Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 780/CĐ-TTg về việc tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất, nỗ lực đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải
Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023
NỖ LỰC ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ CÁC CÔNG TRÌNH, DỰ ÁN QUAN TRỌNG QUỐC GIA, TRỌNG ĐIỂM NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI
ASEAN NỖ LỰC HƯỚNG TỚI NỀN KINH TẾ THÂN THIỆN VỚI MÔI TRƯỜNG
Bộ trưởng Điều phối các vấn đề kinh tế Indonesia Airlangga Hartarto cho biết các nước ASEAN đang nỗ lực hướng tới mục tiêu trở thành khu vực kinh tế thân thiện với môi trường.
CHỦ TỊCH NƯỚC VÕ VĂN THƯỞNG GỬI THƯ CHÚC MỪNG NGÀNH GIÁO DỤC NHÂN DỊP KHAI GIẢNG NĂM HỌC 2023-2024
Nhân dịp khai giảng năm học 2023-2024, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng vừa có thư gửi ngành Giáo dục. Báo Nhân Dân trân trọng giới thiệu toàn văn thư của Chủ tịch nước.
Nhận diện đặc điểm chương trình đào tạo, bồi dưỡng và yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy ở Trường Đảng hiện nay
(LLCT) - Thực hiện các nghị quyết của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã có nhiều đổi mới về xây dựng chương trình, giáo trình, phát triển đội ngũ giảng viên, phương pháp giảng dạy, bước đầu đạt chất lượng, hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có một số mâu thuẫn nảy sinh, nhất là về chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy. Góp bàn về những vấn đề trên, bài viết tập trung nhận diện, phân tích bốn đặc điểm của chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống Trường Đảng; đồng thời, tiếp cận, chỉ ra yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy ở hệ thống Trường Đảng hiện nay.
1. Nhận diện đặc điểm chương trình đào tạo, bồi dưỡng Trường Đảng
Chương trình đào tạo là bản thiết kế tổng thể các hoạt động của quá trình đào tạo cho một khóa học hoặc một loại hình đào tạo nhất định, trong đó xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và các yêu cầu về kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo. Chương trình đào tạo phản ánh mục tiêu, quan điểm hay triết lý đào tạo của mỗi cơ sở đào tạo, nhằm đáp ứng yêu cầu cá nhân, tổ chức và xã hội.
Mục tiêu đào tạo của Trường Đảng là tạo ra sản phẩm, mẫu hình đội ngũ cán bộ: “làm việc, làm người, làm cán bộ;... để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Từ mục tiêu đó, có thể nhận diện đặc điểm chương trình đào tạo, bồi dưỡng như sau:
Một là, phản ánh, biểu đạt những nội dung về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận biện chứng.
Mục tiêu đào tạo của Trường Đảng là tạo ra đội ngũ cán bộ: “làm việc, làm người, làm cán bộ;... phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Vì thế, chương trình đào tạo cung cấp nền tảng tri thức khoa học căn bản, hệ thống, hiện đại, thực tiễn lý luận về phát triển xã hội; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phương pháp, cách thức thực hiện nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, qua đó để người học xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận biện chứng nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Lý luận đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở, nội dung dạy và học lý luận chính trị phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc. Bởi đó là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng: “Trước hết phải lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc”(1). Người nhấn mạnh, việc dạy và học chủ nghĩa Mác - Lênin phải “theo nguyên tắc: kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”(2).
Hai là, phản ánh, biểu đạt những quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quyết sách của Đảng Cộng sản Việt Nam; pháp luật, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng, học viên Trường Đảng phải thấm nhuần đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đường lối, chính sách của Đảng chính là các văn kiện (cương lĩnh, tuyên bố, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, kết luận...) của đại hội Đảng hoặc cơ quan lãnh đạo của Đảng - gọi chung là nghị quyết Đảng. Nghị quyết thể hiện mục tiêu phấn đấu của Đảng; bản chất giai cấp; những quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy định về tổ chức và hoạt động; phương hướng, nhiệm vụ hoạt động trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Nghị quyết là tuyên ngôn, thông điệp chính trị khẳng định vị thế, nền tảng tư tưởng chính trị để đoàn kết, thống nhất lực lượng của Đảng; là ngọn cờ định hướng tư tưởng, hành động của Đảng mà tất cả đảng viên phải thấm nhuần, thực hiện.
Chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm cụ thể hóa các nguyên tắc, phương châm, quyết sách của Đảng thành hệ thống các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Học tập chính cương, chính sách của Đảng cho hiểu mà làm cho đúng tức là thực hành chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính cương và chính sách của Đảng đối với công việc kháng chiến và kiến quốc là áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh của cách mạng ta”(3). Đồng thời, “Có nắm vững đường lối cách mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”(4). Chỉ dạy đó khẳng định, đặc điểm riêng có của chương trình đào tạo, bồi dưỡng ở Trường Đảng phải chú trọng nội dung về đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với tình hình thời sự chính trị hiện tại của đất nước.
Ba là, phản ánh và biểu đạt những nội dung, phương pháp rèn luyện đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở, muốn đạt được mục tiêu lý tưởng của Đảng phải có đội ngũ cán bộ “vừa hồng”, “vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài, trong đó đạo đức là gốc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”(5). Tính cốt yếu của đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh là: trung thành với Đảng và nhân dân; suốt đời phấn đấu vì mục tiêu của Đảng, của cách mạng, của nhân dân; đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ; “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”...
Theo lời dạy của Người, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Vì thế, để có đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, tu dưỡng với nhiều hình thức khác nhau, trong đó có việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện ở Trường Đảng. Học tập lý luận mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết về lý luận chính trị; chỉ có học tập ở nhà trường mới cung cấp nguyên lý, nguyên tắc, phương pháp, cách thức rèn luyện đạo đức cách mạng, từ đó, củng cố niềm tin lý tưởng, nhân sinh quan và các giá trị đạo đức của người cộng sản.
Bốn là, phản ánh, biểu đạt những nội dung về kỹ năng lãnh đạo, quản lý và kinh nghiệm cách mạng trong, ngoài nước.
Khi bàn về tổ chức dạy học trong Trường Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc dạy lý luận chính trị cần chú ý dạy phương pháp công tác, cách lãnh đạo, kinh nghiệm cách mạng trong và ngoài nước.
Dạy phương pháp công tác là: “Phải dạy công tác. Ví dụ: về các việc tổng động viên, thi đua ái quốc, thu thuế bằng thóc, v.v. phải giải thích thế nào cho dân hiểu, phải động viên thế nào, sắp đặt công việc thế nào. Việc thắng lợi ngoại giao vừa rồi, phải xem xét ảnh hưởng đối với ta thế nào, đối với địch thế nào, đối với trong nước thế nào, đối với quốc tế thế nào, làm thế nào để lợi dụng được hết ảnh hưởng của thắng lợi đó. Những việc như thế đều phải dạy cho cán bộ và đồng chí biết”(6).
Dạy cách lãnh đạo: “Lãnh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”(7).
Dạy và học tập kinh nghiệm của các đảng anh em, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo”(8).
2. Tiếp cận về yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy của Trường Đảng hiện nay
Thuật ngữ phương pháp theo tiếng Hy Lạp là “Methodos” có nghĩa là con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích. Từ nghĩa này cho thấy cấu trúc của phương pháp bao gồm những hành động, những phương tiện cần thiết làm biến đổi đối tượng nhằm đạt được mục đích. Sức mạnh của phương pháp là ở chỗ đem lại công cụ có hiệu quả để thực hiện và đạt mục đích. Ph.Bêcơn (1561-1626), nhà triết học người Anh, ví phương pháp như ngọn đuốc soi đường cho người đi trong đêm tối. R.Đêcáctơ (1596-1650), nhà triết học người Pháp khẳng định, chẳng thà không đi tìm chân lý, còn hơn đi tìm chân lý mà không có phương pháp khoa học.
Tổ chức giảng dạy chính là quá trình tương tác giữa người dạy và người học để đạt mục tiêu. Sự tương tác giữa người dạy và người học bằng cách nào và thực hiện tổ chức dạy học ra sao để đạt mục tiêu chương trình đào tạo chính là phương pháp dạy học.
Phương pháp dạy học là những cách thức tổ chức hoạt động giữa người dạy và người học, nhờ đó mà người học đạt được kiến thức, kỹ năng, tư tưởng, thái độ, hình thành phẩm chất, năng lực theo yêu cầu mục tiêu đào tạo, trong điều kiện, môi trường cụ thể. Từ tiếp cận trên, có thể khẳng định, phương pháp dạy học phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản: Mục tiêu đào tạo; chương trình đào tạo; phẩm chất, năng lực người dạy; phẩm chất, năng lực người học; môi trường học tập; phương tiện dạy học.
Đối với Trường Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”(9); “Trường Đảng là một trường học để đào tạo những chiến sĩ tiên tiến phấn đấu cho sự nghiệp của giai cấp vô sản. Các đồng chí đều là những cán bộ cốt cán của Đảng. Việc học tập lý luận của các đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn”(10); “Không nên học gạo, không nên học vẹt”(11). Mà phải: “Học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”(12).
Trở lại nguyên tắc dạy học mácxít, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức giảng dạy ở Trường Đảng, đó là lý luận phải gắn liền với thực tiễn; học đi đôi với hành, học tập gắn rèn luyện. Trong bài diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phương pháp giảng dạy và học tập ở Trường Đảng là: “Dùng lý luận đã học được để phân tích những thắng lợi và thất bại trong công tác, những mặt đúng mặt sai trong tư tưởng, phân tích một cách toàn diện và tìm nguồn gốc đúng sai về lập trường, quan điểm và phương pháp của mình. Làm như thế là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn”(13). Như thế, phương pháp giảng dạy ở Trường Đảng là tăng cường thảo luận, đối thoại, định hướng tư tưởng, tăng cường sử dụng nguyên tắc tự phê bình và phê bình để cải tạo phương pháp học tập của bản thân, tránh lối dạy truyền thụ, nhồi nhét, giáo điều, sách vở, xa rời thực tiễn; đồng thời, chú trọng phương pháp rèn luyện phong cách, bản lĩnh người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm hướng tới rèn luyện bản lĩnh chính trị, kỹ năng giải quyết những tình huống khó, phức tạp trong lãnh đạo, quản lý; cần có những phương pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời.
Với yêu cầu trên, Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 26 tháng 5 năm 2014, về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhấn mạnh, đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm. Với yêu cầu đó, đổi mới phương pháp dạy học được triển khai theo cách thức sau:
Một là, đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua hoạt động của người học. Người dạy không chỉ truyền đạt tri thức một chiều, mà còn hướng dẫn, dẫn dắt để cho học viên trao đổi, thảo luận nhiều hơn, từ đó học viên nắm được kiến thức, chuyển thành kỹ năng, hình thành phẩm chất, năng lực cần thiết đáp ứng mục tiêu của chuyên đề, môn học, chương trình đào tạo.
Hai là, kết hợp rèn luyện phương pháp tự học. Yêu cầu rèn luyện phương pháp, kỹ năng học cho người học không chỉ là biện pháp mà là mục tiêu của quá trình đào tạo. Trong cách thức tổ chức dạy học, giảng viên rèn cho người học kỹ năng, thói quen, ý chí và tính chủ động khám phá tri thức thông qua các bài tập tình huống, các vấn đề thực tiễn, các hoạt động ngoài giờ lên lớp để dần hình thành phương pháp, phong cách học tập suốt đời.
Ba là, tăng cường học tập cá thể với học tập tập thể. Thông thường, trình độ về nhận thức, kỹ năng, thái độ, tư tưởng của người học không đồng đều. Chính quá trình kết hợp học tập giữa cá nhân với nhóm thông qua thảo luận, tranh luận cùng sự định hướng của giảng viên là cơ sở chia sẻ tri thức, chiếm lĩnh mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, tư tưởng của chuyên đề, môn học, chương trình đào tạo.
Bốn là, kết hợp đánh giá của người dạy với tự đánh giá người học. Việc đánh giá tổ chức dạy - học có nhu cầu tự thân, bởi lẽ việc đánh giá không chỉ điều chỉnh quá trình dạy mà còn điều chỉnh quá trình học. Với yêu cầu phát triển phẩm chất, năng lực cho người học theo mục tiêu chương trình hiện nay, giảng viên không thể giữ độc quyền trong đánh giá mà cần có sự hướng dẫn người học phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học sao cho phù hợp với mục tiêu đào tạo; đồng thời, hình thành cho người học phương pháp tự đánh giá nhằm điều chỉnh bản thân trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Như vậy, nhận diện đặc điểm chương trình đào tạo, bồi dưỡng gắn với yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những nội dung cơ bản thể hiện bản chất Trường Đảng. Từ đây gợi lên những suy nghĩ về việc đổi mới mô hình đào tạo, tiêu chuẩn, tiêu chí đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên và xây dựng môi trường văn hóa Trường Đảng.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2020
(1), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.359, 357.
(2), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.312, 325.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.218.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.113.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.354.
(8), (9), (10), (11), (12), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.92, 90, 95, 402, 95, 96.
Tài liệu tham khảo:
1. Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09 tháng 02 năm 2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
2. Học viện Chính trị khu vực I: Dạy tốt, học tốt lý luận chính trị ở Học viện Chính trị khu vực I theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2018.
3. Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 70 năm truyền thống Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, www.hcma.vn.
4. Trần Khánh Đức (chủ biên), Quản lý đào tạo và Quản trị nhà trường hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2019.
Nguồn: PGS, TS Nguyễn Vĩnh Thanh
TS Vũ Văn Hậu
Học viện Chính trị khu vực I
Nâng cao bản lĩnh chính trị của sinh viên hiện nay (qua khảo sát tại các trường đại học vùng Bắc Trung Bộ)
(LLCT) - Bản lĩnh chính trị của sinh viên là tổng hòa những tri thức chính trị, ý chí chính trị và niềm tin chính trị. Nâng cao bản lĩnh chính trị của sinh viên không chỉ tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, mà còn rèn luyện khả năng kiên trì vượt qua mọi khó khăn, thách thức để đạt đến mục tiêu. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị của sinh viên các trường đại học vùng Bắc Trung Bộ hiện nay.
1. Bản lĩnh chính trị của sinh viên
Bản lĩnh chính trị là phẩm chất quan trọng hàng đầu cần phải có của sinh viên. Bản lĩnh chính trị là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho mỗi người có định hướng chính trị đúng đắn, luôn làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh thực tiễn và kiểm soát được hành vi, thái độ của mình trong mọi tình huống. Đó chính là sự vững vàng, kiên định, chủ động trong cả suy nghĩ và hành động trước những khó khăn, thách thức của cuộc sống. Như V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Nếu trong thời kỳ đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp vô sản không rèn luyện cho mình một tinh thần giác ngộ cao, một tính kỷ luật cao, một lòng trung thành cao độ, tức là những đức tính cần thiết để đảm bảo cho giai cấp vô sản giành chiến thắng hoàn toàn kẻ thù truyền kiếp của mình thì không thể nói đến chuyên chính vô sản được”(1). Bản lĩnh chính trị của sinh viên bao gồm tổng hợp biện chứng của nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ, nhiều thuộc tính vốn có từ ba bộ phận cơ bản cấu thành đó là tri thức chính trị, ý thức chính trị và niềm tin chính trị. Ba yếu tố này có sự thống nhất, phát triển, tạo nên trạng thái chính trị bền vững, ổn định, bảo đảm tính định hướng chính trị đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn xã hội.
Sinh viên là lực lượng tạo nguồn cho đội ngũ trí thức, chính họ sẽ là những người quyết định tương lai và vận mệnh của đất nước sau này. Đại hội đại biểu Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ X (2018) đề ra mục tiêu “Xây dựng lớp sinh viên thời kỳ mới có lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có trách nhiệm với Tổ quốc…”. Do đó, nâng cao bản lĩnh chính trị là yêu cầu và trách nhiệm của các trường đại học, các tổ chức chính trị-xã hội và của bản thân mỗi sinh viên.
2. Một số kết quả đạt được trong việc nâng cao bản lĩnh chính trị của sinh viên hiện nay
Vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam gồm có 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Trong đó, 5 tỉnh có trường đại học (trừ tỉnh Quảng Trị). Sinh viên các trường đại học vùng Bắc Trung Bộ do những tác động của những yếu tố lịch sử, địa lý và xu thế phát triển của thời đại đã tạo nên đặc trưng riêng biệt, rất dễ phân biệt với sinh viên các vùng khác trong nước. Trong những năm qua, các trường đại học vùng Bắc Trung Bộ chú trọng nâng cao tri thức chính trị, rèn luyện ý chí và bồi dưỡng niềm tin của sinh viên để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của khu vực và cả nước. Nhằm làm sáng tỏ thực trạng bản lĩnh chính trị của sinh viên hiện nay, tác giả đã tiến hành điều tra xã hội học ở 05 trường đại học(3). Kết quả điều tra cho thấy, việc nâng bản lĩnh chính trị của sinh viên các trường đại học vùng Bắc Trung Bộ đạt nhiều kết quả tích cực, cụ thể như sau:
Thứ nhất, sinh viên tích cực rèn luyện tri thức chính trị
Các trường đại học vùng Bắc Trung Bộ chú trọng trang bị tri thức khoa học nền tảng cho sinh viên trước và trong khi tiếp cận các tri thức khoa học chuyên ngành. Nhờ đó, sinh viên nắm vững các quan điểm, học thuyết chính trị, những hiểu biết căn bản về hệ tư tưởng chính trị trong lịch sử, lý thuyết xây dựng các thể chế, lý thuyết xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách. Đặc biệt, đa số sinh viên đều nhận thức cao về sự cần thiết của việc học tập các môn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (có 81% sinh viên được hỏi khẳng định mức độ rất cần thiết của các môn học này). Điều đó cho thấy tính đúng đắn của công tác định hướng tư tưởng cho sinh viên ở các trường. Bên cạnh đó, có 67% sinh viên khẳng định thường xuyên tham gia sinh hoạt Đoàn, Hội và quan tâm, tham gia ngày càng nhiều đến những vấn đề chính trị - xã hội của đất nước, của địa phương và nhà trường. Từ thực tiễn hoạt động Đoàn, Hội đã xuất hiện nhiều tấm gương “Sinh viên 5 tốt”, “Sao tháng Giêng”, sinh viên sống đẹp, sinh viên đạt thành tích xuất sắc trong học tập, sáng tạo, nghiên cứu khoa học; nhiều sinh viên được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng, góp phần hình thành thế hệ sinh viên có bản lĩnh, có khát vọng vươn lên, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, chủ động và tự tin trong hội nhập quốc tế.
Thứ hai, sinh viên tích cực rèn luyện ý chí chính trị
Hầu hết sinh viên đều thể hiện tính độc lập và chủ động trong tư duy và hành động. Sinh viên đã mạnh dạn dấn thân vào những hoạt động xã hội mang lại thay đổi tích cực cho bản thân như các câu lạc bộ chuyên môn, câu lạc bộ tình nguyện, câu lạc bộ sở thích, năng khiếu… với quy mô và không gian ngày càng mở rộng. Ngoài ra, sinh viên một số trường còn tham gia các dự án lớn nhỏ với mục tiêu hướng nghiệp việc làm vừa có giá trị thực tiễn lại vừa mang lợi ích trực tiếp cho cộng đồng. Năm 2019, sinh viên Trường Đại học Hồng Đức được đánh giá ý tưởng xuất sắc khi tham dự “Ngày hội khởi nghiệp Quốc gia”. Trường Đại học Vinh từ năm 2015-2020 đã tổ chức hơn 80 chương trình hội thảo, hội nghị, các diễn đàn tư vấn cho sinh viên; triển khai 7 khóa đào tạo về “Khởi sự kinh doanh”; tổ chức hàng chục khóa đào tạo kỹ năng mềm, tập huấn “Thương mại điện tử” và Talk Show… Qua đó, sinh viên được định hướng, tư vấn, hỗ trợ và giới thiệu việc làm trong quá trình học tập và sau khi tốt nghiệp, tạo niềm tin và quyết tâm thực hiện những mục tiêu đã đề ra.
Thứ ba, sinh viên tích cực rèn luyện niềm tin chính trị
Niềm tin chính trị là yếu tố cốt lõi hình thành nên bản lĩnh chính trị của sinh viên dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa tri thức chính trị và ý chí chính trị. Kết quả khảo sát cho thấy, đa số sinh viên các trường đại học vùng Bắc Trung Bộ tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Sự khác nhau tương đối rõ giữa mức độ “Rất tin tưởng” là 83,7% sinh viên với “Không tin tưởng lắm” là 5,3% sinh viên cho thấy sinh viên đã xây dựng niềm tin đúng đắn bằng tình cảm và lý trí của mình. Đây là điều hoàn toàn trái ngược với những con người không có niềm tin chính trị hay sự thờ ơ, không quan tâm tới những vấn đề chính trị - xã hội của đất nước.
Niềm tin chính trị của sinh viên thể hiện ở nhận thức chính trị tích cực. Sinh viên đã ý thức được những phẩm chất cần cù, chịu khó, tinh thần ham học và hiếu học vốn là biểu tượng đặc trưng của văn hóa Bắc Trung Bộ là những yếu tố quyết định đến sự thành đạt cá nhân. Bởi vậy, có 67% sinh viên khẳng định yếu tố quyết định kết quả trưởng thành của sinh viên hiện nay là nỗ lực cá nhân. Niềm tin chính trị tạo động lực cho sinh viên tích cực rèn luyện và phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Trong 5 năm qua, tổ chức Đảng trong các Trường Đại học vùng Bắc Trung Bộ đã kết nạp được hơn 2.000 sinh viên vào Đảng. Với niềm tin và lòng tự hào trước những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 90 năm qua, có 89,9% sinh viên được hỏi khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3. Một số hạn chế và vấn đề đặt ra về bản lĩnh chính trị của sinh viên
Tuy đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng việc rèn luyện bản lĩnh chính trị của sinh viên các trường đại học vẫn còn có những hạn chế, đó là: Thứ nhất, một bộ phận sinh viên chưa thực sự quan tâm đến đời sống chính trị, thậm chí có những nhận thức sai lệch về tình hình chính trị của đất nước, về vai trò lãnh đạo của Đảng, hoài nghi vào sự thành công của con đường đi lên CNXH …do bị tác động bởi những thông tin “xấu”, “độc”, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; dẫn đến những phát ngôn và hành động thiếu chuẩn mực cả trong đời sống sinh hoạt hàng ngày lẫn trên mạng xã hội. Thứ hai, việc xác định mục đích học tập chưa rõ ràng do không có chính kiến khi chọn nghề hoặc chọn sai nghề đã có những tác động không nhỏ đến động cơ học tập của sinh viên. Thứ ba, không ít sinh viên thờ ơ với những hoạt động mang tính cộng đồng, không tham gia các phong trào do Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên tổ chức.
Ngược dòng thời gian vài thập niên trước đây, được đứng vào hàng ngũ của Đảng là mong muốn và khát khao của đại bộ phận giới trẻ thì ngày nay, một bộ phận sinh viên không tha thiết phấn đấu trở thành đảng viên. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ kết nạp đảng viên chưa tương xứng với lực lượng sinh viên hiện có. Do đó, tình trạng “khô Đảng”, “nhạt Đảng” trong những năm gần đây là một thực trạng đáng báo động trong tư tưởng, nhận thức chính trị của một bộ phận sinh viên.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó trước hết là xu thế toàn cầu hóa và mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống và hành vi của sinh viên. Bên cạnh đó, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch gây khó khăn đối với công tác định hướng giáo dục bản lĩnh chính trị sinh viên. Khi đời sống kinh tế, xã hội ngày càng phát triển, sự đầy đủ về vật chất và tinh thần, dưới một góc độ nào đó cũng làm ảnh hưởng đến ý chí phấn đấu của một bộ phận sinh viên. Sự yếu kém và hạn chế về bản lĩnh chính trị cũng bắt đầu từ chính bản thân sinh viên. Sinh viên với đặc điểm là lứa tuổi đang đạt đến sự hoàn thiện về thể chất và tinh thần, có đời sống tâm lý phong phú và nhu cầu cá nhân đa dạng. Tuy nhiên, nhược điểm của lứa tuổi này là thiếu thực tế, chủ quan, chuộng hình thức, rất dễ bị tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường.
Trước thực trạng bản lĩnh chính trị của sinh viên các trường đại học hiện nay, đặt ra một số vấn đề cần quan tâm đó là:
Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao bản lĩnh chính trị nhằm xây dựng người sinh viên phát triển toàn diện với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số sinh viên. Hiện nay, một bộ phận sinh viên có động cơ, thái độ học tập chưa đúng đắn, chưa tự giác học tập và rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Một bộ phận sinh viên học chỉ mong sao có bằng cấp, chưa thực sự quan tâm đến việc tích lũy kiến thức chuyên môn để khi ra trường phục vụ công việc. Vẫn còn một bộ phận sinh viên thờ ơ với tình hình chính trị của đất nước, ngại tham gia các hoạt động xã hội, lập trường tư tưởng không vững vàng, mờ nhạt về lý tưởng, lối sống buông thả, chạy theo đồng tiền và những thị hiếu tầm thường, dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội.
Hai là, mâu thuẫn giữa phát huy bản lĩnh chính trị của sinh viên với hiện thực cuộc sống đang diễn biến phức tạp. Ở nhà trường, trên lớp học, trong gia đình, qua các phong trào sinh hoạt Đoàn, Hội, sinh viên được nghe thuyết giảng những vấn đề lý luận về tri thức khoa học, về lý tưởng, niềm tin, ý chí và khát vọng phát triển đất nước... Thế nhưng thực tiễn cuộc sống có những hiện tượng, sự việc trái ngược lại với những điều đã học, làm cho không ít sinh viên hụt hẫng, mất niềm tin. Những mâu thuẫn này đang hàng ngày, hàng giờ tác động trực tiếp đến bản lĩnh chính trị của sinh viên.
Ba là, mâu thuẫn giữa nhu cầu việc làm đối với sinh viên sau khi ra trường với thị trường lao động ngày càng có sự cạnh tranh khốc liệt. Mong muốn của sinh viên sau khi ra trường là tìm kiếm được việc làm phù hợp với kiến thức đã được học nhưng thực tế là nhiều sinh viên không tìm được việc làm đúng chuyên môn hay lương quá thấp không đủ trang trải nhu cầu cuộc sống… Điều này đã và đang gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, trong đó, không chỉ gây lãng phí rất lớn nguồn lực mà còn ảnh hưởng đến niềm tin của sinh viên.
4. Một số giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị của sinh viên hiện nay
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sinh viên. Đây là vấn đề quan trọng, mang tính quyết định việc nâng cao bản lĩnh chính trị cho sinh viên. Thực hiện tốt công tác này là nhằm định hướng chính trị, cơ sở pháp lý để các trường đại học, cao đẳng nói chung, các trường đại học ở các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng triển khai đúng hướng nhiệm vụ giáo dục và đào tạo cho thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước. Để sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sinh viên có hiệu quả cao, trước hết các trường đại học cần đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ; trong đó, chú trọng nâng cao nhận thức cho sinh viên về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Muốn vậy, các trường cần tích cực đổi mới cả về nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng: ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực đào tạo nhằm từng bước thẩm thấu, nâng cao nhận thức của sinh viên. Qua đó, một mặt vừa tạo sự hứng khởi cho sinh viên trong nắm bắt, tiếp thu các vấn đề chính trị, mặt khác, tạo cho sinh viên thói quen quan tâm tới tình hình chính trị, biết phân biệt đúng sai, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng và quan trọng hơn là có trách nhiệm với tình hình chính trị của đất nước, được thể hiện bằng hành động cụ thể.
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của nhà trường, nhằm tạo lập ý thức trách nhiệm của sinh viên đối với bản thân, nhà trường và xã hội. Cần tiếp tục chú trọng bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thế giới quan cách mạng, nhân sinh quan đúng đắn, làm cho lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào từng sinh viên, giúp sinh viên hăng hái học tập, tích cực rèn luyện, sẵn sàng đảm nhiệm những nhiệm vụ to lớn mà công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra. Trong giai đoạn hiện nay, các trường đại học cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận chính trị, trong đó cần chú ý nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của người giảng viên. Bên cạnh đó, cần triển khai có hiệu quả Kết luận 94-KL/TW ngày 28-3-2014 của Ban Bí thư về “Tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”.
Ba là, chú trọng giáo dục truyền thống tốt đẹp của quê hương, của dân tộc, nhằm bồi dưỡng tình cảm đúng đắn cho sinh viên. Bắc Trung Bộ là vùng đất có truyền thống văn hóa đặc trưng với nhiều giá trị tốt đẹp, người dân nơi đây có truyền thống lao động cần cù, siêng năng, chịu thương chịu khó, ham học và hiếu học… với một ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ. Các trường đại học cần khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và tự cường của con người Bắc Trung Bộ, tinh thần vượt khó, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học, xây dựng ý thức tập thể, ý thức cộng đồng và trách nhiệm xã hội cho sinh viên; giáo dục truyền thống cần cù, tiết kiệm cho sinh viên để rèn luyện tình yêu lao động, tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện, xã hội, rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho sinh viên trong thời đại công nghệ 4.0.
Bốn là, phát huy vai trò trách nhiệm của tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong nâng cao bản lĩnh chính trị của sinh viên. Tổ chức Đoàn, Hội cần tăng cường giáo dục bản lĩnh chính trị cho sinh viên bằng nhiều hình thức phong phú và đa dạng, trong đó gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, định hướng cho sinh viên rèn luyện, phấn đấu theo tiêu chí “sinh viên 5 tốt”. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” do Trung ương Đoàn phát động một cách sáng tạo, hiệu quả để trở thành nội dung xuyên suốt trong công tác giáo dục của Đoàn, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của đại bộ phận sinh viên.
Năm là, tăng cường tổ chức các hoạt động thực tiễn, trong đó cần đặc biệt nêu những tấm gương tiêu biểu để tạo sức lan tỏa, khơi dậy ý chí, khát vọng cho sinh viên. Các trường đại học cần chú ý tính định hướng tư tưởng cho sinh viên, đồng thời cần quan tâm hơn nữa đến đặc thù tâm lý lứa tuổi, tránh nặng nề, khô cứng nhưng cũng không hời hợt, thiếu chiều sâu trong giáo dục chính trị. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục và dư luận xã hội để khuyến khích hay phê phán để các chủ thể tự giác điều chỉnh hành vi của mình theo các chuẩn mực, giá trị của đạo đức xã hội. Tổ chức Đoàn, Hội sinh viên cần chủ động, tích cực đẩy mạnh nêu gương từ cách làm việc, sự cống hiến vì cộng đồng, lối sống đẹp của những cá nhân hay những công trình, phần việc có ý nghĩa của những tập thể để truyền cảm hứng, cũng cố niềm tin cho sinh viên.
Sáu là, phát huy vai trò cá nhân tự rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị. Để có sự chuyển hóa từ tri thức, ý chí, niềm tin thành bản lĩnh chính trị đòi hỏi quá trình tự rèn luyện của bản thân sinh viên theo định hướng từ các chủ thể giáo dục. Quá trình này có thể được coi là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do sinh viên tiến hành trên lớp hoặc ngoài lớp theo hoặc không theo chương trình và giáo trình quy định. Tuy nhiên, để quá trình rèn luyện đạt kết quả tốt cần thiết có sự tự nguyện, tự giác theo ý thức tích cực của sinh viên, hay đó là quá trình “tự thân vận động” biến “quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục”.
Bảy là, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong sinh viên. Phát triển đảng viên trong sinh viên không những góp phần bổ sung nguồn sinh lực, trí lực cho Đảng, mà qua đó còn củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho sinh viên. Đảng ủy, ban giám hiệu các trường đại học cần đặc biệt quan tâm đến công tác tạo nguồn, bồi dưỡng, xét kết nạp sinh viên ưu tú vào Đảng. Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò nòng cốt của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong công tác phát hiện, bồi dưỡng sinh viên ưu tú cho Đảng.
Tám là, các trường đại học cần định hướng đào tạo ngành nghề đáp ứng nhu cầu xã hội. Nước ta đang có những bước chuyển mạnh mẽ trong xu thế hội nhập và phát triển, vì vậy, sinh viên cần mạnh dạn thay đổi nhận thức, từ “người tìm việc”, “việc có sẵn” sang “việc tìm người”, “việc linh hoạt”, “việc có sẵn”. Mỗi sinh viên trước khi bước chân vào giảng đường đại học phải xác định niềm đam mê, khả năng của mình phù hợp với chuyên ngành nào và tình hình sử dụng chuyên ngành đó ở nơi mình dự định làm việc. Bên cạnh đó, các trường đại học, các địa phương cần có những định hướng, giải pháp đồng bộ trong việc tạo việc làm cho sinh viên sau khi ra trường như cho vay vốn giải quyết việc làm; các hoạt động dịch vụ việc làm; hoạt động xuất khẩu lao động; hoạt động thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; gắn với hoạt động đào tạo nghề, truyền nghề, truyền bá các kinh nghiệm sản xuất - kinh doanh... Bên cạnh đó, cần tăng cường sự kết nối giữa nhà trường với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng chuẩn đầu ra; phối hợp giữa các ngành, tổ chức giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2021
(1) V.I. Lênin: Toàn tập, t.43, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.474.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.162.
(3) Trường Đại học Hồng Đức (tỉnh Thanh Hóa); Trường Đại học Vinh (tỉnh Nghệ An); Trường Đại học Hà Tĩnh (tỉnh Hà Tĩnh); Trường Đại học Quảng Bình (tỉnh Quảng Bình); Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế).
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Chỉ thị số 42-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”.
(2) Đảng ủy Trường Đại học Hồng Đức: Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Hồng Đức nhiệm kỳ 2020-2025.
(3) Đảng ủy Trường Đại học Vinh: Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Vinh nhiệm kỳ 2020-2025.
(4) Đảng ủy Trường Đại học Hà Tĩnh: Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2020-2025.
(5) Đảng ủy Trường Đại học Quảng Bình: Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Quảng Bình nhiệm kỳ 2020-2025.
(6) Đảng ủy Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế: Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế nhiệm kỳ 2020-2025.
(7) Hội sinh viên Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam lần thứ X (nhiệm kỳ 2018-2023), Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2019.
(8) Trần Thành: Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
nguồn: ThS Trần Thị Thúy
Trường Chính trị tỉnh Nghệ An
Giải pháp tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường chính trị
(LLCT) - Nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng của đội ngũ giảng viên các trường chính trị. Trước yêu cầu nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy đòi hỏi cần có những giải pháp cụ thể, thiết thực tăng cường tính chuyên môn của công tác này. Từ thực trạng công tác nghiên cứu khoa học của Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học, trong đó hoạt động báo cáo chuyên đề có ý nghĩa then chốt.
Trong những năm qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường đã ban hành nhiều văn bản quy định cụ thể về thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn ở địa phương, cơ sở. Từ năm 2010 đến nay, hoạt động nghiên cứu khoa học về tổng kết thực tiễn địa phương của đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường đã đạt nhiều kết quả tích cực:
Thực hiện sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu về thực hiện công tác nghiên cứu khoa học, tất cả đội ngũ cán bộ, giảng viên tích cực thực hiện đề tài khoa học các cấp, tham gia hội thảo khoa học ở phạm vi trong và ngoài tỉnh, tổ chức tọa đàm ở cơ sở... nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của Trường, của địa phương. Cán bộ, giảng viên nhà trường đã đăng ký, triển khai nghiên cứu và bảo vệ thành công 1 đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh và được hỗ trợ từ ngân sách nghiên cứu khoa học của tỉnh (đề tài: Nghiên cứu biên soạn chuyên khảo về địa phương học Đồng Tháp, 2010), để làm tài liệu cho giảng viên soạn giáo trình giảng dạy trong chương trình Trung cấp chính trị - hành chính và cũng là tài liệu tham khảo cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng; học sinh trung học phổ thông; nhân dân trong tỉnh và những người quan tâm đến Đồng Tháp. Ngoài ra, Trường đang tiến hành thực hiện Đề tài: Những nhân tố ảnh hưởng đến sự vận động của hệ thống chính trị các cấp ở Tỉnh Đồng Tháp.
Trong thời gian qua, cán bộ và giảng viên các phòng, khoa của Trường đã tích cực triển khai, thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học và đưa vào ứng dụng 4 đề tài khoa học cấp cơ sở.
Hoạt động nghiên cứu thực tế của cán bộ, giảng viên được tổ chức, tiến hành và duy trì thường xuyên. Thông qua nghiên cứu thực tế đã giúp cho cán bộ, giảng viên nắm bắt được tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa ở địa phương, các kỹ năng xử lý tình huống nảy sinh trong thực tế. Nhiều giảng viên chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện nghiêm túc việc nghiên cứu thực tế ở cơ sở.
Hàng năm, Ban Giám hiệu đã chỉ đạo Phòng Quản lý đào tạo - nghiên cứu khoa học phối hợp với các phòng, khoa nhà trường và các đơn vị, sở, ban, ngành đoàn thể trong tỉnh tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học. Nội dung, chủ đề của các hội thảo tập trung bám sát chức năng, nhiệm vụ nhà trường, các sự kiện lịch sử của đất nước, thực tiễn đời sống xã hội ở địa phương nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, cung cấp những luận cứ khoa học, bổ sung kiến thức lý luận, thực tiễn vào bài giảng cho đội ngũ giảng viên.
Viết bài đăng báo và xuất bản Nội san là hoạt động khoa học quan trọng, thường xuyên của cán bộ, giảng viên của nhà trường nhằm công bố kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, qua đó trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao khả năng nghiên cứu tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn. Đảng uỷ, Ban Giám hiệu nhà trường luôn chỉ đạo thực hiện viết bài, biên tập, in và phát hành Nội san nhân dịp kỷ niệm các ngày Lễ, sự kiện chính trị hàng năm. Các bài viết đã phản ánh khá toàn diện kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và các hoạt động, lĩnh vực công tác của nhà trường và của địa phương.
Đồng thời, cán bộ, giảng viên của nhà trường thường xuyên viết bài đăng các báo, tạp chí ở Trung ương và địa phương như: Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Xây dựng Đảng, Thông tin công tác các trường chính trị, Thông tin khoa học và công nghệ tỉnh Đồng Tháp... Ngoài ra, cán bộ, giảng viên của nhà trường tham gia viết trên 185 bài trên Website Trường...
Tuy nhiên, trong những năm qua, công tác nghiên cứu khoa học của Trường vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế như:
Hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn tại Trường chưa đạt được hiệu quả, số lượng công trình nghiên cứu khoa học các cấp chưa nhiều; Năng lực nghiên cứu của một số giảng viên còn hạn chế, như ít tham gia thực hiện đề tài khoa học, viết bài tham luận, bài đăng trên tạp chí và ngại đi nghiên cứu thực tế...
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế là: Thứ nhất, một số giảng viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học. Số giảng viên có khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu đa phần là lãnh đạo, quản lý đơn vị nên quỹ thời gian dành cho nghiên cứu thường không nhiều; các giảng viên trẻ có tâm huyết, đam mê nghiên cứu nhưng chưa có kinh nghiệm nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu khoa học; Thứ hai, thiếu tính năng động, chủ động trong việc tìm kiếm các thông tin liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học; Thứ ba, kinh phí dành cho công tác nghiên cứu khoa học tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng chưa tương xứng với chất xám vì tính chất của hoạt động nghiên cứu khoa học.
Từ thực tiễn, để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học về tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Chính trị, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường phải bám sát sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, công tác nghiên cứu khoa học. Để có cơ sở định hướng công tác nghiên cứu khoa học về tổng kết thực tiễn ở địa phương đạt hiệu quả hơn.
Hai là, nhà trường cần tăng cường công tác phối hợp với các sở, ban ngành, các đoàn thể, các huyện, thành phố đối với hoạt động nghiên cứu khoa học. Khuyến khích giảng viên nêu ý tưởng, đề tài nghiên cứu, chủ đề hội thảo khoa học để góp phần phục vụ trực tiếp, hiệu quả cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Ba là, để nâng cao chất lượng khoa học của đề tài khoa học các cấp, những bài báo cáo thực tế, tham luận hội thảo, bài báo khoa học, đề xuất mô hình “báo cáo chuyên đề” trong hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường. Cụ thể: Đầu năm học, trưởng đơn vị (khoa, phòng của trường) xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn, phân công giảng viên báo cáo chuyên đề theo từng tháng - việc phân công cần căn cứ vào lĩnh vực nghiên cứu, chuyên môn của giảng viên hoặc để giảng viên đăng ký chuyên đề báo cáo. Khi họp chuyên môn hàng tháng, giảng viên được phân công có nhiệm vụ:
Bước 1 (B1): Từ ngày 1 - 5 hàng tháng, người được phân công báo cáo gửi chuyên đề đến các thành viên trực thuộc đơn vị để đọc và nghiên cứu. Người được báo cáo chuyên đề cần chuẩn bị kỹ lưỡng và viết chuyên đề báo cáo dưới dạng 1 bài báo khoa học.
Bước 2 (B2): Từ ngày 6 - 14 hàng tháng thực hiện tổ chức góp ý báo cáo chuyên đề. Việc góp ý phải trên tinh thần cùng nhau đạt được mục đích chung là lĩnh hội tri thức và tập trung vào các nội dung cụ thể như: nội dung, phương pháp nghiên cứu; phạm vi, đối tượng nghiên cứu; tính cấp thiết của báo cáo.
Bước 3 (B3): Ngày 15 hàng tháng, người báo cáo thực hiện việc báo cáo chuyên đề, tiếp nhận ý kiến các thành viên trong đơn vị, đồng thời có thể phản biện lại các ý kiến đó. Đóng góp và phản biện phải mang tính khoa học, logic và lý luận.
Bước 4 (B4): Từ ngày 16 - 30 hằng tháng (cuối tháng), người báo cáo có nhiệm vụ chỉnh sửa theo ý kiến đóng góp của các thành viên trong đơn vị (nếu có), viết tóm tắt bằng tiếng Việt và Anh theo một thể thức bài báo khoa học nhằm gửi bài báo đến tạp chí liên quan.
Bước 5 (B5): Sau khi chỉnh sửa, bổ sung hoàn chỉnh, người báo cáo gửi lại chuyên đề cho thư ký đơn vị để lưu giữ và cá nhân tự gửi cho các tạp chí liên quan để công bố hoạt động nghiên cứu khoa học của mình. Thời gian gửi lại báo cáo chuyên đề là đầu tháng sau khi báo cáo (từ tháng 1- tháng 5 sau khi báo cáo).
Hoạt động nghiên cứu khoa học của đơn vị được luân chuyển xoay vòng sang các thành viên trong đơn vị.
Ở một cơ sở giáo dục đại học, trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên có hai nhiệm vụ trọng tâm không thể tách rời đó là: giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Giảng dạy sẽ giúp cho hoạt động nghiên cứu khoa học được nâng cao hơn bởi vì thông qua hoạt động giảng dạy người thầy sẽ thấy được “vấn đề nghiên cứu”, những khó khăn, vướng mắc, khoảng trống trong bài giảng, từ đó tìm ra hướng nghiên cứu, giải quyết vấn đề để có những bài giảng sinh động, chất lượng cao, giúp học viên hiểu rõ vấn đề hơn. Hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ nâng cao được trình độ chuyên môn của giảng viên; nghiên cứu khoa học giảng viên sẽ tìm tòi, phát hiện những tri thức mới. Như vậy, hoạt động giảng dạy và nghiên cứu có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau.
Bốn là, nhằm vận dụng những kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên vào công tác giảng dạy, Phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin tư liệu cần thường xuyên sơ kết, tổng kết đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học (hàng năm hoặc 3 năm) của đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường. Trên cơ sở đó, thông qua hội đồng khoa học nhà trường xét duyệt những công trình khoa học được công bố có giá trị; đồng thời, công nhận những kết quả nghiên cứu, biên soạn và công bố những công trình khoa học có giá trị ứng dụng thực tiễn của đội ngũ cán bộ, giảng viên. Đây chính là nguồn tư liệu phục vụ việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy của học viên, giảng viên.
Năm là, đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường phải thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, kỹ năng nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn. Đồng thời, mỗi giảng viên cần tích cực, sáng tạo trong quá trình nghiên cứu thực tế, nắm bắt kịp thời tình hình kinh tế - xã hội địa phương. Giảng viên cần lựa chọn những chủ đề phù hợp với chương trình môn học đang đảm nhiệm, tập trung vào chương trình đề án phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, có cơ sở để khảo sát, đánh giá sát với vấn đề thực tiễn đang diễn ra ở địa phương. Từ đó, đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần xử lý có hiệu quả những hạn chế, khó khăn đang diễn ra tại địa phương, đơn vị.
Ngoài ra, giảng viên cần chủ động khai thác thông tin chính thống trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, internet,...) để có thông tin đa chiều, rộng lớn đã được chọn lọc, phân tích. Đây là nguồn thông tin quan trọng giúp giảng viên có thêm nguồn dữ liệu bổ sung, phục vụ nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn.
Sáu là, nhà trường cần có cơ chế động viên, khích lệ hoạt động nghiên cứu khoa học đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn một cách có hiệu quả nhất. Thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực khoa học của nhà trường, theo đó các đơn vị khoa, phòng rà soát đội ngũ cán bộ phát hiện các cán bộ, giảng viên có năng lực nghiên cứu để bồi dưỡng, chia sẽ, giúp đỡ, từng bước phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên vững vàng về chuyên môn, có năng lực nghiên cứu khoa học, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nguồn: TS Lê Minh Hiếu
TS Nguyễn Phước Tài
Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp
Học viện Chính trị khu vực IV - 15 năm xây dựng và phát triển
(LLCT) - Năm 2021, Học viện Chính trị khu vực IV kỷ niệm 15 xây dựng và trưởng thành. Bài viết khái lược lại chặng đường 15 năm, những kết quả đạt được và những hạn chế, nguyên nhân, đề ra giải pháp thực hiện thành công mục tiêu phát triển đến năm 2025 và tầm nhìn 2035.
1. Vượt qua gian khó, định hình trung tâm nghiên cứu, đào tạo lý luận chính trị khu vực
Học viện Chính trị khu vực IV (Học viện IV) được thành lập ngày 18-4-2006 theo Quyết định số 534/QĐ-HVCTQG ngày 30-3-2006 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia (CTQG) Hồ Chí Minh. Trải qua 15 năm, với tinh thần đoàn kết phấn đấu, nỗ lực khắc phục khó khăn, gian khổ của đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên, với sự quan tâm, giúp đỡ, động viên của Lãnh đạo Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các đơn vị trực thuộc Học viện, các cơ quan Trung ương và các địa phương khu vực Tây Nam Bộ, Học viện IV đã từng bước xây dựng trở thành trung tâm nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị tại khu vực Tây Nam Bộ.
Cách đây 15 năm, Học viện IV ra đời, là đơn vị được thành lập hoàn toàn mới: không cơ sở vật chất, không trường, không lớp, không giảng viên... Tổ chức bộ máy ban đầu chỉ có 3 cán bộ, phải thuê văn phòng. Lực lượng cán bộ dần hình thành bằng việc thu hút cán bộ từ nhiều ban, ngành của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và sự chi viện của Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
Khó khăn hơn bởi Học viện IV ra đời trong bối cảnh cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu những năm 2007-2008, Chính phủ thực hiện chính sách siết chặt đầu tư công, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất vì thế càng hạn chế.
Trong thời điểm này, nhận thức còn chưa thống nhất của một số ban, ngành Trung ương và địa phương về vị trí, vai trò của Học viện IV đối với công tác nghiên cứu lý luận và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đây cũng là thời kỳ Học viện CTQG Hồ Chí Minh đang trong quá trình đổi mới về mô hình tổ chức, quản lý, đang từng bước nâng cao tính hệ thống, thống nhất.
Nhiều ý kiến cho rằng việc thành lập một Học viện Chính trị khu vực tại địa bàn Tây Nam Bộ là không cần thiết, hoặc xây dựng một cơ sở nghiên cứu, đào tạo lý luận chính trị tại đây là không khả thi, rất khó xây dựng một cơ sở của Học viện có thể đảm đương được nhiệm vụ lớn lao này.
Sự chưa thống nhất nhận thức về tính cấp thiết và khả thi còn đến sau này. Sau 10 năm thành lập, vẫn có cuộc “trưng cầu” trong hệ thống Học viện về việc có nên tồn tại Học viện IV nữa hay không.
Trong hoàn cảnh đó, thuận lợi lớn nhất và cũng là tài sản to lớn của Học viện IV là sự ủng hộ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tầm nhìn của Lãnh đạo Học viện CTQG Hồ Chí Minh và quyết tâm của những người đã chấp nhận gian khổ, đồng cam cộng khổ, về sống và làm việc, cống hiến để định hình tổ chức và vun đắp nên những giá trị của Học viện IV.
Trải qua chặng đường 15 năm, tổ chức bộ máy Học viện IV đã dần hoàn chỉnh: đã thành lập được 16 cơ quan, đơn vị (so với dự kiến 20), gồm 06 cơ quan chức năng và 10 đơn vị nghiên cứu, giảng dạy.
Sự thành công lớn nhất của Học viện trong 15 năm qua là sự lớn mạnh vượt bậc của đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên, cả về số lượng, cơ cấu, trình độ, năng lực. Đến nay, Học viện có 108 cán bộ, viên chức; trong đó có 61 nam và 47 nữ. Trình độ chuyên môn, chính trị và nghiệp vụ ngày càng đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ, có 22 tiến sĩ, 59 thạc sĩ, 13 cử nhân. Về trình độ lý luận chính trị, có 76 cử nhân chính trị, cao cấp và tương đương. Đảng bộ Học viện có 94 đảng viên. Đoàn Thanh niên có 20 đoàn viên. Đội ngũ giảng viên của Học viện đã đảm nhiệm được 100% chương trình lý luận chính trị cao cấp.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị của Học viện đã có bước tiến mạnh mẽ. Từ chỗ không nhà, không phòng học, không tường rào, đến nay Học viện IV đã hình thành 2 khu vực: Khu làm việc và Khu ký túc xá. Khu làm việc về cơ bản bảo đảm được phòng học của các hệ lớp và phòng làm việc của các đơn vị. Ký túc xá có khoảng 400 chỗ ở. Mặc dù còn nhiều khó khăn thiếu thốn nhưng hạ tầng về thông tin khá tốt, cho phép kết nối thông tin qua mạng nội bộ và kết nối thông tin trực tuyến với Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị
Qua 15 năm vừa xây dựng đội ngũ, kiện toàn tổ chức vừa thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao, Học viện IV đã vượt qua nhiều khó khăn, hoàn thành tốt các nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học. Học viện đã mở được tổng số 176 lớp hệ tập trung và không tập trung, với 12.446 học viên. Bình quân mỗi năm, Học viện đào tạo trên 800 học viên lý luận chính trị cao cấp. Góp phần quan trọng vào việc đào tạo cán bộ của 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Đồng thời, từ năm 2018, Học viện IV đã mở 15 lớp hoàn chỉnh cao cấp lý luận chính trị, với 1.196 học viên.
Cùng với công tác đào tạo, Học viện chú trọng công tác bồi dưỡng cán bộ các cấp, các ngành. Trong thời gian qua, Học viện đã mở được 42 lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác Đảng các ngành Tuyên giáo, Tổ chức, Kiểm tra, Dân vận và Văn phòng cấp ủy, với 3.971 học viên.
Học viện phối hợp, tham gia, tổ chức các lớp bồi dưỡng, cập nhập kiến thức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các địa phương (đối tượng 3 và đối tượng 4). Từ năm 2013 đến nay đã tham gia bồi dưỡng cho gần 1.000 cán bộ lãnh đạo, quản lý của các tỉnh trong khu vực.
Hoạt động nghiên cứu khoa học được quan tâm và đạt nhiều kết quả. Trong 15 năm, Học viện IV đã thực hiện 01 đề tài cấp Nhà nước, 24 đề tài cấp Bộ, 46 đề tài cấp cơ sở; nhiều hội thảo, tọa đàm khoa học. Nhiều đề tài có giá trị lý luận và thực tiễn, được Học viện CTQG Hồ Chí Minh chọn xuất bản thành sách. Một số hội thảo phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước (Đức, Na Uy, Nhật Bản,...). Trong định hướng nghiên cứu của các đề tài, chủ đề của các hội thảo, Học viện luôn chú ý bám sát chương trình giảng dạy, chủ trương và đường lối của Đảng, thực tế phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh trong khu vực. Do vậy, các hội thảo, tọa đàm luôn thu hút sự quan tâm, tham gia của nhiều giảng viên, nhà khoa học và cán bộ hoạt động thực tiễn các tỉnh, thành phố trong khu vực.
Công tác nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao tiềm lực khoa học của Học viện.
Tạp chí Thông tin khoa học chính trị của Học viện chính thức hoạt động vào cuối năm 2015, xuất bản hằng quý. Đây là diễn đàn khoa học của Học viện. Tạp chí nhận được sự cộng tác của nhiều nhà khoa học trong hệ thống Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu khu vực đồng bằng sông Cửu Long, giảng viên các trường chính trị. Tạp chí đang phấn đấu trở thành một tạp chí nghiên cứu lý luận chính trị hàng đầu ở khu vực, mang bản sắc của khu vực, là diễn đàn của các nhà nghiên cứu lý luận chính trị ở khu vực.
Học viện IV đã có quan hệ hợp tác chặt chẽ về nghiên cứu khoa học và đào tạo với nhiều sở, ban, ngành, trường chính trị của các tỉnh trong khu vực, với nhiều cơ sở nghiên cứu, đào tạo như: Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học An Giang, Vụ Địa phương III (Ủy ban Dân tộc), Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Cơ quan Thường trực tại miền Nam của Tạp chí Cộng sản, v.v..
Trong quá trình giảng dạy, học tập và nghiên cứu, đội ngũ cán bộ, giảng viên và học viên của Học viện tích cực tham gia thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nội dung đấu tranh bảo vệ nền tảng của Đảng được thể hiện sâu sắc trong từng bài giảng, bài viết. Nhiều cán bộ trẻ có các bài viết sắc sảo, đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực phản động, thù địch.
Về hợp tác quốc tế, thực hiện chủ trương của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện IV đã thực hiện nhiều hoạt động đối ngoại với các đối tác, như: Học viện Hành chính Vân Nam, Trường Đại học Sư phạm Quảng Tây, Trường Đảng Tỉnh ủy Hà Nam (Trung Quốc); Trường Chính trị - Hành chính tỉnh Champasak (Lào); Trường Đại học Amsterdam (Hà Lan); Đại học Auckland (New Zealand); Đại học Quốc gia Australia; Viện Hành chính công Ấn Độ. Ngày 19-1-2021, Học viện đã đón tiếp và làm việc với Đại sứ Cộng hòa Ấn Độ tại Việt Nam. Nhìn chung, hoạt động đối ngoại của Học viện IV bảo đảm tính hiệu quả, phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu và giảng dạy, đào tạo bồi dưỡng cán bộ khoa học.
Vượt qua nhiều khó khăn, Học viện IV đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của khu vực. Các chỉ tiêu hàng năm về đào tạo cao cấp lý luận chính trị và bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng đều được bảo đảm. Nội dung và phương pháp giảng dạy không ngừng được đổi mới, nâng cao. Nhiều đề tài khoa học được đánh giá cao, có giá trị lý luận và thực tiễn. Lực lượng nghiên cứu và giảng dạy không ngừng được bổ sung và nâng cao trình độ.
Trong sự phát triển của mình, Học viện IV nhận được rất nhiều hỗ trợ của các vụ, viện, các học viện trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Đặc biệt là các cán bộ, giảng viên được biệt phái vào từ những ngày đầu thành lập đến nay. Học viện IV đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các địa phương, sự hỗ trợ tích cực về vật chất và tinh thần. Thể hiện cụ thể là các địa phương đã chung sức, đóng góp xây dựng các ký túc xá tại Học viện IV.
3. Tự tin, khát vọng xây dựng, phát triển xứng tầm khu vực
Tây Nam Bộ là một khu vực đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; giàu tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế nhưng đang phải đối mặt với những ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, sinh kế của dân cư nhiều nơi bị đe doạ, tình trạng xuất cư tuyệt đối đang diễn ra. Trước thực tế đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17-11-2017 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết nêu ra những quan điểm chỉ đạo: Kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế; Thay đổi tư duy phát triển; Tôn trọng quy luật tự nhiên; Mô hình phát triển lấy con người làm trung tâm, giảm khoảng cách giàu nghèo; Tiếp cận tổng thể, tích hợp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng; Lấy tài nguyên nước, cả nước lợ và nước mặn, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách; Chủ động hội nhập quốc tế, tăng cường hợp tác với các nước Tiểu vùng sông Mê Kông trên cơ sở cùng có lợi. Triển khai mạnh mẽ Nghị quyết của Chính phủ, trong những năm qua, kinh tế - xã hội đồng bằng sông Cửu Long có nhiều khởi sắc. Tuy vậy, những vấn đề Nghị quyết 120 nêu ra rất mới trong tư duy phát triển, xoay quanh nhận thức, thích ứng và khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng đất. Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết, nhiều vấn đề mới đang mở ra, hứa hẹn một giai đoạn phát triển mới của khu vực.
Đối với thành phố Cần Thơ, ngày 5-8-2020, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 59-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đề ra mục tiêu đến năm 2030, Cần Thơ là thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long; là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistics, công nghiệp chế biến, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giáo dục và đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao; là đô thị hạt nhân vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Thành phố Cần Thơ và cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long đang trên đà phát triển mạnh mẽ là điều kiện thuận lợi để Học viện IV phát triển trong thời gian tới. Thực tiễn khu vực cũng đặt ra nhiều vấn đề mà Học viện IV phải quan tâm: Nhìn từ góc độ lịch sử, nhiều vấn đề về dân tộc, tôn giáo đang đặt ra cần phải nghiên cứu, nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn. Công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng có những đặc điểm riêng. Nhìn từ sự phát triển hiện tại, nhiều nghịch lý cũng đang đòi hỏi phải luận giải thấu đáo như: nghịch lý giữa tiềm năng và thực tế phát triển, giữa sự đóng góp và mức độ đầu tư, v.v..
Trong rất nhiều khó khăn, sự phát triển của Học viện IV có nhiều yếu tố thuận lợi. Trước hết đó là sự quyết tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Đảng ủy Học viện đã ra Nghị quyết số 14-NQ/ĐU ngày 7-2-2018 về phát triển Học viện Chính trị khu vực IV đến năm 2025, tầm nhìn năm 2035. Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2035: “Phát triển Học viện Chính trị khu vực IV thật sự trở thành trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn Tây Nam Bộ; trung tâm nghiên cứu khoa học lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý ở khu vực Tây Nam Bộ, có đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, nghiên cứu viên đủ về số lượng và bảo đảm về chất lượng; có tổ chức bộ máy hoàn thiện và tinh gọn; quản trị tiên tiến; có cơ sở vật chất đầy đủ và hiện đại; thực hiện có hiệu quả các chức năng và nhiệm vụ trong tình hình mới; là một trong những đơn vị điển hình về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và thực hiện văn hóa Trường Đảng”.
Nghị quyết khẳng định, Học viện IV là một bộ phận hữu cơ của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, đầu tư phát triển Học viện IV là đầu tư cho sự phát triển của hệ thống Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Đây là nghị quyết cần thiết và kịp thời, đem lại những thay đổi có tính đột phá.
Để thực hiện thành công mục tiêu mà Nghị quyết số 14-NQ/ĐU ngày 7-2-2018 đã đề ra, cùng với sự quan tâm chỉ đạo của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện IV xác định phương hướng và triển khai những giải pháp trọng tâm:
Một là, về tổ chức bộ máy, thực hiện tốt công tác tuyển dụng, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng chính quy, chuyên sâu; xây dựng tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả. Khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ hệ thống Học viện CTQG Hồ Chí Minh, phối hợp với các trường chính trị, các cơ sở nghiên cứu và đào tạo trong khu vực, ban ngành các địa phương v.v..
Có cơ chế động viên cán bộ, viên chức học tập nâng cao trình độ, trau dồi ngoại ngữ, tận tâm cống hiến và gắn bó lâu dài. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, viên chức và người lao động. Lấy con người làm trung tâm của sự phát triển là ưu tiên của Học viện IV.
Hai là,về cơ sở vật chất, trên cơ sở sự chỉ đạo của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, phối hợp với các đơn vị chức năng của Học viện, từng bước hoàn thiện và triển khai các dự án đầu tư xây dựng, cả từ nguồn ngân sách và xã hội hóa. Sử dụng hiệu quả các công trình hiện có.
Ba là,về thực hiện nhiệm vụ chính trị, không ngừng nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy.
Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy, phương pháp nghiên cứu v.v.. Tiếp tục thực hiện chủ trương đưa cán bộ đi nghiên cứu thực tế. Gắn kết chặt chẽ với các địa phương và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trong khu vực. Nghiên cứu các giải pháp triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào thực tế khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của khu vực. Hình thành các nhóm nghiên cứu chuyên sâu trên các lĩnh vực. Hỗ trợ, khuyến khích giảng viên, nghiên cứu viên công bố kết quả nghiên cứu, nhất là công bố quốc tế.
Việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn khu vực và đưa vào bài giảng là công việc mà Học viện IV đã thực hiện khá tốt thời gian qua, sẽ được phát huy hơn nữa nhằm đáp ứng yêu cầu mới trong nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Bốn là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành. Từng bước số hóa dữ liệu trong công tác quản lý cán bộ, quản lý đào tạo, quản lý khoa học v.v..
Trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, Học viện IV đã khẳng định được vai trò và vị thế đối với sự phát triển của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Học viện IV là sự bổ sung cần thiết và kịp thời đối với hệ thống đào tạo của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, học tập lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý vùng Tây Nam Bộ.
Tiếp tục phát triển xứng tầm với nhiệm vụ là kỳ vọng của lãnh đạo Học viện CTQG Hồ Chí Minh, là khát vọng, là quyết tâm của thầy và trò, cán bộ, viên chức, người lao động Học viện IV; Bám sát chủ trương của Đảng và Nhà nước, bám sát quá trình đổi mới về tư duy phát triển, tư duy quản lý của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, khai thác tối đa những thuận lợi, gắn kết chặt chẽ với các tỉnh, thành phố trong khu vực để thực hiện phương hướng đã xác định.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2021
Nguồn: TS Phan Công Khanh
Học viện Chính trị khu vực IV