Thứ Hai, 3 tháng 7, 2023

Sau tăng lương cơ sở, bao giờ sẽ cải cách tiền lương?

 

Từ ngày 1-7, mức lương cơ sở đã chính thức tăng từ mức 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng/tháng cho các cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Đây là mức tăng lương cao nhất từ trước đến nay nhằm bảo đảm giữ chân nguồn nhân lực trong khu vực công.

Quyết định này nhận được sự đồng tình, đánh giá cao của nhân dân song nhiều ý kiến cũng cho rằng, Chính phủ cần xem xét và cân đối để sớm thực hiện việc cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII (gọi tắt là Nghị quyết số 27) để góp phần giúp bộ máy nhà nước hoạt động có động lực và giảm bớt các hệ lụy rời bỏ khu vực công vì lý do tiền lương.

Tinh thần cải cách tiền lương cũng là nội dung thường xuyên được Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ kiên quyết nhắc đến tại các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Quốc hội và trong các cuộc tiếp xúc cử tri.

"Dứt khoát phải cải cách tiền lương, không thể chậm được vì lương là để kích thích kinh tế, đầu tư. Tất cả cơ chế đặc thù phải được bãi bỏ, không thể có công chức loại 1, loại 2, loại 3 nữa. Có thể dịch bệnh ảnh hưởng nhưng quyết tâm vẫn làm được, vì vẫn còn nguồn dư cho cải cách tiền lương", Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh quan điểm này. 

Tháng 10 sẽ trình Quốc hội phương án cải cách tiền lương?

Tại phiên thảo luận về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022; dự kiến kế hoạch phát triển trong kinh tế-xã hội năm 2023 tại Kỳ họp thứ năm của Quốc hội mới đây, câu chuyện tăng lương, cải cách tiền lương là một trong những trăn trở của nhiều đại biểu Quốc hội. 

Các đại biểu Quốc hội cho rằng, nếu thời điểm tăng lương cơ sở từ mức 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng từ ngày 1-7-2023 thì tính từ tháng 7-2019 đến nay đã là 4 năm mới được tăng lương. Như vậy, người hưởng lương từ ngân sách nhà nước gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là ngành giáo dục, ngành y tế, cán bộ, công chức, kể cả cấp xã.

Tuy nhiên, đánh giá cao việc Chính phủ thực hiện việc nâng lương cơ sở cho đội ngũ cán bộ, công chức, song các đại biểu cũng đề nghị cần xem xét và cân đối để sớm thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27 của Trung ương để góp phần giúp bộ máy nhà nước hoạt động có động lực và giảm bớt các hệ lụy rời bỏ khu vực công vì lý do tiền lương.

Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai: Một chính sách tiền lương đúng đắn, có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển.

Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai: Một chính sách tiền lương đúng đắn, có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển.

Phát biểu tại phiên thảo luận, đề cập đến chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (đoàn TP Hà Nội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội) cho biết, tháng 10 tới đây, nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép thì Chính phủ sẽ trình Quốc hội phương án cải cách tổng thể tiền lương theo Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị.

"Chúng ta đều biết chính sách tiền lương là vô cùng quan trọng. Một chính sách tiền lương đúng đắn, có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, một chính sách tiền lương bất hợp lý sẽ là rào cản đối với bước tiến xã hội", đại biểu nhấn mạnh. 

Đặc biệt, theo đại biểu, cần thực sự coi trả lương là một hình thức đầu tư cho con người, đầu tư cho tương lai và chỉ khi chúng ta có mức đầu tư tương xứng thì mới mang lại hiệu quả thiết thực.

"Đất nước chúng ta không thiếu người tài, những người tâm huyết, muốn cống hiến ngay trên đất nước mình nhưng thực sự cần một chính sách tiền lương đủ mạnh, tạo động lực, niềm tin cho người lao động", đại biểu bày tỏ. 

Nguồn nào để tăng lương?

Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai nhấn mạnh, xét về căn cứ chính trị thì Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị đã đề ra lộ trình cải cách rất cụ thể. Tuy nhiên, đến nay chúng ta đã 3 năm liên tiếp lỡ hẹn; Chính phủ đã đề nghị lùi thời điểm thực hiện cải cách tiền lương để tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển, cho chương trình phục hồi kinh tế.

“Đó là chủ trương đúng đắn, nhưng sau gần 2 năm thực hiện, hơn 14.000 tỷ đồng vốn Chương trình phục hồi kinh tế chưa thể phân bổ, hơn 429.000 tỷ đồng vốn đầu tư công trung hạn chưa được giao. Tức là khi "thắt lưng buộc bụng" cho đầu tư phát triển thì một phần nguồn lực chưa phát huy hiệu quả - đây là điều đáng tiếc”, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai phân tích.

Tới đây, nếu cải cách tiền lương, mức tăng là bao nhiêu, theo đại biểu, còn chờ Quốc hội quyết định, nhưng rất cần thay đổi căn bản thực chất, chứ không chỉ về hình thức.

"Nhiều diễn đàn đề xuất tăng 21%, tức người đang có lương 10 triệu đồng thì tăng thêm 2,1 triệu đồng. Trong khi đó Nghị quyết 27 nêu, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu và chính sách tiền lương phải bảo đảm hội nhập quốc tế", đại biểu nói.

Đại biểu lưu ý, trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh thu hút nhân lực chất lượng cao diễn ra gay gắt, đặc biệt, các quốc gia đang đối mặt già hóa dân số, thu hút nhập cư là chìa khóa tăng trưởng kinh tế, nếu không có chính sách hợp lý thì nước ta hoàn toàn thua ngay trên sân nhà trong thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.

Từ những quan điểm trên, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai kiến nghị, cần thực hiện nghiêm quy định của Nghị quyết 27, theo đó, hằng năm dành 50% tăng thu dự toán, 70% tăng thu ngân sách địa phương và 40% tăng thu ngân sách Trung ương để dành cho tăng lương.

"Cần phân bổ đúng trật tự ưu tiên khi dùng nguồn tăng thu. Tức là, ưu tiên cho chính sách tiền lương trước khi xem xét các dự án đầu tư. Năm 2022 tăng thu lớn, ngân sách Trung ương là 195.000 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 208.000 tỷ đồng, số chuyển nguồn cải cách tiền lương 269.000 tỷ đồng, trong số này cần dành nguồn lực tương xứng cho cải cách tiền lương", đại biểu đề nghị.

TS Phạm Trọng Nghĩa (đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Xã hội của Quốc hội) cũng nhấn mạnh quan điểm, kinh tế - xã hội chúng ta có phát triển đến đâu thì cuối cùng cũng là nhằm phục vụ con người, do đó, chúng ta phải xác định được nguồn lực để tăng lương cho cán bộ, công chức chính là nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Gợi mở một số cách tạo nguồn lực, TS Phạm Trọng Nghĩa cho rằng, chúng ta đã sử dụng nhiều vốn ODA để đầu tư, phát triển hạ tầng và bây giờ cần tính đến phương án dùng nguồn vốn này để đầu tư cho nguồn nhân lực bằng việc tăng lương cho công chức, viên chức.

Bộ Nội vụ đang xây dựng bảng lương mới theo lộ trình cải cách tiền lương

Trước ý kiến của các đại biểu Quốc hội quan tâm về vấn đề tiền lương tại phiên thảo luận ngày 1-6-2023, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà thông tin, Bộ Nội vụ cũng tham mưu cho cấp có thẩm quyền lộ trình cải cách chính sách tiền lương, bảo đảm thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức; xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong thực thi công vụ.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà: Bộ Nội vụ cũng tham mưu cho cấp có thẩm quyền lộ trình cải cách chính sách tiền lương, bảo đảm thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. 
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà: Bộ Nội vụ cũng tham mưu cho cấp có thẩm quyền lộ trình cải cách chính sách tiền lương, bảo đảm thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. 

Thông tin thêm về việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, Nghị quyết số 27 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã nêu rõ giải pháp về “xây dựng và hoàn thiện hệ thống vị trí việc làm”, “tinh giản biên chế theo các nghị quyết của Đảng và quy định của Nhà nước”. 

Đây là giải pháp căn bản mang tính tiền đề để thực hiện cải cách chính sách tiền lương và giải pháp gắn với “thực hiện các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII” là rất quan trọng để cải cách chính sách tiền lương đồng bộ. 

Đồng thời, Bộ Nội vụ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các nội dung cụ thể của chính sách tiền lương mới, bảo đảm phù hợp với quan điểm, mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và giải pháp cải cách chính sách tiền lương theo yêu cầu tại Nghị quyết số 27, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trong đó, kinh phí tiết kiệm do tinh giản biên chế nêu trên là nguồn ngân sách Nhà nước quan trọng để thực hiện tăng lương trong năm 2023 và các năm sau.

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh, lộ trình cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW là vấn đề rất được quan tâm bởi liên quan mật thiết đến đời sống của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Thời gian qua, trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng thì nội dung cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27 và hoàn thiện thể chế chính sách được xác định là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, chủ yếu (cùng với giải pháp về đẩy mạnh cải cách công vụ, công chức) nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện tử, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia.

Để triển khai nhiệm vụ này, Bộ Nội vụ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chế độ tiền lương mới để thay thế chế độ tiền lương hiện hành. Bộ Nội vụ đang xây dựng 1 dự thảo nghị định và 11 dự thảo thông tư.

Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố bất lợi, đặc biệt là ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên Hội nghị Trung ương 13 khóa XII và Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã chỉ đạo lùi thời điểm thực hiện cải cách chính sách tiền lương mới theo Nghị quyết số 27 vào thời điểm phù hợp.

Trong thời gian tới, Bộ Nội vụ sẽ tham mưu Chính phủ báo cáo các cấp có thẩm quyền, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội về lộ trình cải cách chính sách tiền lương. 

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà bày tỏ hy vọng trong năm tới tình hình kinh tế trong nước khởi sắc, chúng ta sẽ bắt đầu thực hiện lộ trình cải cách tiền lương với mục tiêu “bảo đảm đời sống của người hưởng lương và gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”.

Ảnh minh họa: thoibaotaichinhvietnam.vn 
Ảnh minh họa: thoibaotaichinhvietnam.vn 

 

Phó thủ tướng Lê Minh Khái: Chính phủ sẽ sớm thực hiện lộ trình cải cách tiền lương

Khi thông tin kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XV, Phó thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái thông tin: Thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; thực hiện lộ trình cải cách tiền lương. Theo đó, sớm trình cấp có thẩm quyền về lộ trình cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7, khóa XII.

 

 Chế độ tiền lương mới sau cải cách sẽ thay đổi như thế nào?

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, Bộ Nội vụ đã hoàn thiện báo cáo “kết quả thực hiện và lộ trình triển khai cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp” để trình cấp có thẩm quyền.

Trong đó, Bộ Nội vụ đề xuất xây dựng phương án triển khai đồng bộ các nội dung của chế độ tiền lương mới theo Nghị quyết số 27. Đó là:

- Tăng mức lương thấp nhất của khu vực công bằng mức lương thấp nhất bình quân vùng của khu vực doanh nghiệp;

- Mở rộng quan hệ tiền lương;

- Sắp xếp lại các chế độ phụ cấp và cơ cấu lại tỷ lệ giữa lương cơ bản và phụ cấp;

- Bổ sung quỹ tiền thưởng; đồng thời, đề xuất phương án điều chỉnh các năm tiếp theo (tiếp tục điều chỉnh mức lương thấp nhất để bù trượt giá và có phần cải thiện theo mức tăng trưởng GDP cho đến khi đạt mức lương thấp nhất cao hơn mức lương thấp nhất của vùng I (vùng cao nhất) của khu vực doanh nghiệp như mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết số 27); dự toán nguồn kinh phí, kế hoạch nhiệm vụ đối với các Bộ, cơ quan liên quan.

Dâng hương, thả hoa tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh bảo vệ đảo Gạc Ma

 


           Kỷ niệm 35 năm ngày 64 chiến sĩ Hải quân Việt Nam tại đảo Gạc Ma, thuộc Trường Sa của Việt Nam hy sinh để bảo vệ Tổ quốc (14/3/1988 – 14/3/2023), ngày 12/3, tại Đình làng Nại Nam, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu (Đà Nẵng), Ban Liên lạc truyền thống bộ đội Trường Sa tại Đà Nẵng đã tổ chức Lễ dâng hương, thả vòng hoa tưởng niệm, tri ân các liệt sĩ.

         Tại lễ tưởng niệm, ông Nguyễn Văn Tấn, Trưởng Ban Liên lạc truyền thống bộ đội Trường Sa (giai đoạn 1984 – 1988) cho biết, buổi lễ nhằm tưởng niệm và tri ân 64 liệt sĩ đã hy sinh tại đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa (Việt Nam) trong ngày 14/3/1988 vì sự nghiệp bảo vệ vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc, trong đó có 9 liệt sĩ ở Đà Nẵng và 1 liệt sĩ ở Quảng Nam. Theo ông Nguyễn Văn Tấn, sự kiện lịch sử Gạc Ma đã minh chứng rõ nét phẩm chất của những chiến sĩ cách mạng kiên trung, những người con ưu tú của đất nước, trong đó có 10 chàng trai trẻ Quảng Nam – Đà Nẵng năm xưa, đã sẵn sàng xả thân, không lùi bước; các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm để bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Trong buổi lễ, đại diện thân nhân các gia đình liệt sĩ hy sinh tại Gạc Ma và các cựu chiến binh, cựu quân nhân từng công tác, chiến đấu tại Trường Sa đã dành một phút mặc niệm và dâng hương tưởng nhớ các liệt sĩ đã hy sinh tại Gạc Ma; sau đó tổ chức thả vòng hoa trên sông Hàn tri ân các liệt sĩ. Bà Lê Thị Lan (80 tuổi, mẹ liệt sĩ Nguyễn Hữu Lộc) xúc động chia sẻ, mẹ rất tự hào khi con mẹ đã anh dũng chiến đấu hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Sự quan tâm của đồng đội, chính quyền địa phương hàng năm đã giúp mẹ vơi đi những mất mát. Ông Dương Đình Liễu, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng cho biết, Lễ tưởng niệm nhằm tri ân, tưởng nhớ các Anh hùng Liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đây cũng là hoạt động nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ trẻ luôn luôn có một tinh thần sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên để phát triển, giữ vững chủ quyền biển đảo đất nước. Tại chương trình Lễ dâng hương kỷ niệm 35 năm sự kiện Gạc Ma, đại diện lãnh đạo Trường Đại học Đông Á đã trao tặng 10 suất quà (trị giá 1 triệu đồng/suất) đến 10 gia đình thân nhân liệt sĩ trên địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng hy sinh tại Gạc Ma.

 

Kế thừa là tiếp nhận giá trị những di sản đã có

 


Khi nói đến kế thừa nghĩa là cần phải đề cập đến di sản văn hóa, bởi vì kế thừa là tiếp nhận giá trị những di sản đã có. Những gì do nhân loại sáng tạo hôm nay thì mai sau sẽ là di sản. Văn hóa trong bất cứ thời nào đều đồng thời bao gồm việc sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra di sản văn hóa đương đại. Di sản văn hóa là những giá trị văn hóa mà loài người đạt được trong quá khứ, sẽ được con người đương đại hấp thụ một cách có phê phán, được phát triển và được ứng dụng cho phù hợp với các nhiệm vụ lịch sử cụ thể của thời đại mới, phù hợp với những tiêu chuẩn khách quan của tiến bộ xã hội. Sự kế thừa trong văn hóa luôn mang theo quan điểm giai cấp. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, văn hóa là lĩnh vực rộng lớn hơn ý thức hệ (trong một nền văn hóa có thể có nhiều ý thức hệ cùng tồn tại).

Di sản văn hóa

 


Di sản văn hóa là các sản phẩm văn hóa của thời đại trước, giai đoạn trước sáng tạo ra để lại cho thời đại sau, thế hệ sau; được thế hệ sau biết tới, khai thác và sử dụng. Cơ cấu của di sản văn hóa bao gồm: di sản văn hóa vật thể (hữu thể, hữu hình) và di sản văn hóa phi vật thể (vô thể, vô hình). Tính chất của di sản văn hóa bao gồm: di sản tích cực và tiêu cực (tiến bộ và lạc hậu). Tính tích cực và tiêu cực tùy thuộc vào chủ thể, thời gian, không gian, tiêu chí đánh giá. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh nhiệm vụ kế thừa di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”[1].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1998, tr.63.

Phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Tội ác của những kẻ chống phá và cái giá của sai lầm

 

Trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức phấn đấu, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, quyết tâm hoàn thành các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định, thì các thế lực thù địch lại ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Họ vào hùa với nhau, tiếp tục “đổ dầu vào lửa” với tham vọng cản trở công cuộc đổi mới, ngăn cản việc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của Nhân dân ta. Tiêu điểm chống phá của các thế lực thù địch là phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, tập trung vào sự phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Âm mưu và thủ đoạn này không mới nhưng sự nguy hiểm của nó thì rất lớn: Triệt phá từ “gốc” những nội dung “cốt lõi” trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta với thái độ hết sức thâm thù, xảo trá nhằm hạ thấp uy tín, vị thế của Đảng, tước bỏ niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ta; gây rối loạn đời sống tinh thần xã hội Việt Nam; khiến chúng ta không thể an tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Từ đây, các thế lực thù địch mở rộng quy mô, hình thức chống phá sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại; làm mất uy tin, vị thế của Đảng, Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế. Sự thâm thù và tội ác này cần nhận diện đúng và có biện pháp khắc chế hiệu quả, không thể xem thường.

Âm mưu cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta nhằm tạo ra “khoảng trống chính trị” trong nhận thức, tư tưởng, lý luận để đưa ý thức hệ tư sản xâm nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống tinh thần của Nhân dân ta, lái nước ta đi theo quỹ đạo TBCN. Vì vậy, trong tình hình mới, dù phải đối mặt với bộn bề công việc nhưng chúng ta phải để tâm, nhận diện đúng nguồn gốc, bản chất, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bởi nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, lợi ích quốc gia – dân tộc, cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của Nhân dân. Chúng ta không hề ngạc nhiên khi các thế lực thù địch tái lập “điệp khúc cũ”, tấn công trực diện vào các nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, xoáy vào nguồn gốc ra đời, những cống hiến, giá trị khoa học, cách mạng của học thuyết này. Vì sao như vậy? Phải chăng các thế lực thù địch nhàn rỗi, gây chuyện mua vui? Ở đây ẩn chứa một âm mưu vô cùng thâm độc: Muốn phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta, phải bắt đầu từ sự xuyên tạc nền “gốc”, đó là sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là những vấn đề căn cốt, đặc biệt quan trọng nhưng ở Việt Nam còn nhiều người hiểu biết chưa tường tận, chuyên sâu về vấn đề này nên rất dễ lừa gạt. Vì lẽ đó, các thế lực thù địch ra rả tuyên truyền về sự lỗi thời, lạc hậu của chủ nghĩa Mác – Lênin với nhiều luận cứ, thoạt nghe có vẻ thuyết phục, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin xuất hiện đã cách chúng ta gần 2 thế kỷ nên đã cũ kỹ, lỗi thời, không còn phù hợp với thế kỷ XXI –  thời đại cách mạng công nghệ 4.0. Lý lẽ của họ là chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời ở châu Âu, dựa vào những tiền đề kinh tế, chính trị – xã hội; khoa học – công nghệ, lý luận và tư tưởng – văn hóa của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX của châu Âu nên đã là quá khứ. Với luận điểm này, họ lấy xuất phát điểm với tư cách là sự giáo đầu về mặt lý luận để thực hiện mưu đổ chính trị nhằm chuyển hóa Việt Nam con đường TBCN nhằm thu hút đông đảo sự ủng hộ của người dân. Nhìn vào chiều sâu của thủ đoạn này là hết sức nguy hiểm, không thể xem thường. Nó đã đi từ vấn đề “nền gốc” để lung lạc ý chí của người dân khi mà thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và trên thế giới còn gặp nhiều khó khăn, trong khí đó CNTB đang “thay đổi” để thích nghi, phát triển và đạt được một số thành quả nhất định có sức hấp dẫn lớn, không thể phủ nhận.

 Vì lẽ đó, các thế lực thù địch cố tình chỉ ra sự bất cập của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam bằng cách nêu ra sự khác biệt căn bản của Việt Nam với châu Âu, luôn rùm beng la ó rằng, “chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết ngoại lai”, “ngoại đạo” do C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin sáng lập dựa trên nền tảng kinh tế – xã hội châu Âu, mà châu Âu khác Việt Nam, nên nó không cần cho Việt Nam. Từ đó, họ nêu ra lý lẽ, rằng C. Mác, Ph. Ăngghen là những người Đức, còn V.I. Lênin là người Nga; cả hai nơi ấyL nước Đức và nước Nga – chủ nghĩa Mác – Lênin và của CNXH khoa học không còn tồn tại, nó đã được đưa vào “bảo tàng lịch sử”, “chỉ còn lại là cái tên gọi, cái bóng của quá khứ”. Khuếch đại tính đặc thù của Việt Nam, các thế lực thù địch đã quy kết, vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng bảo thủ, trì trệ”, rằng lý luận mà C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin “nặn ra hoàn toàn không phù hợp với điều kiện của Việt Nam, cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam cần chấm dứt sự “hoài cổ”, dừng lại việc “khư khư bám giữ chủ nghĩa Mác – Lênin”, bởi lấy nó làm nền tảng tư tưởng là một sai lầm. Không thể thực hiện được mục đích, họ điên cuồng phản kháng, quy kết, buộc tội Đảng ta đã “kìm hãm sự phát triển của Việt Nam”, “kéo lùi lịch sử dân tộc” Trên cơ sở đó, đẩy mạnh đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch cho rằng, Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên CNXH của Người cho cách mạng Việt Nam là sai lầm, ảo tưởng; Việt Nam cần có lý luận khác mà thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để dọn đường đón rước hệ tư tưởng tư sản vào Việt Nam, lái nước ta đi theo quỹ đạo của CNTB. Mặt khác, chỉ ra sự phát triển biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trong điều kiện lịch sử mới, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chiếm vị trí thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam. Đó là lời kêu gọi từ trái tim, mệnh lệnh của cuộc sống; niềm vui, hạnh phúc của chúng ta đối với sứ mệnh bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới./.

 

Quy luật kế thừa của văn hóa trong quá trình phát triển

 


Theo quan điểm duy vật biện chứng, kế thừa là một trong những mặt bản chất nhất của quy luật phủ định của phủ định biểu hiện ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy như là mối liên hệ tất yếu khách quan giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển. Chiết tự chữ “kế thừa” trong ý nghĩa của từ Hán - Việt là tiếp tục và nâng cao lên (kế là tiếp tục, tiếp nhận, tiếp thu; thừa là nhân lên, mở rộng ra, nâng cao lên).

Tính khách quan của quy luật kế thừa của văn hóa được quy định bởi tính khách quan của chính sự tồn tại và phát triển của đời sống xã hội. Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử các cộng đồng người nói riêng về cơ bản là một quá trình diễn ra liên tục. Các giai đoạn sau, thế hệ sau bao giờ cũng phải tiếp nhận và tiếp tục phát triển trên cơ sở những thành tựu mà giai đoạn trước đã đạt được. Học thuyết Mác-Lênin đã khẳng định: “Lịch sử chẳng qua chỉ là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”[1].

Sự tồn tại và phát triển của văn hóa bị chi phối bởi quy luật kế thừa trên đây của đời sống xã hội. Như vậy, sự tồn tại và phát triển văn hóa của nhân loại nói chung và của mỗi cộng đồng nói riêng phải tuân theo quy luật chung, giai đoạn sau phải tiếp tục phát huy, phát triển trên những thành tựu, kết quả mà giai đoạn trước đã tạo ra. Trong đó diễn ra hai quá trình: Giai đoạn sau, thế hệ sau muốn phát triển thì phải tiếp nhận những thành tựu văn hóa mà giai đoạn trước, thế hệ trước để lại; Các thế hệ trước muốn truyền lại cho thế hệ sau thì phải sử dụng (và chỉ có thể sử dụng) những gì mà cha ông của họ và chính bản thân họ đã sáng tạo ra.

V.I.Lênin cho rằng: Việc dạy dỗ, giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ phải xuất phát từ những vật liệu mà xã hội cũ để lại cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể xây dựng xã hội mới bằng tổng số kiến thức, các tổ chức và thiết chế, bằng cái dự trữ nhân lực và vật lực mà xã hội cũ để lại cho chúng ta. Nói đến quy luật kế thừa của văn hóa là nói đến vai trò của di sản văn hóa (kế thừa cái gì?). Kế thừa chỉ có thể là kế thừa di sản của quá khứ.



[1] C.Mác Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995, t.3, tr.65.

Tái diễn luận điệu xuyên tạc nền báo chí cách mạng Việt Nam

 


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ về tính cách mạng của báo chí Việt Nam: “Báo chí ta không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ”. 98 năm qua, nền báo chí cách mạng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, có những đóng góp lớn vào sự phát triển của đất nước.

 Lợi dụng dịp kỷ niệm 98 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã tung ra nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc đời sống báo chí tại Việt Nam. Vẫn những luận điệu cũ được rêu rao từ năm này qua năm khác, chúng “nhắm mắt nói liều” rằng “tự do báo chí tại Việt Nam bị chính quyền cấm cản”, “báo chí Việt Nam bị kiểm soát chặt”, “Việt Nam không có tự do báo chí”… Từ những thông tin sai lệch này, các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” đòi chính quyền phải thay đổi quy định về quản lý báo chí, “trả tự do cho báo chí” (?!).Lâu nay, các tổ chức như Phóng viên không biên giới (RSF); các đài BBC, RFA, RFI, VOA tiếng Việt và một số tổ chức, cá nhân phản động luôn tìm cách xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam. Mới đây, RSF đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2023”. Trong bảng xếp hạng, RSF xếp ba nước đứng cuối bảng đều ở châu Á, trong đó xếp Việt Nam hạng 178. Về bảng đánh giá tự do báo chí World Press Freedom Index hằng năm được RSF đưa ra, không khó để thấy căn cứ đánh giá, xếp hạng của RSF không thuyết phục. Riêng đối với Việt Nam, RSF không có một nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể nào về tình hình báo chí. Đồng thời, tổ chức này cũng không sử dụng bất kì báo cáo nào của Chính phủ Việt Nam để đưa ra đánh giá. Trái lại việc RSF xếp loại tự do báo chí ở Việt Nam lại thường dựa vào những thông tin do số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị, có các hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam cung cấp, do đó thông tin không khách quan, sai thực tế về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Năm nay, RSF vẫn xếp Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia đứng gần cuối trong “Bảng xếp hạng chỉ số tự do báo chí thường niên năm 2023”, tạo cớ để các tổ chức, cá nhân phản động triệt để sử dụng nhằm quy kết, chống phá Việt Nam. Tại Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 3/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 nêu rõ quan điểm: “Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Những năm qua, cùng với sự bùng nổ của công nghệ truyền thông, nền báo chí nước ta cũng có sự phát triển nhanh chóng, góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Tự do báo chí, tự do ngôn luận là quyền cơ bản của mỗi công dân. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 của nước ta ghi nhận rõ: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Đồng thời, Luật Báo chí cũng nghiêm cấm các hành vi cản trở việc in, phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí hợp pháp tới công chúng; đe dọa, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên; phá hủy, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo, phóng viên hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật. Với hành lang pháp lý như trên, hoạt động báo chí ở nước ta đã có sự phát triển toàn diện. Xét trên phương diện số lượng, đến cuối năm 2022, nước ta có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (bao gồm 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học và 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Trong đó, có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực là Báo Nhân dân, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân và Báo Công an nhân dân. Số lượng nhân sự đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí là gần 41.000 người, với 19.356 nhà báo đã được cấp thẻ. Nhiều vấn đề bất cập, gây bức xúc trong dư luận đã được báo chí phản ánh và các cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời tiếp thu, giải quyết. Đặc biệt, trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, báo chí đã có những đóng góp vô cùng quan trọng, vừa góp phần phát hiện các vụ việc vi phạm, vừa đóng góp những ý kiến, giải pháp để hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng. Cùng các cơ quan báo chí trong nước, trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhiều cơ quan báo chí nước ngoài đã đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú tại Việt Nam. Ngoài ra, hiện có khoảng 57 kênh truyền hình nước ngoài được cung cấp trên dịch vụ truyền hình của Việt Nam. Rõ ràng, đời sống báo chí ở Việt Nam đang diễn ra hết sức sôi nổi. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng vào bảo đảm. Đồng thời, việc thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải tuân thủ nghiêm theo đúng quy định của pháp luật. Mọi trường hợp lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để tiến hành các hoạt động chống phá chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc lịch sử, xúc phạm dân tộc, đe doạ đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; lợi dụng tự do báo chí để xúc phạm quyền, lợi ích  hợp pháp của cá nhân, tổ chức là vi phạm pháp luật và tùy mức độ, tính chất vi phạm mà bị xử lý chế tài tương ứng. Mọi hoạt động lợi dụng vỏ bọc báo chí để “bán nước cầu vinh”, chống phá nền hoà bình, ổn định của dân tộc đều phải bị lên án và xử lý nghiêm khắc. Những thông tin sai trái về tình hình báo chí của Việt Nam được các đối tượng xấu đưa ra đang đi ngược lại thực tế, nằm trong mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam.

 

Hơn 15.000 lượt người tham gia dự thi Cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu kiến thức pháp luật năm 2023” trên Báo Quân đội nhân dân.

 

Cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu kiến thức pháp luật năm 2023” trên Báo Quân đội nhân dân do Báo Quân đội nhân dân (QĐND) phối hợp với Vụ Pháp chế, Bộ Quốc phòng tổ chức sau bốn tuần phát động đã có hơn 15.000 lượt người tham gia dự thi.

Cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu kiến thức pháp luật năm 2023” trên Báo Quân đội nhân dân do Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng phối hợp Báo Quân đội nhân dân tổ chức là một trong những hoạt động có ý nghĩa sâu sắc, thiết thực trong thực hiện Đề án 1371 của Thủ tướng Chính phủ về “Phát huy vai trò của lực lượng Quân đội nhân dân tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật tại cơ sở giai đoạn 2021-2027”.

Qua đó nhằm tuyên truyền để cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ và nhân dân nhận thức đúng đắn, sâu sắc, góp phần triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước; nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức trong phổ biến, giáo dục pháp luật.

Sau bốn tuần phát động, Ban tổ chức đã nhận được hơn 15.000 bài dự thi của cán bộ, chiến sĩ, học viên, sinh viên các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong và ngoài Quân đội: Học viện Quốc phòng, Học viện Lục quân, Quân khu 1, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 2, Quân chủng Phòng không-Không quân... và nhiều người dân của các địa phương trên cả nước. Nhiêu đơn vị đã hưởng ứng và tổ chức phát động cuộc thi, điển hình như Tiểu đoàn 3, Trường Sĩ quan Chính trị đã phối hợp với xã Yên Trung, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội tổ chức phát động hưởng ứng Cuộc thi “Tìm hiểu kiến thức pháp luật năm 2023”, qua đó thu hút thêm nhiều lực lượng tham gia cuộc thi, góp phần vào việc duy trì trật tự, kỷ cương, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

 Các đại biểu theo dõi các lực lượng tham gia cuộc thi "Tìm hiểu kiến thức pháp luật năm 2023"
 Các đại biểu theo dõi các lực lượng tham gia cuộc thi "Tìm hiểu kiến thức pháp luật năm 2023"

Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn nhiều bài dự thi chưa hoàn thành phần thi tự luận, nhiều bài thi tự luận vẫn còn sơ sài, chưa có sự đầu tư nghiêm túc; đề nghị chỉ huy các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong và ngoài Quân đội tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện, khích lệ, động viên cán bộ, chiến sĩ, nhân viên, người lao động, học sinh, sinh viên… tích cực hưởng ứng, tham gia cuộc thi.

Để tham gia cuộc thi, đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân, học sinh, sinh viên và công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài có thể:

- Bước 1: Truy cập trực tiếp Cuộc thi tại địa chỉ http://qdnd.vn.

- Bước 2: Đọc kỹ “Thể lệ” trước khi tham gia.

- Bước 3: Điền đầy đủ các thông tin để đăng ký dự thi, gồm: Họ và tên; số điện thoại; số căn cước công dân; mật khẩu; nhập lại mật khẩu.

- Bước 4: Trả lời 10 câu hỏi trắc nghiệm và 1 bài viết phân tích, cảm nhận về một vấn đề pháp luật trong cuộc sống không quá 500 từ (bài viết không bắt buộc nhưng được cộng điểm ưu tiên). (Lưu ý: Mỗi cá nhân được thi tối đa 2 lượt/kỳ để cải thiện kết quả thi).

Nội dung thi bao gồm: Tìm hiểu hệ thống luật pháp; các bộ luật; các văn bản hướng dẫn thi hành luật, quy định của pháp luật Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sự phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở chính trị

 


Cùng với kinh tế là chính trị, văn hóa không thể nằm ngoài chính trị, dù văn hóa và chính trị đều thuộc thượng tầng kiến trúc. Chính trị quy định phương hướng phát triển của văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn hóa và bằng hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa. Vì vậy, một thể chế chính trị cũ kỹ, lạc hậu không thể tạo nên nền văn hóa tiến bộ. Tuy nhiên, trong các chế độ chính trị lỗi thời, lạc hậu vẫn có thể xuất hiện các tác phẩm văn hóa nghệ thuật tiến bộ. Bởi văn hóa vẫn có sự phát triển trong quy luật nội tại đặc biệt của riêng nó. Trong lịch sử Việt Nam, các kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã ra đời trong lòng chế độ phong kiến suy thoái triều Nguyễn.

Văn hóa, theo nghĩa đích thực của nó, bao giờ cũng vươn tới chân, thiện và mỹ. Chính trong quá trình đó, văn hóa hướng tới nhân dân, hướng tới các tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại. Đây chính là quy luật kế thừa của văn hóa.

VOA lại nói càn

 


Nhiều năm qua, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ – VOA giống như một cái loa rách chuyên nói càn. Xét về ngữ nghĩa và căn cứ theo từ điển tiếng Việt, hành động nói càn tức là nói bừa, nói ẩu, nói bậy mà không kể đến phải hay trái, nên hay không nên. Và để khuyên những người nói năng thiếu suy nghĩ, ông bà xưa đã dạy: Ăn có thể bậy, nhưng nói thì không được bậy, kẻo gây họa cho chính mình. Thế nhưng, với bản chất phản động, hận thù của những kẻ gian manh, dối trá, VOA đã giẫm đạp lên sự thật bằng việc dùng lời nói để lấp liếm, che đậy sự thiếu trung thực của mình.

Bằng chứng là mới đây, trên trang facebook của đài này đã phát tán bài viết với tựa đề: Nhà hoạt động môi trường Đặng Đình Bách tuyệt thực phản đối bản án – 80 tổ chức quốc tế kêu gọi trả tự do cho ông. Nội dung bài viết nêu trên có đoạn: Hơn 80 tổ chức quốc tế tranh đấu vì nhân quyền và công bằng khí hậu từ khắp nơi trên thế giới vừa ký một thỉnh nguyện thư kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho luật sư môi trường Đặng Đình Bách, người được cho là sẽ tuyệt thực từ ngày 24-6-2023. Bức thư cho biết, ông Đặng Đình Bách đang thụ án 5 năm tù tại Việt Nam về tội trốn thuế ngụy tạo sau khi vận động cho phong trào chống điện than của đất nước mình. Đồng thời, nhóm này cũng vận động chiến dịch tuyệt thực kéo dài 1 tháng để tiếp sức với ông. Khôi hài và lố bịch hơn, VOA còn “tát nước theo mưa”, vào hùa với trò hề mang tên “thỉnh nguyện thư” của những kẻ chuyên sống bằng nghề “thương vay, khóc mướn”. Và để đạt được mục đích đen tối của mình, VOA đã bất chấp mọi thủ đoạn từ thâm độc đến bỉ ổi nhất. Cụ thể là trong bài viết nêu trên, VOA đã đưa ra khẳng định hết sức nhố nhăng: Chính phủ Việt Nam tự cam kết đạt mức thải ròng bằng không vào năm 2050 và chấp nhận tiêu tốn 15,5 tỷ đôla Mỹ để chuyển đổi sang năng lượng sạch. Nhưng điều này sẽ không thực hiện được nếu những người lãnh đạo về khí hậu như ông Bách bị cho vào tù… Ông Bách là 1 trong 4 thành viên của Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam đã bị bỏ tù, điều này cho thấy một khuynh hướng đang diễn ra và rất đáng quan ngại. Chưa hết, VOA còn lớn tiếng kêu gọi “các luật sư nhân quyền và những người bảo vệ môi trường trên toàn thế giới là đứng lên bảo vệ đồng nghiệp của chúng ta ở Việt Nam. Việc bày tỏ sự đoàn kết này cực kỳ quan trọng đối với tương lai của khu vực và hành tinh… Một quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng sẽ không thể thành công với những người như Bách đang ngồi tù. Vì thế, các tổ chức quốc tế hãy đồng thanh đứng lên bày tỏ sự đoàn kết với ông Bách thông qua phản đối ôn hòa và kêu gọi trả tự do cho ông, cũng như chấm dứt hành động trả đũa của chính phủ khi các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam và trên thế giới đang thúc đẩy nhân quyền và công bằng môi trường”. Cũng với kiểu tư duy không có não, VOA còn kêu gào tất cả chính phủ, cùng các tổ chức đa phương và các tổ chức khác đầu tư vào quá trình chuyển đổi năng lượng ở Việt Nam rằng, hãy kiên quyết yêu cầu trả tự do cho ông Bách. Mặc dù chỉ là cơ quan làm dịch vụ truyền thông đối ngoại của Chính phủ Hoa Kỳ, vậy VOA lấy tư cách gì mà can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền là Việt Nam? Và từ lâu nay dư luận cũng như cộng đồng mạng xã hội ở Việt Nam luôn đặt ra câu hỏi rằng: Đặng Đình Bách là người Việt Nam đã vi phạm pháp luật và bị xử lý đúng người, đúng tội nhưng lại được VOA quan tâm, ưu ái một cách quá lố đến vậy?  Câu trả lời thật quá đơn giản, đã là “ngưu thì ắt phải tầm ngưu”, là “mã thì ắt sẽ phải tầm mã”. Và thâm độc hơn, tinh vi và xảo quyệt hơn là VOA đã đồng lõa với các tổ chức phản động, khủng bố rồi núp dưới chiêu bài đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền để chống phá Nhà nước Việt Nam. Trong khi đó, ngày 11-8-2022, Đặng Đình Bách, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu pháp luật và chính sách phát triển bền vững (LPSD), đã bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tuyên án 5 năm tù giam về tội trốn thuế. Theo cáo trạng công khai tại tòa, LPSD là tổ chức khoa học – công nghệ do Bách thành lập và hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, triển khai các đề tài, dự án thuộc lĩnh vực pháp luật và chính sách phát triển bền vững, thực hiện các dịch vụ khoa học và công nghệ về pháp luật và chính sách phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động, Bách đã liên hệ với các tổ chức nước ngoài, đàm phán nhận khoản tiền tài trợ để triển khai thực hiện các chương trình, dự án. Tuy nhiên, khi nhận tài trợ, LPSD không làm thủ tục xin phê duyệt, không được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Từ năm 2016-2020, trung tâm này đã nhận số tiền hơn 10 tỷ đồng từ các tổ chức trong nước và nước ngoài thanh toán hợp đồng dịch vụ, tài trợ cho trung tâm. Cơ quan tố tụng xác định, Đặng Đình Bách có hành vi trốn thuế hơn 1,38 tỷ đồng. Thế nhưng tại phiên phúc thẩm, Bách tiếp tục quanh co chối tội, phủ nhận việc trốn thuế bằng cách đổ lỗi cho cấp dưới là nhân viên kế toán đã tự ý thực hiện các hành vi nêu trên. Là người am hiểu pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của trung tâm, nhưng bị cáo Bách đã tự “bào chữa” hết sức ngây ngô và vô cùng phi lý.  Kết thúc phiên tòa, bị cáo Bách không những phải nhận bản án 5 năm tù mà y còn phải nộp hơn 1,38 tỷ đồng tiền trốn thuế. Đó là cái giá của hiểu luật nhưng lại cố tình vi phạm pháp luật. Vậy nên dư luận và cộng đồng mạng ở Việt Nam đã có lời khuyên rất chân tình đối với VOA rằng, đừng mở lời bênh vực hay lên án bất cứ ai nếu không hiểu về họ. Đừng phán xét bất cứ chuyện gì nếu không hiểu rõ căn nguyên của vấn đề. Vì ở đời, phàm những kẻ “ăn gian, nói dối”, nói năng gàn dở hoặc nói càn, nói bậy đều chẳng những không được người đời yêu thích, tin tưởng mà còn bị coi thường.

 

Sự phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế

 


Nền văn hóa Phục Hưng nhân văn rực rỡ trỗi dậy ở châu Âu thế kỷ XVI, XVII là sản phẩm tinh thần của lực lượng xã hội mới đang xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến suy tàn và đang chuẩn bị thay thế chế độ ấy. Nói cách khác, lực lượng sản xuất mới với sự ra đời của các công trường thủ công, các ngành thương nghiệp và hàng hải đã làm nảy sinh một nền văn hóa mới mà nội dung chủ yếu là chống thần quyền và vương quyền, khẳng định và đề cao vị trí của con người trong xã hội.

Như vậy, xét tổng thể, một nền văn hóa bao giờ cũng được hình thành trên cơ sở kinh tế, chịu sự quyết định của cơ sở kinh tế. Tuy nhiên, thừa nhận văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế chỉ mới là một phương diện của vấn đề. Còn ở phương diện thứ hai không kém phần quan trọng là phải thấy được tính độc lập tương đối của văn hóa so với kinh tế.

Sinh thời, C.Mác đã khẳng định phương thức sản xuất vật chất quyết định phương thức sản xuất tinh thần. C.Mác cũng đã chỉ ra rằng, trong lịch sử có những thời kỳ kinh tế phát triển còn thấp kém nhưng về văn hóa lại có những lĩnh vực phát triển cao. Chẳng hạn, văn hóa Hy Lạp - La Mã cổ đại vẫn phát triển rực rỡ khi mà nền kinh tế thời ấy chưa ở trình độ cao. Điều đó có nghĩa là, cơ sở kinh tế không tác động trực tiếp, tức khắc tới văn hóa; không phải cứ kinh tế phát triển cao thì văn hóa cũng sẽ phát triển cao; và ngược lại. Một nền kinh tế lành mạnh, được xây dựng trên những nguyên tắc công bằng, không có sự phân hóa dữ dội, một nền kinh tế thực sự bảo đảm đời sống cho người lao động, tạo được niềm tin và tôn trọng giữa con người với con người... sẽ là cơ sở khách quan để xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh. Chính nhân tố này cắt nghĩa vì sao nhiều quốc gia trên thế giới có kinh tế phát triển cao một cách thiên lệch, không chú ý đến sự công bằng thì đời sống văn hóa vẫn chứa đựng nhiều bất công, mâu thuẫn và xung đột.

Sự phát triển của văn hóa tuân theo quy luật

 


Cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, văn hóa luôn nằm trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng. Sự phát triển từ thấp đến cao, sự thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác là hiện tượng thường xuyên xảy ra trong lịch sử. Cắt nghĩa một cách khoa học các hiện tượng đó có nghĩa là chỉ ra quy luật phát triển của văn hóa. Văn hóa là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con người. Vì vậy, trước hết phải thấy rằng sự phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của một chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế và chính trị ấy sẽ không thể hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Đồng thời, sự phát triển của văn hóa còn tuân theo quy luật kế thừa, Quy luật giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa trong quá trình phát triển