xuyên suốt của Đảng. Vì vậy, không thể phân biệt nguyên tắc này phù hợp hay không phù hợp trong giai đoạn chiến tranh hay hòa bình. Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, TTDC luôn là nguyên tắc rường cột của Đảng. Nguyên tắc này không ngừng được bổ sung, phát triển phù hợp với sự vận động, phát triển của tình hình cách mạng. Trong điều kiện hòa bình hiện nay cũng không thể lấy sai phạm cá biệt của một số tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là trong thực hiện nguyên tắc TTDC để phủ nhận bản chất của Đảng, giá trị của nguyên tắc TTDC. Ai đó, kẻ nào đó còn cho rằng tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đều bắt nguồn từ việc TTDC không còn phù hợp với thời bình thì người đó, kẻ đó đang cố tình xuyên tạc, bôi đen, suy diễn sai trái nguyên tắc TTDC. (trích TCCAS)

Nhận diện các quan điểm sai trái phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng

 Trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hòng phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ (TTDC) của Đảng, phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất, chặt chẽ về mặt tổ chức và hoạt động của Đảng, làm cho Đảng tan rã cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ hòng thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.

Để thực hiện âm mưu này, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, núp bóng dân chủ, đội lốt nhân quyền rêu rao cho rằng: tập trung và dân chủ là hai mặt không thể thống nhất, đã tập trung thì không thể có dân chủ, đã dân chủ thì không thể tập trung, tập trung với dân chủ như lửa với nước, nên hoặc chỉ có tập trung, hoặc chỉ có dân chủ (!).

Thực chất các luận điệu này là muốn tách rời, đối lập tập trung và dân chủ nhằm phủ nhận một mặt nào đó để Đảng dẫn tới dân chủ vô chính phủ, khi đó sự chặt chẽ, thống nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng bị phá vỡ, Đảng mất sức chiến đấu, uy tín của Đảng bị giảm sút, không còn đủ sức lãnh đạo cách mạng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo.

Trong bối cảnh đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị cho rằng: nguyên tắc TTDC chỉ phù hợp khi Đảng còn hoạt động bí mật hoặc trong điều kiện chiến tranh, nay thời bình, nguyên tắc đó là lỗi thời, không còn phù hợp, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn tới trì trệ, tiêu cực (!). Điều nguy hiểm hơn, họ lợi dụng những khuyết điểm, sai phạm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để đổ lỗi cho những khuyết điểm, hạn chế đó đều do nguyên tắc TTDC không còn phù hợp.

Lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm, nhất là khi Đảng ta đẩy mạnh thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với quan điểm “không có vùng cấm”, “không có trường hợp ngoại lệ” đã xử lý nghiêm nhiều cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng sai phạm, làm trong sạch Đảng, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã xuyên tạc, bóp méo sự thật, quy chụp, đánh đồng hiện tượng thành bản chất. Họ cho rằng, tham nhũng là bản chất của Đảng, là hệ quả của thực hiện nguyên tắc TTDC, là lợi ích nhóm, lợi ích của cán bộ, đảng viên. Họ cho rằng: chống tham nhũng là để thanh trừng phe cánh chứ không phải là để làm cho Đảng sạch hơn, mạnh hơn.

Sự thật hoàn toàn trái ngược: trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ chống tham nhũng được coi là phương thuốc chữa bệnh đặc hiệu, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Với quan điểm “xử một người, cứu muôn người”, “chặt cành để cứu cây”, Đảng sẽ thật sự trong sạch, thật sự xứng đáng với sứ mệnh lịch sử và trọng trách mà nhân dân giao phó. “Cuộc đại phẫu” này tuy đau đớn, nhưng cần thiết và được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Chưa khi nào uy tín của Đảng được nâng cao như ngày nay. Vì vậy, những luận điểm đánh lận bản chất, bôi đen mục tiêu của Đảng cần phải được nhận diện và đấu tranh. (trích TCCS) 

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

 

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

Sinh ra trong một gia đình nhà nho trọng việc học, bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng là một nhà giáo. Người luôn quan tâm tới công tác giáo dục và đào tạo, coi "giáo dục là cốt sách hàng đầu", đồng thời, có những tư duy mới mẻ, đi trước thời đại về giáo dục.

Đánh giá cao vai trò của giáo dục đối với sự hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, ngay những ngày đầu thành lập nước, ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức thư tới các cháu học sinh nhân ngày khai trường, gửi gắm tình cảm, sự tin yêu và hy vọng vào thế hệ tương lai của đất nước “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

Cũng trong suốt những năm tháng lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa”, do đó giáo dục đào tạo là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Người chủ trương xây dựng một chương trình giáo dục toàn diện bao gồm đức, trí, thể, mỹ, đồng thời nhấn mạnh “cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục”, giáo dục trước hết là giáo dục đạo đức, bởi theo Người, “người tài mà không có đức là người bỏ đi”.

Để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò của các thầy giáo, cô giáo, đánh giá cao sứ mệnh của người thầy: “Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh...”. Ðể làm tròn sứ mệnh vẻ vang ấy, người thầy giáo phải có phẩm chất tốt. Bác nhắc nhở: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức… Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”. Bản thân Người đã từng là một nhà giáo. Năm 1910, sau khi thôi học tại trường Quốc học Huế, người thanh niên Nguyễn Tất Thành không cùng cha trở về Huế mà quyết thực hiện ý định "Đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Người đã dạy học ở Trường Dục Thanh – Phan Thiết khoảng 4-5 tháng, sau đó mới vào Sài Gòn để thực hiện cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Tại trường Dục Thanh, thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy học một số môn, nhưng theo các nhà nghiên cứu, việc dạy học của Người ở đây không đơn thuần là dạy chữ mà lồng vào đó tinh thần yêu nước cho các học trò của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh giáo dục phải dạy cho người học cách tự học, học tập suốt đời, “lấy tự học làm cốt”, “Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”. Không chỉ bằng lời nói, chính bản thân Người thông thạo 7 ngoại ngữ (Pháp, Anh, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) và nhiều ngoại ngữ, tiếng dân tộc khác bằng cách tự học. Sau này, khi trên cương vị cao nhất của Nhà nước, dù bận trăm công nghìn việc, tuổi cao, sức khỏe giảm sút, Bác vẫn luôn không ngừng tự học tập, tìm hiểu tri thức, không ngừng truyền đạt, truyền bá tri thức tới cán bộ, nhân dân và những người xung quanh. Người chính là tấm gương sáng về tinh thần tự học và học tập suốt đời.

Trong khi đất nước vẫn còn trong thời kỳ non trẻ, một phần đất nước còn trong vòng nô lệ, người dân “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, nhưng tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang tính đi trước, mở đường, mang tính thời đại. Việc đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau khi đánh “giặc đói” là đánh “giặc dốt”, tức là nâng cao dân trí. Ngày nay, nhân loại đang bước vào một nền văn minh trí tuệ, một nền kinh tế tri thức thông qua việc đẩy mạnh xã hội học tập. Thực tế cũng chỉ ra rằng, xã hội càng phát triển, thì tri thức càng trở nên quan trọng và là thế mạnh của các quốc gia, nhiệm vụ của giáo dục là tạo nên những thế hệ công dân có tri thức, có đạo đức, biết tự học, tự trang bị kiến thức, kỹ năng. Và trong nền kinh tế tri thức, ưu thế không hoàn toàn lệ thuộc vào các nhân tố truyền thống như tài nguyên, đất đai, nhân công,… mà nhân tố có ý nghĩa quyết định là chất xám, là trí tuệ con người. Những nước giàu mạnh đều là những nước có nền giáo dục hiện đại, được đầu tư bài bản và có chiều sâu, là những nước có nền kinh tế tri thức phát triển. Việc cạnh tranh sự giàu mạnh của các nước cũng thể hiện ở nền kinh tế tri thức.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn tạo nên một xã hội văn minh, ở đó con người phải có tri thức, có đạo đức, văn minh, sống và làm việc theo pháp luật. Người đã thấy được bản chất của việc dạy và học là muốn hiệu quả, thực chất, phải tập trung phát triển năng lực sẵn có của người học đó là huấn luyện khả năng tư duy của con người, phát huy năng lực riêng có của mỗi người. Với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “một nền giáo dục đào tạo ra những công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có” của người học. Người phát hiện, khơi gợi và phát huy năng lực đó, không ai khác đó chính là ngành giáo dục. Ngày nay, ngành giáo dục Việt Nam cũng đang phải chuyển đổi các mô hình giáo dục linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của người học, có những mô hình học chuyên biệt để người học lựa chọn cho phù hợp năng lực, sở thích, sở trường của mình; mô hình giáo dục chuyên sâu.