Thứ Ba, 8 tháng 9, 2020

Thực hiện tốt khâu đột phá trong phòng, chống tham nhũng

 

Thực hiện tốt khâu đột phá trong phòng, chống tham nhũng

 Trong bài viết trước, tác giả đã nêu một cách khái quát về tham nhũng và thực trạng, quy mô và tác hại của tham nhũng đối với sự phát triển của xã hội và về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua ở nước ta. Để đạt hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta cần phải nhằm trúng khâu đột phá. Khâu đột phá đó, như quan niệm của tác giả, là cần trừng phạt nghiêm những kẻ tham nhũng, đặc biệt với những kẻ tham nhũng là đảng viên – cán bộ.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lên án mạnh mẽ tệ tham nhũng, quyết tâm đấu tranh phòng ngừa và chặn đứng, đẩy lùi tham nhũng. Nhận xét, đánh giá về tình hình tham nhũng và những quốc sách phòng, chống tham nhũng đã được nhiều lần nêu lên trong các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quyết định của các cơ quan chức năng, đoàn thể quần chúng. Những chủ trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước đã liên tục được tuyên truyền đến người dân bằng các phương tiện thông tin đại chúng, bằng học tập, hội nghị, hội thảo chuyên đề ở từng cấp, từng ngành, từng khu vực. Tình hình tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trở thành đề tài thường xuyên trong các báo cáo chỉ đạo định kỳ của Chính phủ, của các địa phương, đơn vị và của các cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm chính về vấn đề này. Đồng thời, nó cũng là những câu chuyện thường ngày phản ánh sự bất bình, bức xúc của mỗi người dân cả ở thành thị lẫn nông thôn, không phân biệt vùng, miền nào.

Các biện pháp phòng, chống tham nhũng đã được triển khai toàn diện, thường xuyên, đợt này nối tiếp đợt khác. Nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được sử dụng, như biện pháp hành chính, kinh tế, giáo dục - cảm hoá, trừng trị bằng pháp luật,... Tuy vậy, tình hình tham nhũng ở nước ta vẫn không giảm.

Ngày 20 tháng 11 năm 2018, Quốc hội khóa XIV ban hành Luật sửa đổi số: 36/2018/QH14  Phòng, chống tham nhũng; Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng chống tham nhũng… Những việc làm đó tỏ rõ sự quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong công tác phòng, chống tham nhũng, để làm cho mọi người có đủ bốn điều kiện: 1- không cần tham nhũng, 2- không thể (hoặc rất khó) tham nhũng, 3- không muốn tham nhũng, 4- không dám tham nhũng. Tuy nhiên, tính hiệu quả của các giải pháp này chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Hiện nay, ở nước ta, tình hình “tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.

Kết quả chưa khả quan về công tác phòng, chống tham nhũng vừa qua không thể phủ nhận được tính toàn diện, sâu sắc của các biện pháp phòng, chống tham nhũng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang sử dụng. Điều đó nói lên rằng, liều lượng của những biện pháp ấy chưa đủ mạnh và chưa nhằm trúng khâu đột phá để công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.

Theo tôi, nếu chúng ta tìm đúng được khâu đột phá để phòng, chống tham nhũng thì chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả rất lớn.

Việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực triển khai những biện pháp phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra đủ 4 điều kiện trên để công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu quả là rất cần thiết, rất toàn diện. Bởi lẽ:

Để có điều kiện khiến cho người ta không cần tham nhũng thì phải làm cho Nhà nước giàu mạnh, có thể đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần cho mọi người dân. Muốn vậy, phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,  phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến, xây dựng nền sản xuất có năng suất, chất lượng cao, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Đó là cả một quá trình lâu dài, cần phải mất nhiều thời gian, không thể có trong một sớm, một chiều.

Để người ta không thể (hoặc rất khó) tham nhũng thì bộ máy tổ chức, quản lý của Đảng, Nhà nước phải rất khoa học, bao gồm cả cơ chế, cả con người và hệ thống luật pháp chặt chẽ không có kẽ hở để tham nhũng không thể luồn lọt. Đồng thời, đời sống dân chủ trong xã hội phải được nâng cao, mọi hành vi tham nhũng đều không lọt nổi con mắt làm chủ của nhân dân. Để đạt được điều đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải có sự đổi mới và cố gắng rất lớn trong công cuộc đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... 

Để người ta không muốn tham nhũng thì, hoặc là, phải có một quá trình với thời gian lâu dài để tạo đủ điều kiện thỏa mãn về vật chất và tinh thần cho mọi người dân khiến họ không cần phải tham nhũng như đã phân tích ở trên; hoặc là, xã hội phải tạo ra nếp sống không có tham nhũng, coi tham nhũng là xấu xa, tội lỗi, bất cứ ai tham nhũng cũng đều bị lên án, trừng trị... để gây áp lực tâm lý làm cho người ta không muốn và không dám tham nhũng. Trong hai phương án ấy, chỉ có phương án thứ hai là phù hợp với hoàn cảnh xã hội nước ta hiện nay. Muốn thực hiện được phương án thứ hai này, chúng ta phải ra sức xây dựng một xã hội dân chủ mà ở đó, mọi người sống có đạo đức, trong sạch, liêm khiết.

Để người ta không dám tham nhũng thì, thứ nhất, phải xây dựng được một xã hội đạo đức, thực sự dân chủ, phát huy được tinh thần làm chủ của nhân dân, có thể tố giác và ngăn chặn được mọi hành vi tham nhũng, dù chúng có được che đậy tinh vi đến mấy. Thứ hai, một khi kẻ tham nhũng đã bị tố giác và có những bằng chứng không thể chối cãi thì Nhà nước phải xử lý nghiêm, xử lý nặng, buộc đương sự phải bồi thường thiệt hại, đồng thời tạo được làn sóng phê phán, lên án họ trong từng cộng đồng, trong toàn xã hội (thời gian qua ta đã thực hiện tương đối hiệu quả vấn đề này).

Như vậy, xét một cách tổng thể hoàn cảnh kinh tế, chính trị và xã hội của nước ta hiện nay, có thể nói, chúng ta chưa đủ sức để triển khai đồng loạt các biện pháp nhằm đưa lại cho mọi người đủ cả 4 điều kiện để không cần tham nhũng, không thể (hoặc khó) tham nhũng, không muốn tham nhũng và không dám tham nhũng. Tuy nhiên, về mặt nhận thức, vẫn phải khẳng định việc tạo đủ 4 điều kiện trên là phương hướng đúng đắn để diệt trừ tận gốc tham nhũng, dù đó là một quá trình lâu dài và đầy gian khổ. Vậy, chúng ta phải làm gì để có thể “hạ nhiệt được cơn sốt” tham nhũng đang ở vào giai đoạn nguy kịch như hiện nay? Theo tôi, chúng ta cần phải thực hiện ngay những biện pháp cần thiết nhằm thoả mãn 2 điều kiện để người ta không muốn tham nhũng  không dám tham nhũng. Trước mắt, chúng ta phải chọn được khâu đột phá và tập trung tác động vào đó tạo động lực cho việc hoàn thành cả hệ thống các biện pháp. 

Khâu đột phá phòng, chống tham nhũng

Như đã phân tích ở trên, để thỏa mãn 2 điều kiện khiến cho người ta không muốn tham nhũng và không dám tham nhũng, nếu chờ đợi đến khi nền sản xuất phát triển có khả năng thoả mãn được nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi người và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng hoàn thiện, có hệ thống luật pháp chặt chẽ, hoàn chỉnh không còn kẽ hở cho tham nhũng tồn tại thì sẽ quá lâu. Do vậy, trước mắt chúng ta có thể ưu tiên sử dụng ba biện pháp phù hợp hơn cả là: 1- Phát động xây dựng một nếp sống đạo đức xã hội đói cho sạch, rách cho thơm, tẩy chay tham nhũng, coi tham nhũng là trộm cắp, là nhục nhã và hèn hạ; 2- Trên cơ sở những thành tựu thu được của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng trong xã hội một nếp sống dân chủ, khuyến khích mọi người nói lên sự thật, có cơ chế bảo vệ những người dũng cảm tố cáo, phát hiện bọn tham nhũng; 3- Khi đã phát hiện được tham nhũng, cần phải trừng phạt nghiêm; đặc biệt với những kẻ tham nhũng là cán bộ, đảng viên. Cần xác định đây là khâu đột phá để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.

Cần phải nói thêm rằng, ba biện pháp này chúng ta đã làm và đang làm, nhưng làm một cách dàn trải cùng với các biện pháp phòng, chống tham nhũng khác, chứ chưa coi đó là biện pháp ưu tiên để tập trung giải quyết, tạo đà cho việc thực hiện các biện pháp khác.

Để thực hiện tốt ba biện pháp này, phải xác định khâu đột phá như đã phân tích. Khâu đột phá đó sẽ tác động mạnh vào đối tượng là đảng viên - cán bộ, làm cho họ luôn tự giác, gương mẫu đi đầu trong phòng, chống tham nhũng. Muốn thực hiện được khâu đột phá này, theo tôi, cần tập trung vào hai nhiệm vụ chính sau đây.

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường chỉnh đốn Đảng, giáo dục cho đảng viên “có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật. Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác”(2). Điều này cũng được ghi rõ trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Thiết nghĩ, trong xã hội ta, nếu các đảng viên chấp hành nghiêm Điều lệ thì chắc hẳn nạn tham nhũng khó có đất sống. Bởi vì, người đảng viên luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Nhưng, hiện nay, có một thực tế đau đớn là, hầu hết các vụ tham nhũng ở nước ta đều dính dáng trực tiếp, hoặc gián tiếp đến đảng viên - những người có chức, có quyền. Dù những hành động tham nhũng này có được biện bạch thế nào chăng nữa thì cũng là vô đạo, phi nhân tính, bất nghĩa mà người đảng viên không được phép làm. Do vậy, mấu chốt là ở chỗ, chúng ta cần tăng cường chỉnh đốn Đảng, đổi mới công tác đảng, kiên quyết đưa ra khỏi hàng ngũ của Đảng những đảng viên mắc vào tham nhũng, dù đó là đảng viên thường, hay đảng viên có chức, có quyền ở bất cứ cương vị nào. Chúng ta phải làm mạnh, mạnh từ trên xuống dưới, từ trong Đảng ra ngoài Đảng. Đối với người đảng viên - cán bộ, chúng ta phải làm cho họ nâng cao tính tiên phong, gương mẫu, biết “lo trước thiên hạ”, nhận khó khăn về mình và biết nhường nhịn, “hưởng sau thiên hạ”. Làm như thế là đúng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Người đảng viên phải nêu gương trước để trở thành con người xã hội chủ nghĩa có nếp sống trong sáng. Điều này không phải là hô hào, duy ý chí hoặc thần thánh hóa người đảng viên. Ai đó đã ngụy biện rằng, đảng viên cũng là con người, cũng có những nhu cầu, những ham muốn như những người bình thường khác, không thể đòi hỏi ở họ những gì quá đáng; cho nên, họ vẫn có thể có những hành động tham nhũng, tiêu cực! Nếu quả người đảng viên không hơn những người bình thường khác, vẫn có thể tham nhũng, tiêu cực và luôn đặt lợi ích cá nhân của mình lên trên lợi ích của nhân dân, của dân tộc thì tốt nhất, hãy ra khỏi hàng ngũ của Đảng; bởi vì, mục đích của Đảng, Điều lệ của Đảng không cho phép họ làm như vậy. Người đảng viên, nhất thời do hoàn cảnh này, nọ, có thể mắc khuyết điểm, nhưng phải giữ được lòng tự trọng, tự xấu hổ, tự đấu tranh, chuộc lại những lỗi lầm.

Mọi tổ chức đảng, đặc biệt là các tổ chức đảng ở cơ sở, như tổ đảng, chi bộ đảng - nơi mà từng đảng viên trực tiếp sinh hoạt, phải xây dựng được môi trường dân chủ thực sự, có tinh thần đấu tranh nội bộ mạnh mẽ, thẳng thắn phê bình và tự phê bình, tự tìm ra những kẻ tham nhũng, không cần phải nhờ đến cơ quan chức năng hoặc lực lượng nào khác.

Thứ hai, khi đã phát hiện tham nhũng thì phải xử phạt nghiêm minh với mọi đối tượng và có hình thức tăng nặng đối với đảng viên - cán bộ. Điều này, đất nước ta đã có những kinh nghiệm bổ ích. Ngay từ thế kỷ XV, dưới triều Hồng Đức (Vua Lê Thánh Tông), tại Điều 138 của Bộ Quốc triều Hình luật đã ghi: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần cùng những người có tài được giữ vào hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì phạt 50 quan; từ 10 đến 19 quan thì phạt từ 60 đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ và những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho”(3). Còn đối với chế độ ta hiện nay, thiết tưởng, cùng tội trạng như nhau, những đối tượng là đảng viên - cán bộ phải bị xử phạt nặng hơn dân thường; người ở ngôi vị càng cao, càng phải xử nặng. Bởi lẽ, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”; nếu không thì quần chúng nhân dân sẽ không phục.

 Đối với toàn xã hội, cần đẩy mạnh thực hành dân chủ để mọi người dân có điều kiện kiểm tra, giám sát lẫn nhau, giám sát công việc của các tổ chức, cơ quan mà kịp thời ngăn chặn, phát hiện những hành động tham nhũng. Đẩy mạnh hoạt động của báo chí trong công tác phòng, chống tham nhũng, từ đó có thể tạo ra dư luận và tâm lý xã hội tích cực đối với việc phòng, chống tham nhũng. Cần xây dựng một nếp sống trong sáng, lành mạnh trong xã hội, “phát động tư tưởng quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu có chỗ ẩn nấp”. Việc tạo ra một dư luận xã hội mạnh mẽ để tẩy chay tham nhũng có tác dụng răn đe rất lớn đối với những kẻ có hành vi tham nhũng. Tác dụng của việc răn đe này nhiều khi còn cao hơn cả sự răn đe của pháp luật.

Thiết nghĩ, thực hiện được khâu đột phá này để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, chúng ta vẫn có thể xây dựng được một xã hội tốt đẹp, có đời sống văn hóa lành mạnh, khi mà nền kinh tế của chúng ta còn chưa phát triển như cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng nói./.                                               

 

 

 CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG BẢN CHẤT SỰ VỤ XẢY RA TẠI ĐỒNG TÂM 

Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm 29 bị cáo trong vụ án sát hại 3 chiến sĩ công an xảy ra tại xã Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội). Nhân sự kiện này, vụ việc tại Đồng Tâm lại được các trang thông tin trên mạng internet tập trung đưa tin. Trong đó rất nhiều thông tin thất thiệt, giả mạo được tung ra nhằm gây tâm lý hoang mang, bất ổn trong xã hội, tạo ra luồng thông tin hỗn độn đẩy trạng thái người xem vào rối ren, hoang mang rồi bức xúc, phẫn nộ, mặc sức chửi bới, miệt thị… Để hiểu đúng và hành động đúng về vụ việc tại Đồng Tâm, Hà Nội, một lần nữa chúng ta cần nhận thức vấn đề một cách khách quan, chân thực, cụ thể trến các vấn đề như sau: Một là: Bản chất vấn đề đất đai ở Đồng Tâm Trên mạng xã hội, xuất hiện nhiều bài viết quy chụp “chính quyền cướp đất của dân”, cho rằng người dân bị lấy đất canh tác vô cớ, kiện cáo không được giải quyết, từ đó họ bị… đẩy đến đường cùng! Đây là kiểu thông tin đánh lận bản chất, sai lệch hoàn toàn. Ở mọi quốc gia, đất đai dành cho lợi ích quốc gia, cho quốc phòng, an ninh là ưu tiên số một. Mọi dự án đất đai đều phải đặt lợi ích này lên trên và người dân, các tổ chức có nghĩa vụ phải chấp hành khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh. Thanh tra Chính phủ khẳng định, theo quy định của pháp luật về đất đai, toàn bộ đất sân bay Miếu Môn là đất quốc phòng, được Thủ tướng Chính phủ và UBND TP. Hà Nội giao cho các đơn vị quân đội quản lý, sử dụng vào mục đích quốc phòng. Các hồ sơ, giấy tờ hiện có chứng minh rõ hiện trạng đất quốc phòng, không có sự mập mờ, khuất tất nào. Hiện trạng đất sân bay Miếu Môn không có thay đổi, không chuyển dịch mốc giới theo đo đạc của cơ quan chuyên môn, không có việc tăng hay giảm diện tích đất sân bay Miếu Môn và xã Đồng Tâm. Hai là, Việc giải quyết khiếu kiện của người dân và những tồn tại đặt ra Nhiều thông tin nói rằng, chính quyền đã không chọn giải pháp đối thoại, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của dân mà lại “đối đầu”, từ đó chỉ trích cách hành xử của chính quyền, của Công an. Đây là kiểu suy diễn, bỏ qua thực tế. Chúng ta thấy rằng, vụ việc tại Đồng Tâm, đơn từ khiếu kiện cũng như các bức xúc đã diễn ra nhiều năm nay. Chính quyền từ huyện, thành phố đến Trung ương đã vào cuộc giải quyết, trong đó có rất nhiều cuộc thanh tra của Hà Nội, rồi Thanh tra Chính phủ. Sau việc người dân Đồng Tâm bắt, giam giữ trái phép cán bộ và Công an vào năm 2017, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội trực tiếp xuống đối thoại và cho thanh tra toàn diện. Khi người dân không đồng ý với kết luận thanh tra của Hà Nội thì Thanh tra Chính phủ cũng đã vào cuộc, làm rõ tất cả các vấn đề có liên quan. Thanh tra Chính phủ kết luận, theo quy định của pháp luật về đất đai, toàn bộ đất sân bay Miếu Môn là đất quốc phòng, được Thủ tướng Chính phủ và UBND TP. Hà Nội giao cho các đơn vị quân đội quản lý, sử dụng vào mục đích quốc phòng. Tháng 8 và tháng 11-2019, Thanh tra Chính phủ và Thành phố Hà Nội lần lượt có các cuộc họp để thông tin, đối thoại với nhiều người dân xã Đồng Tâm và các xã tiếp giáp với sân bay Miếu Môn. Cùng với đó, nhiều ban ngành Trung ương và Hà Nội cũng vào cuộc, đối thoại, giải thích và các biện pháp ổn định địa bàn. Như vậy, không thể nói chính quyền “phớt lờ đối thoại” hay không giải quyết khiếu kiện của người dân. Ở đây cần thấy, liên quan việc sử dụng đất quốc phòng tại địa bàn, do chính quyền tại đây buông lỏng nên xảy ra tình trạng thời gian dài, nhiều khu đất bị lấn chiếm trái phép, kể cả xây dựng nhà cửa. Người dân đã đầu tư tiền bạc vào đây để xây dựng. Khi giải quyết những tồn tại này, chính quyền Hà Nội đã có các mức tính toán đền bù phù hợp. Thanh tra Chính phủ kết luận nội dung về việc TP. Hà Nội ban hành các quyết định giao đất tại các xã Mỹ Lương, Trần Phú, Đồng Lạc (huyện Chương Mỹ) và xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức) cho đơn vị Quân chủng Phòng không Không quân để tiếp tục sử dụng làm vị trí đóng quân là đúng thẩm quyền, phù hợp với các quy định của pháp luật. Đối với việc giải phóng mặt bằng một số hộ dân đang sử dụng đất quốc phòng, Thanh tra TP. Hà Nội đã kết luận những sai phạm trong việc xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho 14 hộ dân. Đồng thời, những cán bộ để xảy ra sai phạm cũng đã bị xử lý. Cụ thể, Bí thư xã Đồng Tâm bị khai trừ Đảng, 3 lãnh đạo khác bị cảnh cáo và một bị khiển trách. Điều đó cho thấy, không có việc bao che cho cán bộ sai phạm như một số thông tin. Trong giải quyết vấn đề khiếu kiện liên quan đất đai, chúng ta thấy rõ những phức tạp, khó khăn, nhất là việc đền bù thế nào cho hợp lý. Với Đồng Tâm, các cấp từ địa phương đến Trung ương dành thời gian giải quyết suốt thời gian dài, bằng nhiều biện pháp khác nhau cho thấy sự quan tâm, lắng nghe, cầu thị, hoàn toàn không phải “thờ ơ, vô cảm” như một số thông tin rêu rao. Việc đưa ra những câu từ như “cướp đất của dân”, “chèn ép”… là luận điệu mang tính xảo trá, kích động. Ba là, cần phân biệt rõ ranh giới giữa kiến nghị của người dân với hành vi lợi dụng, cố tình phạm tội. Trong việc thực hiện chính sách đất đai tại đây cũng cần thấy rằng, cùng tính chất như nhau nhưng 3 xã bên cạnh là Mỹ Lương, Trần Phú, Đồng Lạc đã thực hiện nghiêm chỉnh, vậy mà tại Đồng Tâm nhiều hộ lại cố tình không thực hiện. Số này bất chấp việc đối thoại, giải thích của cơ quan chức năng, đã hô hào, kích động người khác chống đối, bắt giữ cán bộ, gây sức ép. Cơ quan điều tra thu giữ được các tài liệu chứng minh rằng, ông Lê Đình Kình giữ vai trò “đầu tàu”, tập hợp những người khác, trong đó có các thành phần bất hảo, nghiện ngập tụ tập về Đồng Tâm, phân chia ra các bè mảng để “thề ăn đủ”! Số này đã kêu gọi việc đóng góp từ nhiều nơi, trong đó có nguồn tài trợ từ tổ chức phản động hải ngoại, biến việc đòi đất ở Đồng Tâm thành cái cớ để gây sức ép với chính quyền, chống phá Nhà nước. Có chống phá là có tiền từ bên ngoài rót về, vì thế những đối tượng này đã kiếm sống bằng nguồn tiền phi pháp dựa trên vỏ bọc khiếu kiện đất đai. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, chỉ vì động cơ vụ lợi thấp hèn, kiếm những đồng tiền nhơ bẩn mà chà đạp lên pháp lý, đạo lý, biến mình thành con rối trong tay kẻ địch để phản dân, hại nước. Do đó, chúng ta không thể gọi từ nhân dân Đồng Tâm nói chung mà phải tách biệt nhân dân với những kẻ phạm tội, gây tội ác. Mượn cớ đòi đất để gây sức ép với chính quyền, rồi thực hiện các hành vi phạm tội, đặc biệt là gây trọng tội giết người là hành vi đặc biệt nguy hiểm. Không thể bao biện, không thể ngụy trang dưới hình thức đòi đất, khiếu kiện để gây tội ác như vậy. Nhẫn tâm ra tay với cán bộ, với công an, cái đó phải thấy rõ để lên án và nghiêm trị trước luật pháp. Bốn là, Về việc trấn áp của lực lượng Công an. Chúng ta thấy rằng, trong các biện pháp Công an thì trấn áp là biện pháp cuối cùng, khi không còn biện pháp nào khác. Mấy năm nay, các cơ quan chức năng đã tìm mọi cách để giải quyết, để đối thoại nhưng những đối tượng chống đối bất chấp, bỏ ngoài tai, cố tình phá hoại. Kỷ cương luật pháp phải được giữ nghiêm, không thể vì những đòi hỏi vô lý mà tạo ra những việc làm như “rào làng”, bắt giữ cán bộ, tra tấn... Cơ quan Công an đã nhiều lần gọi hỏi, răn đe song các đối tượng vẫn cố tình thực hiện đến cùng và gần đây gia tăng các hành vi gây rối, tấn công cán bộ. Chính những kẻ quá khích ở đây đã chuẩn bị rất nhiều vũ khí với mục đích sát hại cán bộ, cho thấy sự manh động, nguy hiểm, phạm tội có tổ chức chứ không còn là sự đối phó nhất thời. Việc cơ quan Công an áp dụng biện pháp khống chế, bắt giữ các đối tượng phạm tội là biện pháp tuân theo tố tụng hình sự nhằm điều tra, làm rõ vụ án, xử lý các đối tượng theo quy định pháp luật. Do đó, không thể nói “công an đàn áp dân” mà phải thấy rõ yêu cầu tấn công, trấn áp tội phạm, không thể đánh lận khái niệm dân nói chung với những kẻ phạm tội, gây trọng tội; không thể để các đối tượng nhởn nhơ, chống phá, gây tội ác mà không áp dụng biện pháp mạnh theo luật định. Năm là, tình cảm tiếc thương, chia sẻ trước những tổn thất về con người khi 3 cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát đã hy sinh. Những cán bộ, chiến sĩ Công an thực thi công vụ, trấn áp tội phạm, đối mặt hiểm nguy nhưng họ đã không nề hà, không quản ngại hy sinh, dấn thân thực thi nhiệm vụ để bảo vệ trị an, bảo vệ luật pháp. Chúng ta thấy rõ tính chất hung hãn, mất nhân tính, giết hại cán bộ của những đối tượng chống đối, các đối tượng phải trả giá cho hành vi tội ác của mình và dư luận cần nhận diện rõ điều đó để lên án, không thể ngụy biện với bất cứ lý do gì. Sáu là, cần có cách nhìn đúng đắn về sở hữu đất đai. Vụ việc ở Đồng Tâm cũng như các vụ phức tạp về đất đai hiện nay, chúng ta cần cách nhìn toàn diện, tránh bị giật dây, cuốn theo sự suy diễn sai lệch, trái với tính chất sở hữu đất đai. Hiến pháp nước ta quy định, đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu đất đai trên toàn lãnh thổ. Khi nói về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là đề cập đến một hệ thống quy chế chung trong quan hệ đất đai mà toàn dân là chủ thể, nhưng “toàn dân” không thể đứng ra thực hiện quyền năng cụ thể (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt...) mà nhà nước thực hiện quyền năng này. Những tồn tại, mâu thuẫn, tranh chấp đất đai phần lớn do quá trình quản lý và sử dụng đất đai, đặc biệt do chế độ công hữu hóa đất đai trước đây, từ đất tập thể hợp tác xã đất đai được giao về cho các hộ dân nhiều hơn để sản xuất. Quá trình lịch sử đó để lại những khó khăn trong việc phân bổ lại, tái cơ cấu các chính sách sở hữu và sử dụng đất đai tại Việt Nam. Một mặt, những bất cập trong bản thân chính sách pháp luật hiện tại và quá trình thực thi pháp luật tại địa phương, có khoảng cách giữa các quy định của pháp luật và thực tiễn dẫn tới những tồn tại chưa được tháo gỡ. Do đó, không phải vì những vụ việc này mà cổ súy tư hữu đất đai. Vụ việc ở Đồng Tâm một lần nữa cho thấy ý đồ, hành vi của những con rối dưới tay các thế lực xấu tìm cách lợi dụng kích động người dân gia tăng sức ép, chống đối Nhà nước, tác động vào tâm lý gây bất ổn xã hội. Bởi vậy, sự tỉnh táo nhận diện và hành động đúng trong vấn đề này là hết sức cần thiết.

PD.

Đừng biến mình thành nộ lệ cho "chủ nghĩa cá nhân"

 Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: Mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.

MẤY VẤN ĐỀ CẦN CHÚ Ý TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA

 Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Đảng luôn diễn ra trong bối cảnh phức tạp, khó khăn. Trong từng thời điểm cụ thể, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn, vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh để tăng cường, quyết liệt chống phá ta bằng hàng loạt các luận điệu, thủ đoạn mới, tinh vi, xảo quyệt.

BÀI HỌC TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM

 Tình hình Việt Nam những ngày qua đã chứng tỏ được sự hiệu quả của công cuộc phòng và chống dịch mà Nhà nước và người dân đang phối hợp thực hiện.

Nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong tình hình mới


Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch thì việc nhận diện các loại quan điểm sai trái, thù địch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo càng đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu rất đỗi tự hào thì càng nảy sinh những vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Đó cũng là lẽ thường tình, bởi thực tiễn luôn vận động, biến đổi làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi con người phải giải quyết. Chính thực tiễn đổi mới cũng đang đặt ra nhiều vấn đề mới trên tất cả các lĩnh vực đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải kịp thời giải quyết. Hơn nữa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tác động của biến đổi khí hậu; thực tiễn chính trị thế giới thay đổi nhanh, khó lường; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống... đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Trước tình hình trên, lực lượng thù địch lợi dụng những khó khăn, yếu kém của ta tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước ta. Trong bối cảnh mới, các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay rất đa dạng, phong phú, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, vừa trực diện, vừa ẩn mình chống phá Đảng, Nhà nước ta, trong thời gian qua nổi lên những loại quan điểm sai trái, thù địch như sau:

Chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá trước thềm đại hội Đảng



Trong thời gian qua, khi các tổ chức đảng chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền xuyên tạc nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách toàn diện, trong đó tập trung vào các lĩnh vực tư tưởng chính trị, kinh tế, pháp luật, quốc phòng, an ninh, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự đại hội…

Hành vi giết người là rõ ràng

Ngày hôm qua, khi xét hỏi Lê Đình Công, chủ tọa phiên tòa đã hỏi: Tại sao giữ đất phải dùng đến lựu đạn???

Công im lặng, không trả lời được.


Đất nào của nhóm Lê Đình Kình, Lê Đình Công, Bùi Viết Hiểu… mà giữ.

Kết luận thanh tra đã chỉ rất rõ không có cái gọi là 59 hay 46 ha đất nông nghiệp xứ Đồng Sênh, chỉ có đất sân bay Miếu Môn thuộc Bộ Quốc phòng.

Đất nông nghiệp xứ Đồng Sênh chỉ là cái bánh vẽ do bố con nhà Lê Kình bịa ra để lừa bịp người dân

Sự chuẩn bị đã tố cáo hành vi giết người rõ ràng: chuẩn bị hàng chục quả lựu đạn, chai bom xăng, hàng chục dao phóng lợn; liên tục livestrem tuyên bố sẽ giết hàng chục, hàng trăm người nếu lực lượng Công vụ tiến vào Đồng tâm???
Hải Đăng st


BẢN CHẤT KHỐN NẠN CỦA NHỮNG KẺ PHẢN ĐỘNG

Đúng như đự đoán của nhiều người, chiến dịch chạy tội cho những kẻ thủ ác khủng bố, giết người, chống người thi hành công vụ tại Đồng Tâm kèm theo những luận điệu vu khống, xuyên tạc, tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam đã được làng rận nội ngoại rầm rộ triển khai. Việt Tân là một trong những kẻ xung kích!


Bất chấp sự thật về hành vi chống đối của nhóm thảo khấu do Lê Đình Kình cầm đầu tại Đồng Tâm mấy năm nay.


Bất chấp sự thật về việc nhóm thảo khấu chuẩn bị hàng chục chai bom xăng, lựu đạn, dao phóng.... để chống đối lực lượng thực thi công vụ.


Bất chấp sự hy sinh của 3 cán bộ Công an đến giờ mộ còn chưa xanh cỏ, nước mắt chưa ngừng rơi của những người vợ và người mẹ.


Chúng vẫn rú lên rằng, những kẻ như Lê Đình Kình, Lê Đình Công, Lê Đình Chức, Lê Đình Doanh, Nguyễn Tuyển... vô tội. Thậm chí chúng còn vu cáo ngược rằng đây là tội ác của chính quyền???


Hãy chờ xem khi cáo trạng được xướng lên, khi bản án được tuyên ra bởi cơ quan xét xử, chúng còn rú lên được những tiếng nói xuyên tạc này không?


Thật ghê sợ cho những kẻ mất hết tính người, cả kẻ thủ ác và kẻ bênh vực kẻ giết người!

Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một nhiệm vụ chính trị

Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một nhiệm vụ chính trị, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.

Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ" phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, và cả cán bộ trong lực lượng vũ trang làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa ngã ba đường".

Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để, vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội.

Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch

Bản chất "tư duy đột phá" của những "nhà dân chủ cuội"


Trong lúc này khi Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị tiến hành Đại hội XIII, người tự xưng “nhà dân chủ” ở trong và ngoài nước hùa nhau “bình luận” và đưa ra những “phát kiến dân chủ” cho nội dung dự thảo các văn kiện trình đại hội.

Tại sao những “nhà dân chủ” lại mất nhiều công sức và thời giờ đến vậy để nêu lên và đề xuất những “phát kiến dân chủ” đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó thực chất chỉ là lời lẽ của những người cố tình khoác lên mình cái vỏ bọc gọi là “dân chủ” mà thôi. Bản chất của những “nhà dân chủ” này được thể hiện ở những vấn gì và tại sao chúng ta phải thật cảnh giác với những vấn đề này.

Họ mượn cớ bàn luận về nội dung văn kiện đại hội chỉ để chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam. Người dân của các nước trên thế giới và ở Việt Nam đều biết rằng, việc hoạch định đường lối chính trị để dân tộc mình phát triển đi lên trong từng giai đoạn là khó khăn nhất so với việc hoạch định mọi đường lối khác. Vì vậy, các đảng cầm quyền ở các nước luôn đầu tư nhiều công sức cho việc xây dựng đường lối chính trị của nước mình trong giai đoạn tiếp theo để được công dân hoặc cử tri đồng tình, ủng hộ với tỷ lệ cao nhất. Cùng vì lý do này, khi người đại diện của Đảng Cộng sản Việt Nam họp báo và nêu lên những vấn đề mới trong nội dung dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII, thì các “nhà dân chủ” bắt đầu bám riết vào đó để “thọc mạch”, “soi mói”. Họ cho rằng: “3 đến 4 vấn đề mới mà dự thảo đưa ra không có gì gọi là “tư duy đột phá” và chỉ là “sự tuyên truyền của Đảng”. Họ còn đưa ra tiêu chí về “tư duy đột phá” - tư duy ở trình độ cao, ít nhất là cao hơn hẳn tư duy thông thường 4-5 bậc (thông thường, kinh nghiệm, logic, tổng hợp)...

Với lập trường chính trị dường như đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, họ lớn tiếng phủ nhận đường lối chính trị của Đảng là điều có thể dự đoán được. Thực tế, Đảng cũng không ép buộc họ phải theo ý của Đảng, đó chính là biểu hiện của tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhưng đã “đăng đàn” về sự phủ nhận thì phải có lý lẽ thuyết phục và đề xuất được cái gì mới hơn, hay hơn, đúng với cái gọi là “tư duy đột phá” như họ nói thì mới thuyết phục được Đảng Cộng sản Việt Nam và công luận về việc đổi mới tư duy chính trị để xây dựng đất nước. Vậy nội dung chủ đạo cái gọi là “tư duy đột phá” của họ nêu lên là gì? Đó là, họ đòi Đảng phải thay đổi “định hướng xã hội chủ nghĩa”, "đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa, xã hội thực hiện đa nguyên chính trị mà không có đảng cộng sản tham gia thì mới tìm thấy dân chủ"...

Xem ra đây đúng là cái lý của các “chú Cuội”. Tiếc thay thực tiễn trên thế giới này đang diễn ra trái với mong mỏi của họ. Đó là, ở nhiều nước được coi là dân chủ, đa nguyên chính trị trên thế giới, nhưng thực chất chỉ có một hoặc hai đảng thay nhau cầm quyền và quyết định đường lối chính trị của đất nước. Hơn nữa, cái thực thể “chính trị đa nguyên” bấy lâu nay ở một số nước đã nhiều lần bị thế giới “nghi ngờ” và bị chính một bộ phận không nhỏ người dân của nước đó tẩy chay vì sự "đa nguyên nửa vời", tiếng là có nhiều đảng tham gia lãnh đạo chính trị, nhưng thực chất chỉ có một, hoặc hai đảng thay nhau lãnh đạo mà thôi. Và thực tế là "thiên đường" của chủ nghĩa tư bản, của chủ nghĩa đa nguyên thì chưa thấy, nhưng cái hố ngăn cách xã hội do phân hóa giàu nghèo rõ ràng ngày càng rộng; sự phân biệt đối xử, kỳ thị giữa các dân tộc, màu da... đã ngày càng lộ rõ, khiến cho xã hội bất bình, náo loạn, mất an ninh trật tự, quyền con người bị đe dọa.

Thực tế là như thế, nhưng với tâm địa đen tối và bản chất cơ hội, dối trá, những “nhà dân chủ” vẫn cố tình tung hỏa mù hòng lừa phỉnh một số người nhẹ dạ cả tin. Thế nên họ không ngừng tâng bốc phong trào dân chủ kiểu phương Tây; cố hữu tư tưởng, mục tiêu, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi chế độ và hướng lái người dân Việt Nam đi tới "xã hội dân chủ" kiểu phương Tây mà thiên hạ thừa biết đó chỉ là cái “bánh vẽ” không hơn không kém. Vì thế có thể gọi họ là những "nhà dân chủ cuội".

Về vấn đề bầu cử trong Đảng, bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, các "nhà dân chủ cuội” cho rằng cần phải “dân cử, dân bầu”, chứ không thể là “đảng cử, đảng bầu” hay “đảng cử, dân bầu”... Thực tế trên thế giới hiện nay, có nhiều nước phương Tây, việc bầu cử tưởng như rất dân chủ, thế nhưng thực chất dân chủ chỉ là cái vỏ, là phần nổi của tảng băng chìm. Có những nước đã bày ra đủ thứ luật lệ để ngăn chặn cơ hội thắng cử của các đảng có tư tưởng đối lập với đảng, hoặc các đảng cầm quyền. Sự việc này còn tiến xa và nguy hiểm đến mức những đối thủ tiềm năng có nguy cơ bị "thanh toán" trước khi thắng cử. Điều này từng xảy ra ở nhiều nước có nền dân chủ kiểu phương Tây. Thực tế đó chắc chắn các "nhà dân chủ cuội" có biết, nhưng họ luôn cố tình lấp liếm, che đậy.

Về phương pháp bầu cử, các "nhà dân chủ cuội" khuyên Đảng ta nên học theo nước này, nước kia và lấy Hoa Kỳ là "hình mẫu", nghĩa là để cho "dân trực tiếp bầu Tổng Bí thư" của Đảng, như kiểu cử tri Hoa Kỳ bầu tổng thống. Nhưng từ trước đến nay, theo pháp luật của Hoa Kỳ thì bất cứ ứng cử viên tổng thống nào cũng phải được đảng của mình lựa chọn, đề cử và bầu ra để trở thành ứng cử viên tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ. Các ứng cử viên tổng thống sẽ được cử tri, đúng hơn là đại cử tri, bầu chọn làm tổng thống. Như vậy có thể hiểu, hiện tượng “đảng cử, rồi đảng bầu”, sau đến “đảng cử rồi dân bầu” cũng là một nguyên tắc phổ thông trong bầu cử ở các nước phương Tây, mà điển hình là Hoa Kỳ. Vì vậy, các "nhà dân chủ cuội" cố tình chê bai, bài xích Đảng Cộng sản Việt Nam "không để cho dân được bầu Tổng Bí thư” và xuyên tạc cơ chế đảng đề cử để nhân dân bầu ra bộ máy lãnh đạo, quản lý nhà nước (bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp) của mình, chứng tỏ họ thiếu hiểu biết về nguyên tắc và phi thực tế. 

Với bản chất, tâm địa hẹp hòi nên các "nhà dân chủ cuội" luôn lo sợ, cố tình dè bỉu, xuyên tạc sự thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Khi chứng kiến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở các nước Đông Âu và Liên Xô vào những năm 1980-1990, nhiều người đã không khỏi hoang mang, lo lắng. Lúc đó, những "nhà dân chủ cuội” có lẽ là người vui mừng nhất và họ “tiên đoán” chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ theo. Nhưng ngược lại, dưới sự chèo lái của Đảng Cộng sản Việt Nam, con tàu cách mạng Việt Nam không những vượt qua sóng cả mà còn vươn lên mạnh mẽ. CNXH ở Việt Nam đã đứng vững giữa muôn vàn khó khăn, đã phát triển một cách đĩnh đạc, kỳ diệu hơn bao giờ hết. Nói như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng là: Chưa bao giờ chúng ta có một cơ đồ như ngày hôm nay. Việt Nam hiện nay đang là đối tác, là bạn bè của gần 200 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều quốc gia hùng cường, nhiều nước lớn trên thế giới muốn nâng cấp mối quan hệ, hợp tác với nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đó là thực tế không thể phủ nhận.

Vấn đề là tại sao Việt Nam lại đứng vững và phát triển như vậy? Chỉ có một câu trả lời duy nhất đối với các “nhà dân chủ cuội” rằng, chỉ có họ mới cố tình quên truyền thống anh dũng quật cường và tư duy sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Nhưng người không quên vấn đề này là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã tiếp nối, phát huy cao độ truyền thống quý báu của dân tộc trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Trong sự nghiệp lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại giá trị đích thực về quyền dân tộc tự quyết, quyền con người cho nhân dân và dân tộc Việt Nam. Đảng đang ngày càng làm cho dân giàu, nước mạnh, phát triển hùng cường, nâng cao uy tín, vị thế đất nước, tham gia có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề về hòa bình, an ninh trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, Đảng Cộng sản được nhân dân Việt Nam tin cậy, yêu mến và ủy thác vai trò là lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội, định ra chủ trương, đường lối, đưa dân tộc Việt Nam không ngừng phát triển. Bằng uy tín, trí tuệ và bản lĩnh của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo được niềm tin đối với nhân dân và bạn bè trên thế giới.

Thực tế ngày nay cho thấy, lý tưởng cộng sản trên thế giới không những không mất đi mà còn tiếp tục hiển hiện một cách quang minh từ chính những thành công mang tầm thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản khác ở những năm đầu thế kỷ 21 này. Các “nhà dân chủ cuội” đang thấy rõ sự tồn tại mãnh liệt và sinh động đó, nhưng họ vẫn cố tình lập lờ, không chịu thừa nhận thực tế, không chịu thừa nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua. Đó là vì trong họ luôn tồn tại dai dẳng một tư tưởng thù nghịch, hoặc tồn tại sự ảo tưởng phi thực tế mà căn nguyên sâu xa của nó là sự cơ hội về chính trị, chỉ muốn Việt Nam mất ổn định để "đục nước béo cò". Về lâu dài, họ ảo tưởng rằng "cứ tuyên truyền, cứ xuyên tạc kiểu "mưa dầm thấm lâu", thế nào cũng có người nghe, người theo". Về ngắn hạn thì họ cố tình xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn, đổi trắng, thay đen trong cách lập luận, hòng câu view, câu like để... kiếm sống trên mạng. Tất cả những trò bịp bợm chính trị đó của các "nhà dân chủ cuội" không thể qua mắt những người có hiểu biết, có kinh nghiệm, có thông tin, không thể phỉnh phờ được nhân dân Việt Nam.

Đến đây có thể nói, các “nhà dân chủ cuội” đang lo sợ những thành tựu của CNXH ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ là luồng sáng soi rõ tâm can đen tối của họ. Còn những cái gọi là “tư duy đột phá”, những “phát kiến”, “đóng góp” cho Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam từ những "nhà dân chủ cuội" thực chất không có gì gọi là khoa học, là đột phá, đó chỉ là những cái cớ để họ chống phá, hòng hạ thấp uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá sự vươn lên của CNXH trên thế giới mà thôi. Thế nên, những lý lẽ mà họ đưa ra không thuyết phục và không thể nào tin được, cần cảnh giác và quyết liệt đấu tranh phê phán.

Đại biểu của dân “siêu giàu”?

 

Việc đầu tư vào Síp (Cyprus) để có quyền công dân ở quốc đảo này không phải là lạ. Thực tế thì nhiều năm trở lại đây, các chương trình chào mời đầu tư, định cư ở nước ngoài được quảng cáo rất nhiều, tổ chức các hội thảo rầm rộ ở những thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM... Điều khiến người ta giật mình là mức giá “mua quốc tịch” Síp mà hãng thông tấn Al-Jazeera nêu ra: 2,5 triệu USD, tương đương khoảng 58 tỷ đồng!

Như thông tin công khai, mức thu nhập bình quân của viên chức quản lý tại doanh nghiệp Tân Thuận này là vào khoảng 54,5 triệu đồng/người/tháng (lương kế hoạch năm 2019). Vị chi thu nhập 1 năm của viên chức quản lý ở Tân Thuận - IPC là hơn 650 triệu đồng, một con số không nhỏ. Thế nhưng, con số này cũng chưa thấm là bao so với con số 2,5 triệu USD kia. Ví dụ như ông Quốc dùng thu nhập của mình để mua được quốc tịch Síp thì cũng phải mất đến non 90 năm làm việc trung bình tại Tân Thuận - IPC mà không chi tiêu gì cả!

Con số này thật sự quá lớn với những người bình thường. Thử nhẩm tính về thu nhập mà bản thân có thể tiết kiệm được nếu làm việc quần quật đến cả trăm tuổi, rồi nghĩ đến mức giá mua “hộ chiếu vàng” ở quốc đảo Síp, người viết bỗng… ớn lạnh! Đó là chưa nói đến mức thu nhập bình quân đầu người của người Việt trong năm 2020 và còn đang là phấn đấu thôi là 3.000 USD/năm. Theo ngôn ngữ dân dã thì người bình thường như chúng ta “có nằm mơ cũng chẳng đến lượt mình”! Tất nhiên, “phi thương, bất phú”. Ông Phạm Phú Quốc là doanh nhân, từng có thời gian 10 năm công tác ở Tổng công ty Bến Thành, hơn 2 năm ở Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước TP HCM (HFIC) và mới được điều chuyển về Tân Thuận - IPC hồi cuối năm ngoái với nhiệm kỳ 5 năm. Do đó, các so sánh thiết nghĩ… cũng chỉ là ở mức tương đối thôi!

Hơn nữa, ông Quốc tuy có thừa nhận ông có quốc tịch Cộng hòa Síp từ giữa năm 2018 nhưng do gia đình… bảo lãnh chứ không phải ông “mua” quốc tịch như thông tin công bố từ hãng tin Al Jazeera. Thực tế thì trên “bản đồ người giàu” thế giới, tầng lớp trung lưu và thượng lưu của Việt Nam đang trỗi dậy nhanh chóng.

Báo cáo Thịnh Vượng 2019 vừa được Knight Frank cho hay, giới siêu giàu Việt Nam sở hữu 30 triệu USD trở lên (gần 700 tỷ đồng) đã tăng thêm 7 người so với năm 2017, đạt số lượng 142 người. Về số triệu phú có tài sản trong khoảng từ 3 triệu USD (gần 70 tỷ đồng) đến dưới 30 triệu USD, năm 2018 Việt Nam có khoảng 12.300 người, tăng hơn 5% so với năm 2017. Knight Frank khẳng định, đến năm 2023, tăng trưởng của giới siêu giàu tại Việt Nam có thể tăng nhanh hàng đầu thế giới với tỷ lệ đạt trên 31% lên hơn 15.700 người.

Không rõ danh sách trên đã chính xác và đầy đủ chưa, nhưng từ câu chuyện lộ danh sách người Việt mua quốc tịch đảo Síp cũng đã cho thấy một trong những phương thức tiêu tiền của giới “siêu giàu” ở nước ta, mà trong đó có cả lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước (?!). Dân giàu thì nước mạnh. Đất nước càng có thêm nhiều người giàu thì càng tốt chứ sao, miễn sự giàu có đó là chính đáng, đúng pháp luật!  Nếu ông Quốc là doanh nhân bình thường, không phải là đại biểu Quốc hội và Công ty TNHH MTV (100% vốn Nhà nước) thì sự thể sẽ khác nhiều. Cho nên chỉ mong là đại biểu, đại diện tiếng nói cho cử tri, nhân dân giả sử như nằm trong “top siêu giàu” cũng có thể nghe và phản ánh được nguyện vọng của người dân (?) Còn vì sao đại biểu lại “âm thầm” có hai quốc tịch, trái với quy định thì… đành chờ ông Quốc lên tiếng vậy!

Ở nước ta cán bộ, công chức giàu là chuyện lạ vì lương không cao nhưng cũng không lạ vì thực tế nhiều cán bô, công chức có biệt thự, xe sang, con cái đi du học nước ngoài. Cái nghịch lý này đã có biết bao cuộc mổ xẻ nhưng cũng không tìm ra câu trả lời thấu đáo. Có khi còn buộc miệng nhại thơ: hôm nay trời nhẹ lên cao; tôi giàu không hiểu vì sao tôi giàu. Tại sao lại đi bình chuyện giầu - nghèo? Chỉ sợ quan nghèo thôi bởi nếu giầu thì họ kén ăn lắm. Quan trọng là có vi phạm pháp luật hay không và tài sản của họ đã hoàn tất nghĩa vụ thuế chưa? Mong mọi người tìm giúp cho một trường hợp quan giầu chính đáng và có nộp thuế đầy đủ. ''giàu mà không giải thích được vì sao lại giàu...'' và vẫn là giàu chính đáng...

Cũng như trước đây vài năm, ở một tỉnh miền núi có ông tiểu sử chỉ có chạy xe ôm, buôn chổi đót ... mà còn có hàng trăm tỉ cơ mà? Quan trọng ông ấy là đại biểu nhân dân, mà dân ta đa số còn nghèo lắm, đại biểu đứng trên bình diện của giới "siêu giàu" mà phải đi phản ánh những chuyện của dân nghèo thì đối với sếp nó có "vặt vãnh" quá không?? Sếp có đủ tâm trí để trăn trở với những chuyện gói mì tôm, con dê giống...? Nếu không “ bị lộ “ do nước ngoài phát hiện và nếu họ lại tiếp tục khai thác cái mảng “ Tài khoản ở các NH nước ngoài “ nữa thì chắc chắn sẽ có nhiều cán bộ xin nghỉ hưu sớm!

Ở chế độ ta chưa có tiền lệ đại biểu "lưỡng cư" như thế này. Có lẽ nên dành tín nhiệm cho những người "một lòng một dạ" thôi. Giầu mà trong sạch còn đáng tự hào chứ giả nghèo giả khổ để ăn không từ một thứ gì thì vô cùng tệ hại. Dẫu sao thì gia sản cũng là vấn đề nóng trước sau gì thì cũng đến lúc cần phải xới lên thì mới hy vọng ngăn chặn sự xói mòn lòng tin.