Trong gần 4 năm (1961 – 1964), Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) thực hiện
ít nhất 36 điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (VN) bằng nhiều cách khác nhau,
nhưng hầu như tất cả đều thất bại nặng nền.
Từ năm 1965, hầu hết các vụ xâm nhập miền Bắc VN do Phái bộ Viện trợ quân
sự Mỹ ở VN thực hiện. Chi tiết các điệp vụ tuyệt mật này vừa được Trung tâm
Nghiên cứu tình báo thuộc CIA giải mật.
Bơi qua sông Bến Hải
Sau 1 năm chuẩn bị bao gồm cả việc tuyển mộ, đào tạo điệp viên với sự hợp
tác được cho là toàn diện nhất với cơ quan an ninh của chính quyền Ngô Đình
Diệm, CIA mới thực hiện được điệp vụ đầu tiên xâm nhập miền Bắc VN qua khu phi
quân sự (DMZ) ở hai bên bờ sông Bến Hải.
Một nam điệp viên đã bơi qua sông Bến Hải bằng săm ôtô trước nửa đêm
5/12/1960. (Trong tài liệu vừa được giải mật, mật danh của điệp viên này vẫn bị
bôi đen – PV). Sĩ quan người Việt khác chờ sẵn ở bờ bên kia để xì hơi, cắt săm
và chôn xuống đất trước khi điệp viên đi bộ về hướng Bắc.
Với các giấy tờ do CIA cung cấp, điệp viên này vượt qua hai chốt kiểm tra
của cảnh sát để đến gần thị trấn Hồ Xá trước khi trở về phía Nam bằng đường cũ.
Tài liệu vừa giải mật không cho biết điệp viên này đã thực hiện được nhiệm vụ
gì phía bên kia sông.
Vào thời điểm thực hiện điệp vụ đầu tiên xâm nhập miền Bắc VN, quan chức
cấp cao CIA Robert Myers thăm Sài Gòn và được William Colby, Trưởng Văn phòng
CIA tại Sài Gòn, mô tả chi tiết về chương trình mới cho người Việt Nam nhảy dù
xuống miền Bắc.
Myers, người đã chứng kiến thất bại trong các điệp vụ tương tự của CIA
tại Trung Quốc giữa những năm 50, nói với Colby rằng chương trình sẽ khó triển
khai. Tuy nhiên, Colby không đồng ý với quan điểm trên và khẳng định rằng có
thể phát hiện được những khu vực an toàn ở miền Bắc, ít nhất là ở những nơi
vắng dân cư.
Trong báo cáo gửi về Tổng hành dinh CIA tại Mỹ, Văn phòng CIA tại Sài Gòn
mô tả chi tiết quá trình chuẩn bị hoàn hảo như thế nào cho điệp viên để có thể
thành công khi xâm nhập miền Bắc VN. Cuối cùng, Văn phòng CIA khẳng định phải
mất 1 năm chuẩn bị trước khi có nhóm điệp viên đầu tiên đổ bộ vào miền Bắc.
Hơn một năm sau vào đêm 26/3/1961, hình thức xâm nhập đơn độc kiểu này
mới được CIA thực hiện tiếp. Văn phòng CIA tại Sài Gòn bố trí thuyền đưa điệp
viên này tới một nơi gần Đồng Hới, cách không xa DMZ. Trong 5 ngày nằm vùng,
điệp viên quan sát công việc của cảnh sát miền Bắc và các kho quân sự nhỏ. Vẫn
sử dụng giấy tờ giả, nam điệp viên này bắt xe ôtô tới Vĩnh Linh và sau đó đi bộ
tới sông Bến Hải để trở về miền Nam vào ban đêm.
Gần đây, Colby hồi tưởng trong các tài liệu được các sử gia CIA ghi lại
rằng: “Một trong những dấu hỏi lớn hồi đó là tại sao chúng ta không ăn miếng
trả miếng: Lực lượng Bắc VN Nam tiến thì vì sao chúng ta không tiến ra Bắc.
Từ ý tưởng có từ thời Thế chiến II, chúng tôi quyết định thực hiện chương
trình do thám bằng đường biển và đường không”. Trước khi đưa ra quyết định
trên, CIA cùng chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ chú trọng vào việc chống lại lực
lượng nổi dậy ở miền Nam và các nhóm từ miền Bắc.
Lộ tẩy vì bút bi
Tới mùa xuân 1961, Văn phòng CIA tại Sài Gòn và Văn phòng Liên lạc Tổng
thống đã sẵn sàng cho các vụ xâm nhập bằng cách nhảy dù từ máy bay và bằng
đường biển. Trong khi đội biệt kích nhảy dù vẫn phải chờ tới lúc thời tiết
thuận lợi và tuần trăng lên, một điệp viên được thuyền máy đánh cá, loại quen
thuộc trong khu vực, đưa tới miền Bắc vào đầu tháng 4/1961.
Nam điệp viên cặp bờ tại vùng núi đá vôi nhấp nhô ở Vịnh Hạ Long, phía
đông cảng Hải Phòng và kế hoạch vạch sẵn bắt đầu với việc tìm kiếm nơi người
thân trong gia đình đang sinh sống trong vùng. Cũng theo kế hoạch, điệp viên
này tuyển mộ vài người địa phương nhằm giúp vận hành máy phát tín hiệu vô tuyến
RS-1 thời Thế chiến II.
Văn phòng CIA tại Sài Gòn xác định phải mất nhiều tuần mới có thể nhận
được tín hiệu nếu điệp viên không tìm được cộng sự ở địa phương, nhưng trên
thực tế họ không phải chờ lâu. Với sự giúp đỡ của anh trai, điệp viên nhanh
chóng tìm được chỗ giấu máy phát tín hiệu radio trong rừng.
Sau đó, họ phát đi thông điệp đầu tiên trong tổng cộng 23 tin sau này.
Đây được xem là thông điệp dài nhất từ các điệp vụ xâm nhập vào miền Bắc VN do
CIA thực hiện trong suốt 5 năm.
Đến giữa tháng 6, Văn phòng CIA tại Sài Gòn đột nhiên không còn nhận được
tín hiệu từ Vịnh Hạ Long. Ngày 17/6/1961, Lực lượng An ninh nhân dân miền Bắc
(PASF) bắt giữ điệp viên này cùng anh trai vì tội làm gián điệp.
Lỗ hổng bắt đầu từ việc một dân chài phát hiện ra chiếc xuồng nhỏ giấu ở
bờ biển được điệp viên sử dụng để di chuyển từ thuyền đánh cá vào bờ. Trong
cuộc tìm kiếm sau đó, PASF phát hiện ra nơi cất giấu tạm thời máy phát tín hiệu
radio RS-1 của điệp viên CIA.
Tiếp đó diễn ra cuộc tìm kiếm từng nhà, tập trung vào các gia đình có mối
quan hệ với miền Nam và chính quyền thực dân Pháp trước đây. Thông tin từ hai
người dân đã giúp nhanh chóng chấm dứt việc tìm kiếm. Một dân làng thông báo
nhìn thấy người lạ sống trong ngôi nhà gần bãi biển, người lạ này từng ngoảnh
mặt đi khi hai bên chạm mặt nhau trên đường. Người dân thứ hai nhìn thấy vài
người từ ngôi nhà trên bãi biển đã sử dụng một chiếc bút bi – một vật dụng thời
đó rất hiếm ở miền Bắc.
Trong 4 tháng tiếp đó, Văn phòng CIA tại Sài Gòn và đối tác là Văn phòng
Liên lạc Tổng thống (PLO) tiến hành thêm ít nhất 3 điệp vụ đơn độc xâm nhập
miền Bắc bằng đường bộ hoặc đường biển. Sự kỳ vọng vào những điệp vụ này rất
khiêm tốn với mục tiêu chính là sự sống sót của điệp viên.
Trước khi chuyển giao nhiệm vụ cho Phái bộ Viện trợ quân sự Mỹ ở VN
(MACSOG), trong 4 năm (1961-1964), CIA và các đồng sự từ chính quyền Việt Nam
Cộng hòa (VNCH) đã tổ chức được 28 nhóm biệt kích xâm nhập miền Bắc VN bằng
hàng không và đường biển.
Ngoài ra, CIA còn tiến hành 8 điệp vụ xâm nhập khác bằng đường biển và
đường bộ đều do một điệp viên đảm nhận. Cùng việc hỗ trợ CIA, chính quyền VNCH
cũng tổ chức một số nhóm biệt kích riêng để xâm nhập miền Bắc.
Văn phòng CIA tại Sài Gòn cho rằng trong số này chỉ có 5 nhóm (bao gồm 4
nhóm biệt kích nhảy dù) là có giá trị khi chuyển giao cho MACSOG, còn lại đều
thất bại nặng nề. Tuy nhiên, kết quả hoạt động bí mật và thu thập tin tình báo
của 5 nhóm trên cũng không có gì nổi bật. Những người đẻ ra chương trình này
nhiều lúc chỉ mong các điệp viên sống sót để biện hộ cho những nỗ lực, sự mạo
hiểm và chi phí đã bỏ ra
Nhiều điệp viên do CIA huấn luyện bài bản trong nhiều năm đã bị bắt hoặc
bỏ mạng tại miền Bắc Việt Nam (VN) chỉ vì những lý do tưởng như rất đơn giản
như đói khát. Lực lượng an ninh miền Bắc VN còn tương kế tựu kế sau một số vụ
bí mật đón lõng biệt kích làm thất bại nhiều âm mưu của CIA trong thời gian
dài.
- Phản gián
Trong khi CIA vẫn đặt nhiều kỳ vọng vào chiến dịch bí mật xâm nhập miền
Bắc, Hà Nội được biết đã bắt đầu triển khai các hoạt động phản gián một cách
cẩn trọng để tìm hiểu sự thật về các nhóm biệt kích của CIA và PLO.
Trở lại câu chuyện về một máy bay dân sự làm nhiệm vụ tiếp tế cho nhóm
Castor bị mất tích. Ngày 1/7/1961, máy bay này vào một sân bay của Việt Nam
Cộng hòa (VNCH), nhưng sau đó biến mất. Sau này CIA mới biết rằng chuyến bay
tiếp tế ngày 1/7 đã bị rơi ở miền Bắc VN. Hai thành viên của phi hành đoàn có
thể biết rất ít thông tin về nơi họ bay đến. Tuy nhiên, phi công nằm trong số
người sống sót và anh ta phải biết rõ nơi cần bay tới và cả sứ mệnh của mình.
Ba người sống sót trong chuyến bay này phải ra trước phiên tòa xét xử
công khai vào tháng 11/1961 ở miền Bắc. Những người sống sót thừa nhận làm
nhiệm vụ tiếp tế cho các hoạt động nổi dậy, nhưng khai rằng nơi họ đến là một
địa điểm xa xôi ở tỉnh Hòa Bình, cách xa vị trí mà nhóm Castor đã nhảy dù ở Sơn
La.
Sau vụ này, đài phát thanh từ Hà Nội phát thông điệp với các dân tộc sống
ở miền núi rằng hãy hợp tác với lực lượng an ninh. Theo phân tích của CIA tại
Sài Gòn, Hà Nội đang triển khai chiến dịch rộng lớn nhằm chống lại sự xâm nhập,
phá hoại từ các điệp viên của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Đổ lỗi cho… máy bay
Sau các sự kiện trên, CIA thừa nhận các điệp vụ xâm nhập miền Bắc bằng
đường hàng không chỉ có kết quả “hạn chế” và lý do duy nhất để tiếp tục theo
đuổi chiến dịch là “chưa có các biện pháp khác để đạt được mục tiêu”. Bước sang
năm 1962, CIA quyết định tạm ngừng chiến dịch biệt kích nhảy dù để triển khai
các điệp vụ xâm nhập bằng đường bộ và đường biển.
Theo Văn phòng CIA tại Sài Gòn, việc tạm ngừng trên là để đòi hỏi các
loại máy bay phù hợp hơn. Tầm bay hạn chế của máy bay hai động cơ C-47 buộc nó
phải tiếp nhiên liệu tại Đà Nẵng trước khi bay thẳng tới vùng Tây Bắc VN. Sĩ
quan CIA cho rằng việc mất máy bay tiếp tế cho nhóm Castor vào tháng 7/1961 một
phần cũng vì lý do trên. CIA tiến hành thảo luận với Lực lượng không quân Mỹ để
có được máy bay 4 động cơ DC-4.
Trong khi đó sĩ quan Nguyễn Cao Kỳ được giao trách nhiệm tuyển mộ phi
công để sẵn sàng khi máy bay DC-4 tới VNCH vào khoảng tháng 12/1961. Người Mỹ
trực tiếp huấn luyện cho nhóm phi công người Việt để nâng cao kỹ năng bay thấp
trong đêm. Cuối tháng 2/1962, sau nhiều tuần cân nhắc, CIA đi nước cờ mạo hiểm
tiếp theo khi cho nhóm Europa nhảy dù xuống một ngôi làng ở vùng Tây Bắc VN.
Ngày 12/3/1962, Europa phát tín hiệu về Sài Gòn thông báo “an toàn”. Việc
tiếp tế cho Europa sau đó không thành do mất tín hiệu liên lạc, nhưng Sài Gòn
cho rằng chỉ do thời tiết xấu. Đến đầu tháng 6/1962, CIA tại Sài Gòn báo cáo
với Tổng hành dinh rằng Europa vẫn an toàn. Khả năng “thành công” của Europa
khuyến khích CIA tại Sài Gòn tổ chức tiếp điệp vụ tiếp tế cho nhóm biệt kích
đầu tiên Castor dù vẫn bặt vô âm tín. Nguyễn Cao Kỳ cùng đội bay của mình thực
hiện chuyến bay cuối cùng liên quan đến các điệp vụ xâm nhập miền Bắc của CIA.
Trong khi đó, một đội bay khác điều khiển chiếc DC-4 bay tới Sơn La. Do
gặp thời tiết xấu, chiếc SC-4 đâm vào núi, nhưng CIA tại Sài Gòn cho rằng Hà
Nội không biết vụ việc trên nên nhóm Castor vẫn an toàn.
Điệp viên chết đói
Tự huyễn hoặc về sự thành công của nhóm Europa, đầu năm 1962, CIA bắt đầu
tăng cường các điệp vụ xâm nhập miền Bắc VN qua lãnh thổ Lào. Ngày 12/3, sau
khi đã thám sát, CIA cho máy bay trực thăng thả 4 thành viên nhóm Atlas xuống
khu vực thuộc lãnh thổ Lào, gần với tỉnh Nghệ An. Atlas tiến về một ngôi làng ở
phía đông để tìm 2 linh mục được biết là có tư tưởng chống Cộng.
Sau 4 ngày quan sát, Atlas bất ngờ chạm trán với một cậu bé. Ngay sau đó,
lực lượng quân sự địa phương xuất hiện khiến Atlas phải tháo chạy trở lại lãnh
thổ Lào. Một điệp viên bị bắn chết và 1 tên khác bỏ mạng vì giẫm phải mìn. Hai
tên còn lại cố truyền tín hiệu vô tuyến để thông báo tình hình, nhưng cũng sớm
bị bắt giữ. Phải tới khi 2 tên này xuất hiện trước phiên tòa xét xử công khai,
CIA mới biết rằng chúng đã rơi vào tay Lực lượng An ninh nhân dân miền Bắc VN
(PASF) từ ngày 5/4/1962.
Ngày 16/4/1962, nhóm biệt kích Remus gồm 6 thành viên người Thái đen nhảy
dù xuống lãnh thổ Lào ở vị trí cách Điện Biên Phủ 15 km về phía tây bắc. Do đồ
ăn bị hỏng, Remus yêu cầu Văn phòng CIA tại Sài Gòn cung cấp lại thực phẩm và
đã được đáp ứng ngay. Tuy nhiên, yêu cầu quá đáng của nhóm điệp viên như “thịt
gà và vịt phải có màu vàng tươi” của nhóm điệp viên khiến quan chức CIA ở Mỹ bị
sốc.
Tương kế, tựu kế
CIA cảm nhận được sức ép ngày càng tăng do chưa đạt được bất kỳ thành quả
nổi bật nào nên tiếp tục tăng cường các điệp vụ xâm nhập. Đêm 17/5/1962, máy
bay DC-4 đưa 7 thành viên nhóm chuyên phá hoại Tourbillon nhảy dù xuống vị trí
định sẵn cũng ở Sơn La. Tourbillon không ngờ PASF đã đón lõng ở phía dưới và
thậm chí còn đốt lửa để chỉ dẫn cho nhóm biệt kích nhảy dù trong khi chúng vẫn
tưởng rằng đó là ám hiệu của nhóm điệp viên đã xâm nhập từ trước.
Gió mạnh khiến Tourbillon nhảy dù trượt vị trí, nhưng vẫn nằm trong tầm
kiểm soát của PASF. Con mồi đầu tiên là trợ lý của trưởng nhóm khi tên này đang
lò dò trèo xuống từ ngọn cây và bị bắn gục bởi trước đó đã nã súng vào lực
lượng đang truy đuổi hắn. Những điệp viên khác bị bao vây và bị bắt chỉ trong
vài ngày.
An ninh Bắc Việt che đậy vụ đón lõng trong khi tiếp tục truy tìm máy phát
tín hiệu vô tuyến của nhóm Tourbillon. Các tín hiệu không rõ ràng mà an ninh
Bắc Việt phát đi từ máy phát của nhóm biệt kích khiến CIA tại Sài Gòn lầm tưởng
rằng Tourbillon đã được đón tiếp bởi nhóm biệt kích trước đó dù đã mất 1 thành
viên trong một vụ tai nạn. Đến ngày 20/6, CIA vẫn đinh ninh rằng Tourbillon
đang thực hiện các hoạt động phá hoại.
Trong khi đó, ngày 20/5, nhóm Eros nhảy dù xuống vùng núi cao ở tỉnh
Thanh Hóa, sát biên giới với Lào. Vụ xâm nhập này dường như thoát được sự chú ý
của PASF. Năm biệt kích người Mông (Lào), người Thái nhảy dù xuống khu vực là
nơi trú ngụ của cả hai dân tộc trên và hạ trại ở một nơi kín đáo.
Hầu hết các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam được CIA tiến hành trong
năm 1963 bằng nhiều phương cách. Do thất bại ngoài sức tưởng tượng, CIA thậm
chí bắt đầu nghi ngờ một số nhóm xâm nhập vào miền Bắc VN trở thành điệp viên
hai mang. Thất bại nối tiếp thất bại, bắt đầu từ năm 1964, CIA buộc phải chuyển
giao sứ mệnh xâm nhập miền Bắc VN cho quân đội Mỹ.
Ảnh hưởng của Hiệp định Geneva
Với việc Hiệp định Geneva có ảnh hưởng từ ngày 6/10/1962, chính quyền Mỹ
muốn che đậy hoạt động tại miền Bắc VN. Tuy nhiên, CIA có được sự đồng thuận
của Tổng thống (7/9/1962) trong việc tiếp tế cho 1 trong 4 nhóm vẫn còn hoạt
động – hoặc được tin là đang hoạt động – tại miền Bắc VN. Sau ngày 6/10, Nhà
Trắng cho tạm ngừng tất cả “hành động khiêu khích”, bao gồm cả các cuộc tấn
công phá hoại thậm chí của những nhóm biệt kích đang có mặt ở miền Bắc VN.
Trên thực tế, vào những tháng cuối cùng của năm 1962, thậm chí nếu không
bị giới hạn bởi các chính sách hậu Hiệp định Geneva, CIA tại Sài Gòn cũng đối
mặt với khó khăn chồng chất, đặc biệt là thời tiết ở miền Bắc VN. Tháng 1/1963,
nhóm Tarzan nhảy dù xuống đất Lào sau đó xâm nhập qua biên giới vào khu vực gần
đường 12 của miền Bắc VN.
Ngay trước đó, vào ngày cuối cùng của năm 1962, Lyre, nhóm biệt kích đầu
tiên do Sở Chính trị và Nghiên cứu xã hội Phủ Tổng thống (SEPES) của Trần Kim
Tuyến tài trợ, cũng xâm nhập vào bờ biển Bắc VN bằng thuyền. Tuy nhiên, hầu hết
các nhóm biệt kích khác đã được huấn luyện sẵn sàng, nhưng không có động tĩnh
gì.
Nhóm Lyre xâm nhập vào vùng duyên hải gần Đèo Ngang, cách nơi diễn ra
điệp vụ Vulcan khoảng 25 km về phía bắc. Cuối tháng 1/1963 (4 tuần sau khi xâm
nhập), CIA tại Sài Gòn không nhận được bất kỳ thông điệp nào từ Lyre.
Trên thực tế, 5 thành viên Lyre bị bắt tại chỗ, 2 tên khác chạy trốn
xuống phía nam, nhưng vài ngày sau cũng chịu chung số phận. Nhóm Tarzan có vẻ
thành công hơn khi ba lần truyền được tín hiệu từ khu vực gần đường 12 dù không
rõ ràng. Hà Nội thông báo công khai vào ngày 29/5/1963 về việc nhóm biệt kích
Lyre bị bắt.
Chiến dịch ba gọng kìm
Bất chấp Tổng hành dinh ở Mỹ gia tăng nghi ngờ về kết quả của các điệp vụ
đầu năm 1963, CIA tại Sài Gòn sẵn sàng cho một chiến dịch tổng lực theo kiểu ba
gọng kìm nhằm phá hoại miền Bắc VN.
Đến tháng 4/1963, có tới 48 nhóm biệt kích chờ để nhảy dù, xâm nhập bằng
đường biển, đường bộ vào miền Bắc. Theo kế hoạch, 18 nhóm sẽ nhảy dù nếu yêu
cầu cung cấp máy bay mới được đáp ứng; 11 nhóm khác sẽ vào bằng đường biển; còn
lại 17 nhóm vẫn chưa xác định phương cách.
Đầu tháng 4/1963, nhóm Pegasus nhảy dù xuống miền Bắc. Thông tin ban đầu
cho biết có tới 4 điệp viên bị thương do nhảy trúng ngọn cây. Ngày 13/4, CIA
tại Sài Gòn cho nhóm biệt kích 6 tên người miền núi đổ bộ xuống vùng núi cách
Hà Nội 75 km về phía đông bắc. Mục tiêu của nhóm này là tuyến đường sắt từ Hà
Nội chạy tới Trung Quốc.
Cũng như trước đây, hai nhóm điệp viên này đều mất tích hoặc biết rõ đã
bị bắt, nhưng điều kỳ lạ là CIA tại Sài Gòn không điều tra lý do thất bại mà
lại đẩy mạnh hơn nữa các đợt xâm nhập mới. Tháng 6, Hà Nội cho biết nhóm
Pegasus đang “bóc lịch” trong tù.
Tháng 5, CIA cho 3 nhóm nhảy dù xuống miền Bắc, nhưng chỉ có Jason đáp
xuống mặt đất ngày 14. Máy bay chở hai nhóm khác (trong đó có nhóm Europa gây
nhiều rắc rối sau này) phải quay trở lại do thời tiết xấu và gặp rắc rối về kỹ
thuật. Phi công báo cáo, dù của tất cả thành viên Jason đã mở, nhưng nhóm này
cũng mất liên lạc.
Hai tuần đầu của tháng 6, hai máy bay DC-4 của CIA thả 7 nhóm điệp viên
xuống miền Bắc. Hai nhóm đổ bộ xuống vùng núi cao có thể nhìn xuống sông Hồng
và mục tiêu là tuyến đường sắt phía Tây Bắc. Một được giao nhiệm vụ tấn công
cầu và mỏ than ở phía bắc Hải Phòng.
Theo kế hoạch, hai nhóm khác sẽ tấn công các cầu dọc đường số 1. Hai nhóm
còn lại lẩn khuất dọc đường số 7 và 12 dẫn sang Lào. Chỉ có 1 trong 7 nhóm trên
liên lạc với Sài Gòn và thông báo an toàn sau 10 ngày nhảy dù xuống. Nhóm Bell
bị bắt sau 3 ngày xâm nhập
Điệp viên hai mang
Tháng 6, CIA tiến hành thêm nhiều điệp vụ nhảy dù và xâm nhập bằng đường
biển khác, nhưng tỉ lệ thành công gần như bằng không. Lý do thất bại được CIA
tại Sài Gòn báo cáo về Tổng hành dinh một cách đơn giản rằng vì thời tiết xấu
và phương tiện kỹ thuật không vận hành tốt. Ngoài việc xâm nhập, các đợt tiếp
tế của CIA thời gian này cũng thất bại thảm hại và lại được giải thích là do
thời tiết xấu hoặc phi công không tìm được vị trí của các nhóm nhảy dù trước
đó.
Bước vào năm 1963, CIA được cung cấp hàng loạt máy bay hiện đại C-123 và
DC-4 để phục vụ tốt hơn cho điệp vụ nhảy dù, tiếp tế, nhưng kết quả dường như
tồi tệ hơn. Ngày 2/7, máy bay C-123 đưa nhóm Giant nhảy dù xuống vùng núi phía
tây thành phố Vinh.
Ngày 4/7, máy bay DC-4 thả nhóm Packer xuống nhằm phá hoại tuyến đường
sắt Tây Bắc và sau đó đưa nhóm Europa tới địa điểm khác ở gần Hà Nội. Chiếc
DC-4 có tầm bay xa hơn, được trang bị hệ thống định vị hiện đại và cả thiết bị
tránh sự phát hiện của rađa chở nhóm Europa không bao giờ quay trở lại Sài Gòn.
Do không có phản ứng nào từ Hà Nội, CIA tại Sài Gòn kết luận chiếc DC-4
không bị lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam bắn hạ mà va vào núi cao khi
bay ở tầm thấp.
Lại tự huyễn hoặc về khả năng vượt trội của loại máy bay mới có thể tránh
được mọi nguy hiểm từ dưới mặt đất, CIA không ngờ rằng miền Bắc VN di chuyển 10
đơn vị phòng không tới khu vực mà nhóm Europa từng nhảy dù xuống. Giữa tháng
8/1963, chiếc C-123 làm nhiệm vụ tiếp tế cho nhóm Europa bất ngờ bị pháo phòng
không của ta tấn công. Cơ trưởng của chiếc C-123 này may mà thoát được. Sau đó
bị chấn thương tâm lý nặng về vụ suýt chết trên./.
Ảnh tư liệu