Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương chủ trì Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024

     Sáng 30-8, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024. Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì hội nghị. Trung tướng Nguyễn Doãn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam dự hội nghị.

 

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương chủ trì Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024
Thượng tướng Nguyễn Tân Cương phát biểu chỉ đạo hội nghị.

 

    Phát biểu tại hội nghị, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương ghi nhận và biểu dương kết quả và thành tích mà cơ quan, đơn vị, nhà trường đã đạt được trong thời gian qua. Các nhà trường trong toàn quân đã nỗ lực đoàn kết, khắc phục khó khăn, phối hợp chặt chẽ, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, bảo đảm đúng kế hoạch; có những chuyển biến tích cực trong công tác giáo dục và đào tạo.

    Trên cơ sở đó, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương yêu cầu, các cơ quan, đơn vị, nhà trường tiếp tục quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ thị của cấp trên về công tác giáo dục, đào tạo và phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị ”; tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học với yêu cầu dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất, đáp ứng mục tiêu xây dựng Quân đội và yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương chủ trì Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024
Các đại biểu dự hội nghị.

 

    Các nhà trường tiếp tục tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng về lĩnh vực giáo dục và đào tạo để bảo đảm thống nhất và phù hợp.

    Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các đơn vị, nhà trường triển khai thực hiện hiệu quả các đề án liên quan đến công tác đào tạo trong Quân đội; tập trung hoàn chỉnh xây dựng chuẩn đầu ra, chuẩn chương trình đào tạo. Xây dựng mới, điều chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo, đề cương môn học, học phần theo chuẩn đầu ra. Triển khai thực hiện các chương trình đào tạo theo Đề án đổi mới quy trình, chương trình đào tạo cán bộ các cấp trong Quân đội...

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương chủ trì Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024
Thiếu tướng Nguyễn Văn Oanh, Cục trưởng Cục Nhà trường báo cáo về công tác giáo dục, đào tạo của các trường Quân đội năm học 2022-2023.

 

    Nhà trường Quân đội phải tập trung nghiên cứu, tổ chức diễn tập cho học viên gắn với khung cán bộ trong nhà trường; xây dựng nghị quyết chuyên đề, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để phát triển đội ngũ nhà giáo có trình độ, đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư; nâng cao chất lượng tham quan, học tập, nghiên cứu thực tế của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tại đơn vị và chất lượng cán bộ các đơn vị tham gia các hoạt động của nhà trường.

    Thời gian tới, các nhà trường Quân đội phải tích cực chuẩn bị tốt mọi điều kiện và tổ chức thi thử tuyển sinh quân sự theo hình thức đánh giá năng lực trên máy tính của Bộ Quốc phòng để rút kinh nghiệm làm cơ sở sớm áp dụng hình thức này vào tổ chức thi tuyển sinh; tích cực tổ chức biên soạn các loại giáo trình, tài liệu huấn luyện bảo đảm đầy đủ, thẩm định chặt chẽ. Thực hiện tốt công tác Đảng, công tác chính trị; bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, tài chính cho nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương chủ trì Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024
Khen thưởng các nhà trường có thành tích xuất sắc năm học 2022-2023.

 

    Theo báo cáo tại hội nghị, năm học 2022-2023, các cơ quan, đơn vị, nhà trường Quân đội đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, kết luận của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác giáo dục và đào tạo.

    Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, nhà trường đối với công tác giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực. Đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất cho các nhà trường được quan tâm, đời sống vật chất, tinh thần của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục được nâng lên, những khó khăn, vướng mắc được giải quyết. Chất lượng giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến tích cực; cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, hạ sĩ quan chỉ huy tốt nghiệp ra trường cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị...

    Trong đó, công tác đào tạo đạt được nhiều kết quả tích cực. Năm học 2022-2023, nhà trường Quân đội đã đào tạo các khóa cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược hoàn thành mục tiêu đề ra. Đào tạo cho các đơn vị cán bộ cấp trung đoàn, sư đoàn và tương đương; đào tạo gần 300 tiến sĩ, hàng trăm thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp 1, cấp 2. Sĩ quan cấp phân đội trình độ đại học tốt nghiệp các trường quân đội đáp ứng tốt yêu cầu của đơn vị; hoàn thành chỉ tiêu bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các cán bộ đối tượng 1, 2, 3; giáo dục quốc phòng-an ninh cho hàng vạn học sinh, sinh viên, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xây dựng Quân đội và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương chủ trì Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024
Quang cảnh hội nghị.

 

    Công tác nghiên cứu khoa học cũng có sự chuyển biến tiến bộ, tích cực. Đã triển khai nghiên cứu các đề tài, nhiệm vụ khoa học bảo đảm đúng tiến độ. Nhiều đề tài sáng kiến được ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn. Trong năm học vừa qua, có gần 2.500 đề tài, sáng kiến các cấp được cán bộ, giảng viên, học viên nghiên cứu; hơn 1.600 bộ giáo trình, tài liệu được biên soạn, chỉnh sửa và hoàn thiện đưa vào giảng dạy...

    Trên cơ sở những kết quả mà các nhà trường đã đạt được, tại hội nghị, Bộ Tổng Tham mưu đã khen thưởng 44 tập thể và 48 cá nhân có thành tích xuất sắc trong năm học 2022-2023.

Toàn quân đẩy mạnh điều chỉnh tổ chức lực lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại

     Xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là một tất yếu khách quan, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “chủ động giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong tình hình mới.

    Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, các thế hệ tiền nhân đã có nhiều kế sách giữ nước và xây dựng LLVT đặc sắc như: “Quốc phú, binh cường, nội yên, ngoại tĩnh”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, “Quân cốt tinh, không cốt nhiều”. Trong thời đại Hồ Chí Minh, quan điểm về xây dựng LLVT tiếp tục có bước phát triển mới, đặc biệt là quan điểm xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại được hình thành từ sớm và từng bước bổ sung, hoàn thiện.

    Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ nhân dịp kỷ niệm 14 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta, đã căn dặn: “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một QĐND hùng mạnh, một Quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) xác định: “Xây dựng QĐND chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) và sức chiến đấu cao”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta năm 1991 đã xác định: “Xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu”. Từ Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trở thành chủ trương nhất quán của Đảng ta trong lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đến Đại hội XII của Đảng, Đảng ta xác định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng LLVT nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng QĐND, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Mới đây, tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã nhấn mạnh: “Tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh tổ chức Quân đội theo đúng lộ trình đã xác định; kịp thời kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng, bảo đảm đơn vị sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ ngay sau khi thành lập, tạo tiền đề để đến năm 2025 cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định”. 

Toàn quân đẩy mạnh điều chỉnh tổ chức lực lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại

 Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiểm tra, động viên cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3, Quân khu 1 (tháng 4-2023). Ảnh:TUẤN HUY

    Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã cho thấy, phương hướng, mục tiêu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh là chủ trương nhất quán của Đảng và là nhiệm vụ tất yếu khách quan trong tình hình mới nhằm bảo đảm cho Quân đội không ngừng vững mạnh, góp phần giữ vững sự ổn định để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

    Quán triệt, triển khai cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI về xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh; những năm qua, Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về công tác tổ chức lực lượng, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Tham mưu, đề xuất ban hành nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, kế hoạch của Bộ Quốc phòng về tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng. Báo cáo, đề xuất ban hành các thông tư của Bộ Quốc phòng quy định về công tác tổ chức xây dựng lực lượng; nghiên cứu, dự thảo Bộ tiêu chí xây dựng QĐND Việt Nam hiện đại trong tình hình mới. Xây dựng Đề án của Quân ủy Trung ương về Danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý trong QĐND Việt Nam; biểu tổ chức biên chế, quy định chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị mới thành lập.

    Tham mưu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo toàn quân kịp thời tổng kết thực hiện Kết luận số 16-KL/TW ngày 7-7-2017 của Bộ Chính trị về lãnh đạo tổ chức QĐND Việt Nam đến năm 2021; tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 607-NQ/QUTW ngày 16-6-2018 của Quân ủy Trung ương lãnh đạo thực hiện về bảo đảm vũ khí, trang bị cho QĐND Việt Nam đến năm 2025 theo định hướng Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1-8-2017 của Bộ Chính trị gắn với đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 114/CT-BQP ngày 27-12-2018 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc thực hiện điều chỉnh tổ chức, biên chế quân số khối cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Tổ chức, chỉ đạo rút kinh nghiệm tổng kết thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015; tổng hợp kết quả điều chuyển, sáp nhập, giải thể của các đơn vị làm trước, báo cáo Thường vụ Quân ủy Trung ương xem xét, quyết định. Xây dựng Đề án sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập do Bộ Quốc phòng quản lý giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; hồ sơ dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015...

    Tập trung tham mưu, chỉ đạo quyết liệt điều chỉnh tổ chức từ cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng đến các cơ quan, đơn vị cấp chiến dịch, chiến thuật gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từng bước trang bị các loại vũ khí mới, hiện đại, bảo đảm QĐND Việt Nam có đủ sức mạnh, đánh thắng mọi kẻ thù trong các hình thái chiến tranh. Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thường xuyên bảo đảm quân số đúng tỷ lệ quy định; tích cực rà soát điều chuyển, khắc phục tình trạng mất cân đối quân số, nơi thừa, nơi thiếu; thực hiện nghiêm chế độ liên thẩm quân số; kịp thời điều động bảo đảm quân số cho nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ. Công tác tuyển quân, tuyển chọn, tuyển dụng, tuyển sinh, chiêu sinh đào tạo và giải quyết các chế độ, chính sách cho các đối tượng chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật và quy định của Bộ Quốc phòng. Chỉ đạo các địa phương chấp hành nghiêm các chế độ quy định trong việc đăng ký, quản lý nguồn dự bị động viên; sắp xếp đủ 100% đầu mối đơn vị dự bị động viên theo quy mô, loại hình tổ chức của các đơn vị dự bị động viên.

    Sau gần 2 năm quyết liệt triển khai thực hiện, việc điều chỉnh tổ chức lực lượng theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng đã có chuyển biến rõ rệt. Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam đã chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, trình Thường vụ Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét quyết định thành lập mới, đổi tên, điều chuyển, sáp nhập, giải thể, tổ chức lại, ban hành biểu tổ chức biên chế của hàng trăm tổ chức theo hướng "tinh, gọn, mạnh" gắn với ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác cho các cơ quan, đơn vị. Tích cực ứng dụng Chính phủ điện tử và cải cách hành chính quân sự, triển khai thí điểm các thủ tục hành chính về lĩnh vực nghĩa vụ quân sự trên cổng dịch vụ công Bộ Quốc phòng theo kế hoạch; thực hiện Dự án “Xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu ngành quân lực toàn quân”; đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quân lực bảo đảm chặt chẽ, bảo mật, an toàn. Đây là những tiền đề vững chắc, kinh nghiệm quý để toàn quân tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương “tinh, gọn, mạnh” trong thời gian tới.

    Những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là tranh chấp chủ quyền biển, đảo... diễn ra phức tạp, quyết liệt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm xuất hiện nhiều loại vũ khí mới; cùng với đó, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao và chiến tranh phi tiếp xúc ngày càng trở nên phổ biến. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh... ngày càng phức tạp. Đối với nước ta, sau gần 40 năm đổi mới, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn cho công tác tổ chức lực lượng, đặc biệt là yêu cầu về điều chỉnh tổ chức lực lượng, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Để thực hiện tốt chủ trương này, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả những nội dung cơ bản sau:

    Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương, kế hoạch của Bộ Quốc phòng về điều chỉnh tổ chức lực lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.

Đây vừa là nhiệm vụ, vừa là biện pháp tiên quyết, quan trọng hàng đầu trong triển khai thực hiện chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh. Để thực hiện tốt nội dung này, các cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trọng tâm là Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17-1-2022 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW ngày 2-4-2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Triển khai thực hiện nghiêm Kế hoạch số 1228/KH-BQP, Kết luận của Hội nghị Thường vụ Quân ủy Trung ương về điều chỉnh Kế hoạch số 1228/KH-BQP đúng tiến độ, lộ trình. Từng cấp chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chặt chẽ, khoa học, với lộ trình, bước đi cụ thể, điều chỉnh tăng, giảm tổ chức, quân số của từng khối phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, giữ vững và phát huy truyền thống Quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Xây dựng, điều chỉnh tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, có cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm. Tiếp tục tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược phù hợp với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu chiến đấu trong tình hình mới.

    Quá trình điều chỉnh tổ chức lực lượng phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị và sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp. Biện pháp thực hiện phải toàn diện, đồng bộ, phù hợp với thực tế; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, tuyệt đối không được chủ quan, nóng vội, đơn giản một chiều hay hành chính hóa.

    Trước mắt, tập trung thực hiện tốt chủ đề của năm 2023 “Năm điều chỉnh tổ chức lực lượng”, hoàn thành điều chỉnh một khối lượng lớn tổ chức theo kế hoạch năm. Đến năm 2025, quyết tâm hoàn thành cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh. Kịp thời ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của một số cơ quan, đơn vị điều chỉnh tổ chức, thành lập mới; xây dựng biểu tổ chức, biên chế thời bình, thời chiến của một số cơ quan, đơn vị. Tổng kết thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015; xây dựng hồ sơ dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015...

    Hai là, điều chỉnh tổ chức lực lượng tuyệt đối không được xa rời nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.

    Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là nguyên tắc xuyên suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta, là nhân tố quyết định sự trưởng thành, chiến thắng và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ của Quân đội. Để làm được điều đó, cần thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng trong tình hình mới. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới” và Quy chế “Công tác quản lý tư tưởng quân nhân, nắm và định hướng dư luận trong QĐND Việt Nam”. Coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất cách mạng, truyền thống, nhiệm vụ của Quân đội và đơn vị; đối tác, đối tượng; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Kịp thời khắc phục những nhận thức, tư tưởng lệch lạc, chủ động đấu tranh phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

    Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới và các phong trào thi đua, các cuộc vận động của toàn quân, toàn quốc bằng nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, là lực lượng xung kích, gương mẫu trong tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố, tham gia phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng đời sống văn hóa và nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, nhất là vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo gắn với thực hiện tốt chính sách đối với Quân đội và hậu phương Quân đội, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” vững chắc.

    Ba là, chủ động rà soát, tham mưu, chỉ đạo, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị của từng cơ quan, đơn vị; chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

    Các cơ quan, đơn vị cần tập trung quản lý, điều chuyển, sử dụng quân số hợp lý, ưu tiên các trung đoàn và sư đoàn bộ binh đủ quân, đơn vị làm nhiệm vụ SSCĐ; giải quyết tốt chế độ, chính sách cho các đối tượng, nhất là đối với các đơn vị sáp nhập, giải thể, điều chuyển. Điều chỉnh chỉ tiêu xây dựng, huy động và tiếp nhận lực lượng dự bị động viên đối với đơn vị giải thể, sáp nhập, tổ chức lại theo Kế hoạch số 1228/KH-BQP của Bộ Quốc phòng; tổ chức huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu. Xác định rõ vị trí công tác cho từng chức danh, trước hết ở cơ quan chiến dịch, chiến lược, khắc phục chồng chéo.

    Có giải pháp đột phá nâng cao chất lượng tuyển quân, tuyển sinh quân sự, tuyển dụng, bảo đảm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho Quân đội. Hoàn thành điều chỉnh, sắp xếp lại hệ thống nhà trường, các nhà máy, cơ sở sửa chữa quốc phòng và các đoàn kinh tế-quốc phòng; xây dựng, triển khai Đề án tổng thể về tự chủ đối với một số loại hình đơn vị sự nghiệp công lập.

    Bốn là, gắn việc điều chỉnh tổ chức lực lượng với duy trì nghiêm chế độ SSCĐ, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện-đào tạo.

    Đây là một trong những khâu then chốt, đột phá, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong điều kiện mới. Sức mạnh của Quân đội là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: Con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật tác chiến..., trong đó, con người là nhân tố quyết định. Vì thế, cần duy trì nghiêm các chế độ SSCĐ; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn kiện và luyện tập, diễn tập theo các phương án tác chiến. Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ biên giới, vùng trời, vùng biển. Chủ động phòng ngừa, phát hiện và xử lý thắng lợi các tình huống xảy ra. Nâng cao năng lực tác chiến không gian mạng, tác chiến điện tử; phối hợp triển khai giải pháp tổng thể bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Chuẩn bị tốt lực lượng, phương tiện, phương án để thực hiện "nhiệm vụ chiến đấu của Quân đội trong thời bình”: Phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, sự cố môi trường, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn...

    Tiếp tục đột phá đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo theo Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới. Vận dụng sáng tạo các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương châm, mối kết hợp và yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng huấn luyện. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành huấn luyện, đào tạo theo hướng “Tập trung, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, không chồng chéo”. Thực hiện phương châm huấn luyện “Cơ bản-thiết thực-vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; huấn luyện đêm, huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí, trang bị mới, hiện đại, kết hợp huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị và rèn luyện thể lực của bộ đội, nâng cao bản lĩnh, quyết tâm và khả năng cơ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, thực hiện nghiêm các quy định về bảo đảm an toàn trong huấn luyện, diễn tập. Tổ chức diễn tập ở các cấp bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, an toàn, sát thực tiễn.

    Tập trung đầu tư xây dựng một số học viện, nhà trường theo mô hình “Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác bảo đảm huấn luyện đáp ứng yêu cầu “Khoa học-hiệu quả-kịp thời” phù hợp với tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị và cách đánh, sát thực tế chiến đấu. Tiếp tục nghiên cứu, biên soạn, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu huấn luyện phù hợp với từng đối tượng, lực lượng.

    Năm là, điều chỉnh tổ chức lực lượng cần phải bảo đảm tốt việc xây dựng chính quy, chấp hành nghiêm kỷ luật, pháp luật và đẩy mạnh cải cách hành chính quân sự.

    Cần làm tốt công tác giáo dục, xây dựng động cơ, ý chí quyết tâm, tính tự giác của cán bộ, chiến sĩ trong quán triệt, thực hiện điều lệnh, điều lệ, chỉ thị, quy định. Thường xuyên rà soát, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện xây dựng chính quy, chấp hành pháp luật, kỷ luật của cơ quan, đơn vị; kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo chấn chỉnh, xử lý các sai phạm, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương. Duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt, công tác; tăng cường những biện pháp quản lý chặt chẽ các mối quan hệ xã hội của quân nhân. Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực trong quản lý, giáo dục bộ đội. Thực hiện tốt các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chính quy, chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội và thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo tinh thần “7 dám”. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, những cán bộ, đảng viên quan liêu, thiếu gương mẫu, để đơn vị xảy ra vụ việc nghiêm trọng liên quan trực tiếp đến trách nhiệm lãnh đạo, quản lý, chỉ huy.

    Phát huy vai trò của các tổ chức trong xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật. Nắm chắc diễn biến tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ; kịp thời phát hiện, xử lý các sai phạm ngay từ cơ sở. Chỉ đạo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” gắn với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu và các tổ chức vững mạnh trong từng cơ quan, đơn vị. Tiếp tục xây dựng Chính phủ điện tử trong Bộ Quốc phòng; đẩy mạnh cải cách hành chính quân sự, trọng tâm là ở các cơ quan, đơn vị chiến dịch, chiến lược, bảo đảm bí mật, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả.

Sáu là, chú trọng phát huy vai trò của lực lượng nghiên cứu khoa học quân sự, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào tổ chức lực lượng, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.

    Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, nghệ thuật quân sự, khoa học-công nghệ quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự... trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, đổi mới công nghệ; gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học-công nghệ hiện đại. Tập trung triển khai các chương trình, đề án khoa học-công nghệ trọng điểm cấp quốc gia và Bộ Quốc phòng. Trọng tâm là nghiên cứu các hình thái chiến tranh mới, nghệ thuật tác chiến và cách đánh phù hợp với vũ khí, trang bị trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao, xây dựng phát triển hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin và nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tác chiến không gian mạng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

    Đổi mới cơ chế quản lý, đầu tư hoạt động khoa học-công nghệ; tăng cường phối hợp trong nước và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học quân sự. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ môi trường; khắc phục hậu quả bom mìn, chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh.

    Điều chỉnh tổ chức lực lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là nhiệm vụ rất hệ trọng, liên quan trực tiếp tới tổ chức, con người, vì vậy, quá trình thực hiện một mặt phải rất quyết liệt, mặt khác phải hết sức thận trọng, luôn tạo được sự đồng thuận cao, phát huy được sức mạnh của mọi tổ chức. Thực hiện tốt chủ trương này sẽ là tiền đề vững chắc góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của Quân đội, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Thượng tướng NGUYỄN TÂN CƯƠNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

LẼ SỐNG “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO” THẬT TƯƠI SÁNG.


1. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là nội dung cốt lõi trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, thể hiện sâu sắc khát vọng sống hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta; là chân lý phổ quát mang giá trị thời đại, phản ánh xu thế vận động, phát triển của thời cuộc và lẽ sống của nhân loại: hướng đến mục tiêu: hòa bình, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là lời kêu gọi của Bác kính yêu, được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam sáng ngày 17-7-1966, giữa lúc quân và dân hai miền Nam - Bắc chung sức, đồng lòng đối phó với quân xâm lược Mỹ và tay sai.
2. Sau thất bại nặng nề của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), giặc Mỹ điên cuồng triển khai thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968); ồ ạt đưa hàng chục vạn quân Mỹ và chư hầu trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt nam. Cùng với đó, dùng không quân, hải quân mở rộng chiến tranh, đánh phá miền Bắc với mục đích làm suy yếu Việt Nam, chặn đường tiếp viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam; buộc chúng ta phải ngồi vào bàn đàn phán và thực hiện những yêu sách mà đế quốc Mỹ ép buộc.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ khẳng định ý chí quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta: “đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, mà còn là thông điệp gửi đến toàn thể nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới về quan điểm và khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam. Bác viết: “Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, hoà bình thật sự, hoà bình trong độc lập, tự do, chứ không phải thứ hòa bình giả hiệu, “hòa bình” kiểu Mỹ”.
Đúng vậy! Là dân tộc đã trải qua hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, nếm trải mọi điều đắng cay, đau thương, mất mát; hơn ai hết, nhân dân Việt Nam rất quý trọng, yêu chuộng hòa bình, khát khao sống trong độc lập, tự do. Vì lẽ đó, cả dân tộc ta đi theo Đảng, Bác, quyết không sợ hy sinh, gian khổ, dù cho cuộc “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
3. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Bác bắt nguồn từ chiều sâu bản chất truyền thống nhân văn quân sự của ông cha ta. Trong trái tim, nhận thức và hành động của mỗi người Việt Nam yêu nước thì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân là điều thiêng liêng, cao quý nhất. Tinh thần, lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Bác được kết tinh từ lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh để bảo vệ nền độc lập và tự chủ của dân tộc; trở thành lẽ sống và văn hóa ứng xử của nhân dân ta.
Chiều sâu của chân lý thời đại, được Bác tiếp thu, đúc kết bản chất, giá trị và ý nghĩa nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phát triển tự do của mỗi người, khẳng định đó là điều kiện tiên quyểt, tiền đề không thể thiếu đối với sự phát triển toàn diện của tất cả mọi người. Bác đã nắm bắt, làm sâu sắc, phong phú và thổi vào hồn cốt dân tộc, bản chất, giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin; nâng tầm cao giá trị truyền thống của chủ nghĩa yêu nước, nhân văn Việt Nam lên tầm cao mới. Vì lẽ đó, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành bản chất cao quý, giá trị vĩnh hằng trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Đó là điều thiêng liêng nhất, là chân lý, lẽ phải không ai chối cãi được. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ hướng đến giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội mà còn hướng đến xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột, bất công. Trong đó, độc lập, tự do là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam và nhân dân các dân tộc trên thế giới. Độc lập dân tộc là đáng quý nhất, nhưng cái cốt lõi của độc lập dân tộc lại chính là quyền con người - quyền lợi của nhân dân. Họ có quyền được hưởng và xứng đáng được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Điều này đúng với lời dạy của Bác: nước có độc lập thì dân mới có điều kiện để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nước độc lập rồi mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.
4. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Bác thể hiện ở chỗ: gắn quyền sống làm người của mỗi công dân với quyền tự quyết của dân tộc và quyền của dân tộc với quyền của mỗi con người, mang tính nhân loại. Có như vậy, sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng xã hội mới thật sự triệt để, mới là hiện thực sinh động, mang giá trị nhân văn. Đó chính là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội ta. Bị gông cùm, tù đầy, trói buộc trong “xích sắt”, cuộc sống của con người có ý nghĩa gì đâu; chỉ là thân phận nô lệ lầm than.
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng nhân văn của Bác Hồ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã đánh thắng tất cả các chiến lược quân sự của đế quốc Mỹ, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là biểu tượng cao đẹp nhất cho thắng lợi của sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, thắng lợi của mục tiêu, lý tưởng chiến đấu theo con đường cách mạng của Đảng, của Bác Hồ; tỏa sáng minh triết Hồ Chí Minh trong thời đại mới: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”!
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội ta đã cùng với nhân dân cả nước, luôn nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ chế độ XHCN; kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
5. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta được tiến hành trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến rất phức tạp, khó lường, tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen. Qua 37 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch, sức mạnh mọi mặt của quốc gia được nâng lên; vị thế và uy tín quốc tế được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để hoàn xuất sắc mọi nhiêm vụ được giao, cán bộ, chiến sĩ toàn quân cần quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra; chủ động, tích cực chăm lo bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Vì vậy, tăng cường cảnh giác, chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến” , “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, chống mọi biểu hiện hạ thấp vai trò, sức mạnh của quân đội; tuyệt đối không để cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
57 năm đã trôi qua, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, tiếp tục phản ánh khát vọng sống trong hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam. Phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nguyện: tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ kính yêu đã trao truyền, giáo dục; ra sức phán đấu, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước trên con đường XHCN. Đó là niềm vinh dự, tự hào và là trách nhiệm của chúng ta./.
ST

NẾU KHÔNG CÓ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM


Mấy năm gần đây, cứ vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Tết Độc lập (2-9), các thế lực thù địch, phản động và thành phần bất mãn chính trị lại “nhai đi, nhai lại” những luận điệu cũ rích, rằng: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là “sự ăn may”; “Việt Minh đã nhanh tay cướp lấy thành quả của Đồng minh chống phát xít, khi quân Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật”... Năm nay, các thế lực thù địch, phản động và thành phần bất mãn chính trị dường như có sự “đổi mới”, bên cạnh những luận điệu nói trên, chúng “ước ao” rằng, “giá như không có Cách mạng Tháng Tám thì Việt Nam đã là một nước tư bản phát triển”.
Mục đích của họ là phủ nhận thành quả, tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, gây tâm lý mơ hồ, hoài nghi, chia rẽ trong xã hội, nhất là trong giới trẻ để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy một bộ phận nhân dân xa rời Đảng, Nhà nước, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả cách mạng, hướng lái dân tộc Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa…
Có lẽ những người phủ nhận thành quả, tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám đã không biết hoặc cố tình không biết rằng, đêm trước của cuộc Cách mạng Tháng Tám, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam khổ cực đến nhường nào. Trên bản đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn.
Nhà sử học người Na Uy S.Tonesson đã viết trong tác phẩm của mình: “Cuộc cách mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không chỉ có vậy, đó còn là một cuộc cách mạng chính trị chống lại nền quân chủ thối nát, và là một cuộc cách mạng xã hội chống lại chủ đất và những người thu thuế”.
Những người không muốn có cuộc Cách mạng Tháng Tám suy luận rằng, “trước sau thì Pháp sẽ trao trả Việt Nam độc lập trong hòa bình như các nước khác” và họ cũng không biết rằng, thực tế các quốc gia được “Pháp trao trả độc lập trong hòa bình” từ hơn nửa thế kỷ trước đến nay vẫn lệ thuộc Pháp và nghèo nàn lạc hậu hơn Việt Nam rất nhiều. Các nước châu Phi là một ví dụ. Hiện nay, nước Pháp vẫn duy trì chế độ thực dân ở châu Phi. Để được chính quyền Paris trao trả “độc lập”, đến nay 14 nước châu Phi vẫn phải ràng buộc với Pháp bởi Hiệp ước thuộc địa. Hiệp ước này gồm nhiều điều khoản. Theo Điều 1 của Hiệp ước, các nước châu Phi được Paris trao “quyền độc lập” phải hoàn trả khoản chi phí “xây dựng thuộc địa”. Theo đó, họ phải hoàn trả số tiền mà Pháp đã bỏ ra để xây dựng cơ sở hạ tầng trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Theo Điều 2, các nước phải tự nguyện giao nộp 85% tài sản dự trữ quốc gia bằng ngoại tệ vào Ngân hàng trung ương Pháp. Hiện nay có 14 quốc gia châu Phi vẫn bị ràng buộc bởi quy định này từ năm 1961. Đáng chú ý là, 14 nước châu Phi này không có quyền tiếp cận số tiền dự trữ đó của họ và chỉ được Pháp cho phép sử dụng 15% số tiền này. Nếu các nước châu Phi cần số tiền nhiều hơn 15% thì họ sẽ phải vay thêm từ chính tiền của mình trong Kho bạc Pháp với lãi suất thương mại. Ngoài ra, Pháp áp đặt giới hạn số tiền mà các nước có thể vay thêm từ chính tài sản dự trữ của chính họ gửi ở Ngân hàng trung ương Pháp. Pháp có quyền phủ quyết yêu cầu của các nước châu Phi vay hơn 20% tiền của chính họ… Theo Điều 3, Pháp có quyền phủ quyết các nước châu Phi được Paris trao “quyền độc lập” khai thác hay sử dụng bất kỳ nguồn tài nguyên nào mới được phát hiện trên lãnh thổ của họ. Ngoài ra, Paris có quyền là người đầu tiên được mua bất kỳ tài nguyên thiên nhiên nào được tìm thấy trong vùng đất thuộc địa cũ của Pháp…
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do nhiều nguyên nhân, đó là sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, sáng tạo trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; là tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, kể cả sự huy động kết tinh truyền thống anh hùng, trí tuệ, bất khuất của dân tộc Việt Nam qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước... trong đó, nguyên nhân quan trọng, tiên quyết là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh theo mục tiêu, ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nếu không có Cách mạng Tháng Tám thì không thể có dân tộc Việt Nam hùng cường, nhân dân Việt Nam không thể ngẩng cao đầu với bạn bè quốc tế như ngày hôm nay.
Nếu ai đó còn có tư tưởng bóp méo, xuyên tạc, bôi nhọ những giá trị tinh thần, niềm tự hào lớn lao của dân tộc, phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của Cách mạng Tháng Tám, hướng lái làm cho giới trẻ mơ hồ nhận thức thì cần xem xét lại bản thân mình. Nếu không xem lại được thì chắc chắn sẽ bị lịch sử phán xét và đào thải./.
ST

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - TINH THẦN, KHÁT VỌNG VÀ VĂN MINH VIỆT


Cách đây 78 năm (1945 - 2023), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới rực rỡ trong lịch sử của dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hướng đến phồn vinh, hạnh phúc.
Tinh thần độc lập, tự do của dân tộc ta đã được tích lũy trong hàng ngàn năm lịch sử để hồi sinh một quốc gia tự chủ, độc lập. Trong tiến trình đó, cha ông chúng ta đã viết nên những bản Tuyên ngôn Độc lập bằng máu của mình. Từ “Nam quốc sơn hà” đến “Bình Ngô đại cáo”… đã khắc vào lịch sử điều thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam, đó là tinh thần độc lập, tự do. Toàn bộ tinh thần ấy được hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đã hội tụ ở Chủ tịch Hồ Chí Minh và được tỏa sáng bởi bản Tuyên ngôn Độc lập do Người khởi thảo. Dân tộc Việt Nam đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh và Người đã làm rạng rỡ non sông, đất nước ta trước toàn nhân loại bắt đầu từ Tuyên ngôn Độc lập tái sinh Tổ quốc Việt Nam sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại.
Ra đời trong điều kiện lịch sử đó, Tuyên ngôn Độc lập vừa là kết quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám vừa là thành quả của quá trình tranh đấu anh dũng của nhân dân ta trong tiến trình dựng nước và giữ nước. Do đó, Tuyên ngôn không chỉ chứa đựng tinh thần của dân tộc mà còn biểu thị khát vọng hàng đầu của dân tộc ta về quyền của dân tộc và con người Việt Nam. Tinh thần và khát vọng đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố trước thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 4, tr.3).
Không chỉ làm sáng tỏ tinh thần và khát vọng Việt về độc lập, tự do, Tuyên ngôn Độc lập còn thể hiện rõ văn minh Việt trong thực hiện khát vọng đó trước nhân loại, khi dân tộc Việt Nam đứng về phía văn minh, nhân danh văn minh để giành độc lập, tự do và xây dựng, phát triển xã hội văn minh để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc, con người Việt Nam và nhân loại.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ kết tinh những giá trị tinh thần, khát vọng thiêng liêng và văn minh của dân tộc ta mà còn chứa đựng những giá trị chung của nhân loại. Không phải ngẫu nhiên ngay từ đoạn mở đầu trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dẫn nguyên văn một đoạn mang nội dung tư tưởng cơ bản nhất của Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và bản Tuyên ngôn cũng dẫn nguyên văn sau đây trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1781: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Sự thừa nhận và kết hợp hài hòa đó trong bản Tuyên ngôn Độc lập đã đưa dân tộc Việt Nam hội nhập vào thế giới hiện đại và đi vào tiến trình phát triển văn minh của loài người.
Từ sự khẳng định các quyền cơ bản và thiêng liêng của con người - đều có sự bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển thành quyền tồn tại trong tự do của mọi dân tộc và nguyên lý dân chủ, bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới, trên cơ sở xác định đó cũng là quyền tạo hóa trao cho các dân tộc. Nội dung này được Hồ Chí Minh đưa ra như một lẽ tự nhiên: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Như vậy, sự bình đẳng với quyền tồn tại, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc không chỉ dừng lại ở quyền cá nhân con người mà được phát triển thành quyền cộng đồng - quyền dân tộc - trong đó tất cả các dân tộc không phân biệt chủng tộc, không phân biệt lớn, nhỏ, đều được bình đẳng, đều “có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do” quyết định vận mệnh của mình. Theo đó, Tuyên ngôn Độc lập đã đặt cơ sở pháp lý cho một trật tự thế giới với quan hệ quốc tế mới dựa trên sự tôn trọng quyền dân tộc cơ bản và sự bình đẳng giữa các dân tộc. Đây cũng là tuyên ngôn chỉ rõ biểu thức cho một nền hòa bình trên hành tinh chúng ta, nêu lên tinh thần cho việc xác định những nguyên tắc chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau phải dựa trên sự bình đẳng với quyền đầy đủ của các dân tộc. Vì vậy, quyền tự nhiên của dân tộc và pháp lý quốc tế phải được tôn trọng để giải quyết các mối quan hệ quốc tế và là cơ sở hàng đầu để làm cho văn minh thắng bạo tàn cường quyền. Đó là cơ sở cho các dân tộc được sống trong hòa bình với đầy đủ quyền dân tộc tự nhiên của mình.
Có thể nói rằng, tiếp theo hai bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp và Mỹ về quyền con người, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là tuyên ngôn đầu tiên trên thế giới xác định rõ về quyền dân tộc cơ bản từ nền tảng của quyền con người. Điều này nói lên quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân cũng như của dân tộc không có gì trừu tượng mà rất cụ thể và có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Quan điểm này đã được thể hiện trên tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và sau này là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sự kết hợp giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền và lợi ích con người trong Tuyên ngôn lập nước và được thể hiện trên tiêu chí của Nhà nước ta trở thành mẫu số chung để đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi lẽ, quyền dân tộc và quyền con người không chỉ là khát vọng của mỗi người dân Việt Nam mà còn là nguyện vọng của nhân dân tất cả các dân tộc trên thế giới.
Đó là những biểu hiện tiếp theo của văn minh Việt hàm chứa những giá trị văn minh nhân loại và mang ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn Độc lập.
Sự kiểm nghiệm trong thực tế những tư tưởng của Tuyên ngôn Độc lập với sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và sự tan rã của chủ nghĩa thực dân mới trên thế giới, sự phát triển của phong trào đấu tranh đòi bình đẳng trong quan hệ quốc tế ngày nay chứng tỏ xu thế không gì cản trở được của phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Điều đó càng làm toả sáng giá trị vững bền của tinh thần, khát vọng và văn minh Việt với những giá trị chung của nhân loại thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập.
78 năm đã trôi qua nhưng thực tế cho thấy các nguyên tắc mà Tuyên ngôn Độc lập nêu lên vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Các dân tộc trên thế giới ngày nay vẫn đang tiếp tục đấu tranh cho quyền cơ bản của dân tộc mình. Dù phải lùi bước, phải thay đổi hình thức áp bức bóc lột, nhưng các thế lực đại diện cho trật tự thế giới cũ vẫn không từ bỏ tham vọng và luôn tìm mọi cách để buộc các dân tộc khác phải lệ thuộc dưới các hình thức khác nhau.
Thực tiễn của tình hình quốc tế hiện nay càng chứng tỏ tư tưởng đúng đắn của Tuyên ngôn Độc lập và sự sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân ta nỗ lực thực hiện công cuộc đổi mới trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hướng theo tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, cũng chính là thực hiện cho được tinh thần, khát vọng, văn minh Việt thể hiện từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945. Mang tinh thần, khát vọng, văn minh Việt của Tuyên ngôn Độc lập vào tương lai là đưa tư tưởng Hồ Chí Minh đến đích của sự hoàn thiện cho độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của con người Việt Nam.
ST