Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2020

Đấu tranh làm thất bại thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Đấu tranh làm thất bại thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh

Những năm qua, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, hòng đưa tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy, cần nhận diện và chủ động đấu tranh làm thất bại mưu đồ của chúng, bảo vệ giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Chúng cho rằng việc Hồ Chí Minh vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam là sai lầm, là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng dựng chuyện phi thực tế về thân thế, đời tư của Hồ Chí Minh hòng bôi nhọ lãnh tụ; triệt để lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong thực hiện quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và các vụ việc tiêu cực, tham nhũng xảy ra để xuyên tạc rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế của thời đại. Với những thủ đoạn đó, chúng hy vọng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về thành tựu đổi mới của đất nước, về mục tiêu, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Vì vậy, một mặt chúng ta cần tích cực tuyên truyền, khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, bao gồm hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn đuốc soi đường đưa cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó chứng minh rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào phong trào cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, để kiến tạo nên một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam, là thời đại Hồ Chí Minh, là một mốc son sáng ngời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đó là một chân lý không ai có thể phủ nhận được.

Đồng thời, cần phải tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho các tầng lớp nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế nhằm khẳng định sự thắng lợi của xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là minh chứng sinh động nhất nhằm bảo vệ vị thế, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đập tan luận điệu xuyên tạc, chống phá tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch.     

 

Chủ động nhận diện và đấu tranh làm thất bại thủ đoạn xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng ta

 

Chủ động nhận diện và đấu tranh làm thất bại thủ đoạn xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng ta

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, những năm qua, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, hòng đưa tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tìm cách đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng coi Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản. Chúng cho rằng việc Hồ Chí Minh vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam là sai lầm, là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng dựng chuyện phi thực tế về thân thế, đời tư của Hồ Chí Minh hòng bôi nhọ lãnh tụ; triệt để lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong thực hiện quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và các vụ việc tiêu cực, tham nhũng xảy ra để xuyên tạc rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế của thời đại. Mục đích của chúng là làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về thành tựu đổi mới của đất nước, về mục tiêu, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 Chính vì vậy, một mặt cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, khẳng định vị thế, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng, trong hoạch định đường lối xây dựng và phát triển đất nước; làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt trong đời sống, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta. Qua đó nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho cuộc đấu tranh, phê phán quan điểm, tư tưởng xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Gắn kết chặt chẽ cuộc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

 Đồng thời, tiếp tục tăng cường công tác quản lý Nhà nước về báo chí, truyền thông, internet và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực này. Qua đó chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc của số phóng viên thoái hóa, biến chất; phát hiện các tài liệu, bài viết xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người để có biện pháp xử lý kịp thời. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các trang mạng độc hại, các blog “đen” thường đăng tải các tin, bài, phim có nội dung xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, hòng phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam./.     

 

Thất bại của 36 điệp vụ CIA xâm nhập miền Bắc Việt Nam

 

Trong gần 4 năm (1961 – 1964), Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) thực hiện ít nhất 36 điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (VN) bằng nhiều cách khác nhau, nhưng hầu như tất cả đều thất bại nặng nền.

Từ năm 1965, hầu hết các vụ xâm nhập miền Bắc VN do Phái bộ Viện trợ quân sự Mỹ ở VN thực hiện. Chi tiết các điệp vụ tuyệt mật này vừa được Trung tâm Nghiên cứu tình báo thuộc CIA giải mật.

Bơi qua sông Bến Hải

Sau 1 năm chuẩn bị bao gồm cả việc tuyển mộ, đào tạo điệp viên với sự hợp tác được cho là toàn diện nhất với cơ quan an ninh của chính quyền Ngô Đình Diệm, CIA mới thực hiện được điệp vụ đầu tiên xâm nhập miền Bắc VN qua khu phi quân sự (DMZ) ở hai bên bờ sông Bến Hải.

Một nam điệp viên đã bơi qua sông Bến Hải bằng săm ôtô trước nửa đêm 5/12/1960. (Trong tài liệu vừa được giải mật, mật danh của điệp viên này vẫn bị bôi đen – PV). Sĩ quan người Việt khác chờ sẵn ở bờ bên kia để xì hơi, cắt săm và chôn xuống đất trước khi điệp viên đi bộ về hướng Bắc.

Với các giấy tờ do CIA cung cấp, điệp viên này vượt qua hai chốt kiểm tra của cảnh sát để đến gần thị trấn Hồ Xá trước khi trở về phía Nam bằng đường cũ. Tài liệu vừa giải mật không cho biết điệp viên này đã thực hiện được nhiệm vụ gì phía bên kia sông.

Vào thời điểm thực hiện điệp vụ đầu tiên xâm nhập miền Bắc VN, quan chức cấp cao CIA Robert Myers thăm Sài Gòn và được William Colby, Trưởng Văn phòng CIA tại Sài Gòn, mô tả chi tiết về chương trình mới cho người Việt Nam nhảy dù xuống miền Bắc.

Myers, người đã chứng kiến thất bại trong các điệp vụ tương tự của CIA tại Trung Quốc giữa những năm 50, nói với Colby rằng chương trình sẽ khó triển khai. Tuy nhiên, Colby không đồng ý với quan điểm trên và khẳng định rằng có thể phát hiện được những khu vực an toàn ở miền Bắc, ít nhất là ở những nơi vắng dân cư.

Trong báo cáo gửi về Tổng hành dinh CIA tại Mỹ, Văn phòng CIA tại Sài Gòn mô tả chi tiết quá trình chuẩn bị hoàn hảo như thế nào cho điệp viên để có thể thành công khi xâm nhập miền Bắc VN. Cuối cùng, Văn phòng CIA khẳng định phải mất 1 năm chuẩn bị trước khi có nhóm điệp viên đầu tiên đổ bộ vào miền Bắc.

Hơn một năm sau vào đêm 26/3/1961, hình thức xâm nhập đơn độc kiểu này mới được CIA thực hiện tiếp. Văn phòng CIA tại Sài Gòn bố trí thuyền đưa điệp viên này tới một nơi gần Đồng Hới, cách không xa DMZ. Trong 5 ngày nằm vùng, điệp viên quan sát công việc của cảnh sát miền Bắc và các kho quân sự nhỏ. Vẫn sử dụng giấy tờ giả, nam điệp viên này bắt xe ôtô tới Vĩnh Linh và sau đó đi bộ tới sông Bến Hải để trở về miền Nam vào ban đêm.

Gần đây, Colby hồi tưởng trong các tài liệu được các sử gia CIA ghi lại rằng: “Một trong những dấu hỏi lớn hồi đó là tại sao chúng ta không ăn miếng trả miếng: Lực lượng Bắc VN Nam tiến thì vì sao chúng ta không tiến ra Bắc. 

Từ ý tưởng có từ thời Thế chiến II, chúng tôi quyết định thực hiện chương trình do thám bằng đường biển và đường không”. Trước khi đưa ra quyết định trên, CIA cùng chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ chú trọng vào việc chống lại lực lượng nổi dậy ở miền Nam và các nhóm từ miền Bắc.

Lộ tẩy vì bút bi

Tới mùa xuân 1961, Văn phòng CIA tại Sài Gòn và Văn phòng Liên lạc Tổng thống đã sẵn sàng cho các vụ xâm nhập bằng cách nhảy dù từ máy bay và bằng đường biển. Trong khi đội biệt kích nhảy dù vẫn phải chờ tới lúc thời tiết thuận lợi và tuần trăng lên, một điệp viên được thuyền máy đánh cá, loại quen thuộc trong khu vực, đưa tới miền Bắc vào đầu tháng 4/1961.

Nam điệp viên cặp bờ tại vùng núi đá vôi nhấp nhô ở Vịnh Hạ Long, phía đông cảng Hải Phòng và kế hoạch vạch sẵn bắt đầu với việc tìm kiếm nơi người thân trong gia đình đang sinh sống trong vùng. Cũng theo kế hoạch, điệp viên này tuyển mộ vài người địa phương nhằm giúp vận hành máy phát tín hiệu vô tuyến RS-1 thời Thế chiến II.

Văn phòng CIA tại Sài Gòn xác định phải mất nhiều tuần mới có thể nhận được tín hiệu nếu điệp viên không tìm được cộng sự ở địa phương, nhưng trên thực tế họ không phải chờ lâu. Với sự giúp đỡ của anh trai, điệp viên nhanh chóng tìm được chỗ giấu máy phát tín hiệu radio trong rừng.

Sau đó, họ phát đi thông điệp đầu tiên trong tổng cộng 23 tin sau này. Đây được xem là thông điệp dài nhất từ các điệp vụ xâm nhập vào miền Bắc VN do CIA thực hiện trong suốt 5 năm.

Đến giữa tháng 6, Văn phòng CIA tại Sài Gòn đột nhiên không còn nhận được tín hiệu từ Vịnh Hạ Long. Ngày 17/6/1961, Lực lượng An ninh nhân dân miền Bắc (PASF) bắt giữ điệp viên này cùng anh trai vì tội làm gián điệp.

Lỗ hổng bắt đầu từ việc một dân chài phát hiện ra chiếc xuồng nhỏ giấu ở bờ biển được điệp viên sử dụng để di chuyển từ thuyền đánh cá vào bờ. Trong cuộc tìm kiếm sau đó, PASF phát hiện ra nơi cất giấu tạm thời máy phát tín hiệu radio RS-1 của điệp viên CIA.

Tiếp đó diễn ra cuộc tìm kiếm từng nhà, tập trung vào các gia đình có mối quan hệ với miền Nam và chính quyền thực dân Pháp trước đây. Thông tin từ hai người dân đã giúp nhanh chóng chấm dứt việc tìm kiếm. Một dân làng thông báo nhìn thấy người lạ sống trong ngôi nhà gần bãi biển, người lạ này từng ngoảnh mặt đi khi hai bên chạm mặt nhau trên đường. Người dân thứ hai nhìn thấy vài người từ ngôi nhà trên bãi biển đã sử dụng một chiếc bút bi – một vật dụng thời đó rất hiếm ở miền Bắc.

Trong 4 tháng tiếp đó, Văn phòng CIA tại Sài Gòn và đối tác là Văn phòng Liên lạc Tổng thống (PLO) tiến hành thêm ít nhất 3 điệp vụ đơn độc xâm nhập miền Bắc bằng đường bộ hoặc đường biển. Sự kỳ vọng vào những điệp vụ này rất khiêm tốn với mục tiêu chính là sự sống sót của điệp viên.

Trước khi chuyển giao nhiệm vụ cho Phái bộ Viện trợ quân sự Mỹ ở VN (MACSOG), trong 4 năm (1961-1964), CIA và các đồng sự từ chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã tổ chức được 28 nhóm biệt kích xâm nhập miền Bắc VN bằng hàng không và đường biển.

Ngoài ra, CIA còn tiến hành 8 điệp vụ xâm nhập khác bằng đường biển và đường bộ đều do một điệp viên đảm nhận. Cùng việc hỗ trợ CIA, chính quyền VNCH cũng tổ chức một số nhóm biệt kích riêng để xâm nhập miền Bắc.

Văn phòng CIA tại Sài Gòn cho rằng trong số này chỉ có 5 nhóm (bao gồm 4 nhóm biệt kích nhảy dù) là có giá trị khi chuyển giao cho MACSOG, còn lại đều thất bại nặng nề. Tuy nhiên, kết quả hoạt động bí mật và thu thập tin tình báo của 5 nhóm trên cũng không có gì nổi bật. Những người đẻ ra chương trình này nhiều lúc chỉ mong các điệp viên sống sót để biện hộ cho những nỗ lực, sự mạo hiểm và chi phí đã bỏ ra

Nhiều điệp viên do CIA huấn luyện bài bản trong nhiều năm đã bị bắt hoặc bỏ mạng tại miền Bắc Việt Nam (VN) chỉ vì những lý do tưởng như rất đơn giản như đói khát. Lực lượng an ninh miền Bắc VN còn tương kế tựu kế sau một số vụ bí mật đón lõng biệt kích làm thất bại nhiều âm mưu của CIA trong thời gian dài.

- Phản gián

Trong khi CIA vẫn đặt nhiều kỳ vọng vào chiến dịch bí mật xâm nhập miền Bắc, Hà Nội được biết đã bắt đầu triển khai các hoạt động phản gián một cách cẩn trọng để tìm hiểu sự thật về các nhóm biệt kích của CIA và PLO.

Trở lại câu chuyện về một máy bay dân sự làm nhiệm vụ tiếp tế cho nhóm Castor bị mất tích. Ngày 1/7/1961, máy bay này vào một sân bay của Việt Nam Cộng hòa (VNCH), nhưng sau đó biến mất. Sau này CIA mới biết rằng chuyến bay tiếp tế ngày 1/7 đã bị rơi ở miền Bắc VN. Hai thành viên của phi hành đoàn có thể biết rất ít thông tin về nơi họ bay đến. Tuy nhiên, phi công nằm trong số người sống sót và anh ta phải biết rõ nơi cần bay tới và cả sứ mệnh của mình.

Ba người sống sót trong chuyến bay này phải ra trước phiên tòa xét xử công khai vào tháng 11/1961 ở miền Bắc. Những người sống sót thừa nhận làm nhiệm vụ tiếp tế cho các hoạt động nổi dậy, nhưng khai rằng nơi họ đến là một địa điểm xa xôi ở tỉnh Hòa Bình, cách xa vị trí mà nhóm Castor đã nhảy dù ở Sơn La.

Sau vụ này, đài phát thanh từ Hà Nội phát thông điệp với các dân tộc sống ở miền núi rằng hãy hợp tác với lực lượng an ninh. Theo phân tích của CIA tại Sài Gòn, Hà Nội đang triển khai chiến dịch rộng lớn nhằm chống lại sự xâm nhập, phá hoại từ các điệp viên của chính quyền Ngô Đình Diệm.

Đổ lỗi cho… máy bay

Sau các sự kiện trên, CIA thừa nhận các điệp vụ xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không chỉ có kết quả “hạn chế” và lý do duy nhất để tiếp tục theo đuổi chiến dịch là “chưa có các biện pháp khác để đạt được mục tiêu”. Bước sang năm 1962, CIA quyết định tạm ngừng chiến dịch biệt kích nhảy dù để triển khai các điệp vụ xâm nhập bằng đường bộ và đường biển.

Theo Văn phòng CIA tại Sài Gòn, việc tạm ngừng trên là để đòi hỏi các loại máy bay phù hợp hơn. Tầm bay hạn chế của máy bay hai động cơ C-47 buộc nó phải tiếp nhiên liệu tại Đà Nẵng trước khi bay thẳng tới vùng Tây Bắc VN. Sĩ quan CIA cho rằng việc mất máy bay tiếp tế cho nhóm Castor vào tháng 7/1961 một phần cũng vì lý do trên. CIA tiến hành thảo luận với Lực lượng không quân Mỹ để có được máy bay 4 động cơ DC-4.

Trong khi đó sĩ quan Nguyễn Cao Kỳ được giao trách nhiệm tuyển mộ phi công để sẵn sàng khi máy bay DC-4 tới VNCH vào khoảng tháng 12/1961. Người Mỹ trực tiếp huấn luyện cho nhóm phi công người Việt để nâng cao kỹ năng bay thấp trong đêm. Cuối tháng 2/1962, sau nhiều tuần cân nhắc, CIA đi nước cờ mạo hiểm tiếp theo khi cho nhóm Europa nhảy dù xuống một ngôi làng ở vùng Tây Bắc VN.

Ngày 12/3/1962, Europa phát tín hiệu về Sài Gòn thông báo “an toàn”. Việc tiếp tế cho Europa sau đó không thành do mất tín hiệu liên lạc, nhưng Sài Gòn cho rằng chỉ do thời tiết xấu. Đến đầu tháng 6/1962, CIA tại Sài Gòn báo cáo với Tổng hành dinh rằng Europa vẫn an toàn. Khả năng “thành công” của Europa khuyến khích CIA tại Sài Gòn tổ chức tiếp điệp vụ tiếp tế cho nhóm biệt kích đầu tiên Castor dù vẫn bặt vô âm tín. Nguyễn Cao Kỳ cùng đội bay của mình thực hiện chuyến bay cuối cùng liên quan đến các điệp vụ xâm nhập miền Bắc của CIA.

Trong khi đó, một đội bay khác điều khiển chiếc DC-4 bay tới Sơn La. Do gặp thời tiết xấu, chiếc SC-4 đâm vào núi, nhưng CIA tại Sài Gòn cho rằng Hà Nội không biết vụ việc trên nên nhóm Castor vẫn an toàn.

Điệp viên chết đói

Tự huyễn hoặc về sự thành công của nhóm Europa, đầu năm 1962, CIA bắt đầu tăng cường các điệp vụ xâm nhập miền Bắc VN qua lãnh thổ Lào. Ngày 12/3, sau khi đã thám sát, CIA cho máy bay trực thăng thả 4 thành viên nhóm Atlas xuống khu vực thuộc lãnh thổ Lào, gần với tỉnh Nghệ An. Atlas tiến về một ngôi làng ở phía đông để tìm 2 linh mục được biết là có tư tưởng chống Cộng.

Sau 4 ngày quan sát, Atlas bất ngờ chạm trán với một cậu bé. Ngay sau đó, lực lượng quân sự địa phương xuất hiện khiến Atlas phải tháo chạy trở lại lãnh thổ Lào. Một điệp viên bị bắn chết và 1 tên khác bỏ mạng vì giẫm phải mìn. Hai tên còn lại cố truyền tín hiệu vô tuyến để thông báo tình hình, nhưng cũng sớm bị bắt giữ. Phải tới khi 2 tên này xuất hiện trước phiên tòa xét xử công khai, CIA mới biết rằng chúng đã rơi vào tay Lực lượng An ninh nhân dân miền Bắc VN (PASF) từ ngày 5/4/1962.

Ngày 16/4/1962, nhóm biệt kích Remus gồm 6 thành viên người Thái đen nhảy dù xuống lãnh thổ Lào ở vị trí cách Điện Biên Phủ 15 km về phía tây bắc. Do đồ ăn bị hỏng, Remus yêu cầu Văn phòng CIA tại Sài Gòn cung cấp lại thực phẩm và đã được đáp ứng ngay. Tuy nhiên, yêu cầu quá đáng của nhóm điệp viên như “thịt gà và vịt phải có màu vàng tươi” của nhóm điệp viên khiến quan chức CIA ở Mỹ bị sốc.

Tương kế, tựu kế

CIA cảm nhận được sức ép ngày càng tăng do chưa đạt được bất kỳ thành quả nổi bật nào nên tiếp tục tăng cường các điệp vụ xâm nhập. Đêm 17/5/1962, máy bay DC-4 đưa 7 thành viên nhóm chuyên phá hoại Tourbillon nhảy dù xuống vị trí định sẵn cũng ở Sơn La. Tourbillon không ngờ PASF đã đón lõng ở phía dưới và thậm chí còn đốt lửa để chỉ dẫn cho nhóm biệt kích nhảy dù trong khi chúng vẫn tưởng rằng đó là ám hiệu của nhóm điệp viên đã xâm nhập từ trước.

Gió mạnh khiến Tourbillon nhảy dù trượt vị trí, nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát của PASF. Con mồi đầu tiên là trợ lý của trưởng nhóm khi tên này đang lò dò trèo xuống từ ngọn cây và bị bắn gục bởi trước đó đã nã súng vào lực lượng đang truy đuổi hắn. Những điệp viên khác bị bao vây và bị bắt chỉ trong vài ngày.

An ninh Bắc Việt che đậy vụ đón lõng trong khi tiếp tục truy tìm máy phát tín hiệu vô tuyến của nhóm Tourbillon. Các tín hiệu không rõ ràng mà an ninh Bắc Việt phát đi từ máy phát của nhóm biệt kích khiến CIA tại Sài Gòn lầm tưởng rằng Tourbillon đã được đón tiếp bởi nhóm biệt kích trước đó dù đã mất 1 thành viên trong một vụ tai nạn. Đến ngày 20/6, CIA vẫn đinh ninh rằng Tourbillon đang thực hiện các hoạt động phá hoại.

Trong khi đó, ngày 20/5, nhóm Eros nhảy dù xuống vùng núi cao ở tỉnh Thanh Hóa, sát biên giới với Lào. Vụ xâm nhập này dường như thoát được sự chú ý của PASF. Năm biệt kích người Mông (Lào), người Thái nhảy dù xuống khu vực là nơi trú ngụ của cả hai dân tộc trên và hạ trại ở một nơi kín đáo.

Hầu hết các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam được CIA tiến hành trong năm 1963 bằng nhiều phương cách. Do thất bại ngoài sức tưởng tượng, CIA thậm chí bắt đầu nghi ngờ một số nhóm xâm nhập vào miền Bắc VN trở thành điệp viên hai mang. Thất bại nối tiếp thất bại, bắt đầu từ năm 1964, CIA buộc phải chuyển giao sứ mệnh xâm nhập miền Bắc VN cho quân đội Mỹ.

Ảnh hưởng của Hiệp định Geneva

Với việc Hiệp định Geneva có ảnh hưởng từ ngày 6/10/1962, chính quyền Mỹ muốn che đậy hoạt động tại miền Bắc VN. Tuy nhiên, CIA có được sự đồng thuận của Tổng thống (7/9/1962) trong việc tiếp tế cho 1 trong 4 nhóm vẫn còn hoạt động – hoặc được tin là đang hoạt động – tại miền Bắc VN. Sau ngày 6/10, Nhà Trắng cho tạm ngừng tất cả “hành động khiêu khích”, bao gồm cả các cuộc tấn công phá hoại thậm chí của những nhóm biệt kích đang có mặt ở miền Bắc VN.

Trên thực tế, vào những tháng cuối cùng của năm 1962, thậm chí nếu không bị giới hạn bởi các chính sách hậu Hiệp định Geneva, CIA tại Sài Gòn cũng đối mặt với khó khăn chồng chất, đặc biệt là thời tiết ở miền Bắc VN. Tháng 1/1963, nhóm Tarzan nhảy dù xuống đất Lào sau đó xâm nhập qua biên giới vào khu vực gần đường 12 của miền Bắc VN.

Ngay trước đó, vào ngày cuối cùng của năm 1962, Lyre, nhóm biệt kích đầu tiên do Sở Chính trị và Nghiên cứu xã hội Phủ Tổng thống (SEPES) của Trần Kim Tuyến tài trợ, cũng xâm nhập vào bờ biển Bắc VN bằng thuyền. Tuy nhiên, hầu hết các nhóm biệt kích khác đã được huấn luyện sẵn sàng, nhưng không có động tĩnh gì.

Nhóm Lyre xâm nhập vào vùng duyên hải gần Đèo Ngang, cách nơi diễn ra điệp vụ Vulcan khoảng 25 km về phía bắc. Cuối tháng 1/1963 (4 tuần sau khi xâm nhập), CIA tại Sài Gòn không nhận được bất kỳ thông điệp nào từ Lyre.

Trên thực tế, 5 thành viên Lyre bị bắt tại chỗ, 2 tên khác chạy trốn xuống phía nam, nhưng vài ngày sau cũng chịu chung số phận. Nhóm Tarzan có vẻ thành công hơn khi ba lần truyền được tín hiệu từ khu vực gần đường 12 dù không rõ ràng. Hà Nội thông báo công khai vào ngày 29/5/1963 về việc nhóm biệt kích Lyre bị bắt.

Chiến dịch ba gọng kìm

Bất chấp Tổng hành dinh ở Mỹ gia tăng nghi ngờ về kết quả của các điệp vụ đầu năm 1963, CIA tại Sài Gòn sẵn sàng cho một chiến dịch tổng lực theo kiểu ba gọng kìm nhằm phá hoại miền Bắc VN.

Đến tháng 4/1963, có tới 48 nhóm biệt kích chờ để nhảy dù, xâm nhập bằng đường biển, đường bộ vào miền Bắc. Theo kế hoạch, 18 nhóm sẽ nhảy dù nếu yêu cầu cung cấp máy bay mới được đáp ứng; 11 nhóm khác sẽ vào bằng đường biển; còn lại 17 nhóm vẫn chưa xác định phương cách.

Đầu tháng 4/1963, nhóm Pegasus nhảy dù xuống miền Bắc. Thông tin ban đầu cho biết có tới 4 điệp viên bị thương do nhảy trúng ngọn cây. Ngày 13/4, CIA tại Sài Gòn cho nhóm biệt kích 6 tên người miền núi đổ bộ xuống vùng núi cách Hà Nội 75 km về phía đông bắc. Mục tiêu của nhóm này là tuyến đường sắt từ Hà Nội chạy tới Trung Quốc.

Cũng như trước đây, hai nhóm điệp viên này đều mất tích hoặc biết rõ đã bị bắt, nhưng điều kỳ lạ là CIA tại Sài Gòn không điều tra lý do thất bại mà lại đẩy mạnh hơn nữa các đợt xâm nhập mới. Tháng 6, Hà Nội cho biết nhóm Pegasus đang “bóc lịch” trong tù.

Tháng 5, CIA cho 3 nhóm nhảy dù xuống miền Bắc, nhưng chỉ có Jason đáp xuống mặt đất ngày 14. Máy bay chở hai nhóm khác (trong đó có nhóm Europa gây nhiều rắc rối sau này) phải quay trở lại do thời tiết xấu và gặp rắc rối về kỹ thuật. Phi công báo cáo, dù của tất cả thành viên Jason đã mở, nhưng nhóm này cũng mất liên lạc.

Hai tuần đầu của tháng 6, hai máy bay DC-4 của CIA thả 7 nhóm điệp viên xuống miền Bắc. Hai nhóm đổ bộ xuống vùng núi cao có thể nhìn xuống sông Hồng và mục tiêu là tuyến đường sắt phía Tây Bắc. Một được giao nhiệm vụ tấn công cầu và mỏ than ở phía bắc Hải Phòng.

Theo kế hoạch, hai nhóm khác sẽ tấn công các cầu dọc đường số 1. Hai nhóm còn lại lẩn khuất dọc đường số 7 và 12 dẫn sang Lào. Chỉ có 1 trong 7 nhóm trên liên lạc với Sài Gòn và thông báo an toàn sau 10 ngày nhảy dù xuống. Nhóm Bell bị bắt sau 3 ngày xâm nhập

Điệp viên hai mang

Tháng 6, CIA tiến hành thêm nhiều điệp vụ nhảy dù và xâm nhập bằng đường biển khác, nhưng tỉ lệ thành công gần như bằng không. Lý do thất bại được CIA tại Sài Gòn báo cáo về Tổng hành dinh một cách đơn giản rằng vì thời tiết xấu và phương tiện kỹ thuật không vận hành tốt. Ngoài việc xâm nhập, các đợt tiếp tế của CIA thời gian này cũng thất bại thảm hại và lại được giải thích là do thời tiết xấu hoặc phi công không tìm được vị trí của các nhóm nhảy dù trước đó.

Bước vào năm 1963, CIA được cung cấp hàng loạt máy bay hiện đại C-123 và DC-4 để phục vụ tốt hơn cho điệp vụ nhảy dù, tiếp tế, nhưng kết quả dường như tồi tệ hơn. Ngày 2/7, máy bay C-123 đưa nhóm Giant nhảy dù xuống vùng núi phía tây thành phố Vinh.

Ngày 4/7, máy bay DC-4 thả nhóm Packer xuống nhằm phá hoại tuyến đường sắt Tây Bắc và sau đó đưa nhóm Europa tới địa điểm khác ở gần Hà Nội. Chiếc DC-4 có tầm bay xa hơn, được trang bị hệ thống định vị hiện đại và cả thiết bị tránh sự phát hiện của rađa chở nhóm Europa không bao giờ quay trở lại Sài Gòn.

Do không có phản ứng nào từ Hà Nội, CIA tại Sài Gòn kết luận chiếc DC-4 không bị lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam bắn hạ mà va vào núi cao khi bay ở tầm thấp.

Lại tự huyễn hoặc về khả năng vượt trội của loại máy bay mới có thể tránh được mọi nguy hiểm từ dưới mặt đất, CIA không ngờ rằng miền Bắc VN di chuyển 10 đơn vị phòng không tới khu vực mà nhóm Europa từng nhảy dù xuống. Giữa tháng 8/1963, chiếc C-123 làm nhiệm vụ tiếp tế cho nhóm Europa bất ngờ bị pháo phòng không của ta tấn công. Cơ trưởng của chiếc C-123 này may mà thoát được. Sau đó bị chấn thương tâm lý nặng về vụ suýt chết trên./.

Ảnh tư liệu

Chiến dịch Biên giới 1950: Phá thế bao vây, cô lập của quân Pháp, mở rộng vùng giải phóng

     Sau thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Thu Đông 1947, thực dân Pháp đẩy mạnh việc củng cố, mở rộng hành lang Đông - Tây; đồng thời với vùng chiếm đóng ở Trung du, đồng bằng Bắc Bộ, củng cố phòng tuyến biên giới phía Đông Bắc. Tuy nhiên, đến giữa năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến tích cực cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cách mạng Trung Hoa thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cùng với hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra đời. Yêu cầu chiến lược của ta lúc này là phá tan âm mưu phong tỏa biên giới phía Bắc của địch, mở đường giao lưu giữa nước ta với các nước anh em để tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ về vũ khí, trang bị, vật chất của bạn bè quốc tế. Trước tình hình trên, tháng 6/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ đạo Tổng Quân ủy, Tổng Tư lệnh chuẩn bị chiến trường để quyết định mở chiến dịch Biên Giới.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh quan sát Mặt trận Đông Khê (1950). (ảnh tư liệu)

Thực hiện nhiệm vụ Trung ương Đảng giao, ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh mở chiến dịch Biên Giới Cao - Lạng, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng Phong. Ngày 27/7/1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Đảng ủy viên chiến dịch gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng chiến dịch; Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Cung cấp; Lê Liêm - Chủ nhiệm Chính trị và Bùi Quang Tạo. Cùng với đó, các cơ quan giúp việc cho Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch cũng gấp rút được thành lập.

Trước ngày ta nổ súng mở màn chiến dịch, địch chia Liên khu Biên Giới thành hai khu và hai phân khu Cao Bằng và Thất Khê, khu Lạng Sơn, khu An Châu, với tổng số binh lực vừa chiếm đóng và cơ động là 11 tiểu đoàn, 9 đại đội bộ binh, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh, 27 khẩu pháo các loại và 8 máy bay. Lực lượng địch tại biên giới hầu hết là các đơn vị Âu - Phi tinh nhuệ, có truyền thống chiến đấu tại châu Âu. Tại các vị trí chiếm đóng chúng xây dựng thành các cụm cứ điểm với binh lực từ hai đại đội trở lên… Trong các cứ điểm đều xây dựng lô cốt, hầm hào tương đối kiên cố, hỏa lực chi viện được cho nhau.

Ban đầu ta định chọn Cao Bằng là điểm mở màn chiến dịch. Sau khi đi trinh sát thực địa Cao Bằng, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy, Cao Bằng tuy là một thị xã cô lập, đột xuất, nhưng đó là quần thể kiến trúc phức tạp, có hệ thống đồn trại, pháo đài kiên cố do hai tiểu đoàn địch đóng giữ, nếu đánh Cao Bằng “ta chưa có thể nói chắc bảo đảm thắng lợi”. Ngày 16 tháng 8, sau khi cân nhắc, thảo luận, Đảng ủy chiến dịch đi đến quyết nghị một phương án tác chiến mới là đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch; đồng thời, tổ chức tiêu diệt quân ứng cứu cho Đông Khê, sau đó đánh xuống Thất Khê và chỉnh đốn rồi tiếp tục đánh Cao Bằng.

Chiến dịch Biên Giới là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên của Quân đội ta với khoảng 2/3 lực lượng chủ lực của Bộ, cùng lực lượng chủ lực của Liên Khu Việt Bắc và lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Tổng số lực lượng tham gia chiến dịch tương đương hai đại đoàn, được phân chia làm ba mặt trận:

Mặt trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê và quân dù có thể nhảy xuống quanh Đông Khê. Lực lượng tham gia là Trung đoàn 174 (được tăng cường 2 tiểu đoàn), Trung đoàn 209, Trung đoàn 36 Đại đoàn 308, Tiểu đoàn pháo 75 mm thiếu.

Mặt trận đánh quân ứng chiếm do Đại đoàn 308 đảm nhiệm, bố trí ở đoạn đường giữa Đông Khê - Thất Khê.

Mặt trận Na Sầm - Lạng Sơn gồm các Tiểu đoàn 428 của Liên khu Việt Bắc, Tiểu đoàn 888 Lạng Sơn có nhiệm vụ phá đường, tiêu hao, quấy rối, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.

Công tác bảo đảm cho chiến dịch rất lớn. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, trực tiếp chỉ huy bộ máy bảo đảm chiến dịch. Đến trung tuần tháng 9, công tác hậu cần chiến dịch cơ bản hoàn thành với hơn 4.000 tấn lương thực, súng đạn đã được vận chuyển đến những địa điểm thích hợp, bảo đảm đúng ý định của chiến dịch..

Chiến dịch Biên Giới thực tế diễn ra ba đợt: Đợt 1 từ ngày 16 đến ngày 20/9/1950: Ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê. Đợt hai từ ngày 21 đến ngày 29/9/1950: Tiến hành trận then chốt quyết định tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác - tông. Đợt ba từ ngày 09 đến ngày 14/10/1950: Địch ở Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn rút chạy, ta truy kích địch giải phóng Thất Khê, Na Sầm.

Trong chiến dịch này, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo chuẩn bị chiến trường chu đáo, nghiên cứu nắm địch chính xác, xác định đúng phương châm chiến dịch: “đánh điểm diệt viện”, có kế hoạch tác chiến phù hợp. Sau khi ta đánh “điểm” Đông Khê, chia cắt lực lượng địch giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, chúng buộc phải đưa lực lượng “viện” từ Lạng Sơn lên ứng cứu cho lực lượng bị cô lập, chia cắt ở Cao Bằng, tạo điều kiện để ta thực hiện vận động tiến công tổ chức chia cắt, bao vây tiêu diệt từng bộ phận tiến tới tiêu diệt hoàn toàn hai binh đoàn cơ động Lơ Pa-giơ và Sác Tông, đẩy lui binh đoàn Đờ La Bôm đến giải vây.

Kết quả: Sau 29 ngày đêm chiến đấu ta đã đánh và tiêu diệt gần 10 tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 8.296 tên (bắt sống 3.576 tên, có 3.000 là lính Âu - Phi). Thu trên 3.000 tấn vũ khí, phương tiện…

Chiến thắng của Chiến dịch Biên Giới 1950, không chỉ tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của quân Pháp mà còn giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, khu căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng, nối liền với Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và các nước bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Vòng vây biên giới bị đập tan, hành lang Đông - Tây bị chọc thủng, Kế hoạch Rơ-ve bị sụp đổ; kế hoạch quân sự, chính trị của Pháp cơ bản bị phá sản; làm đảo lộn về chiến lược, chiến thuật của Quân đội viễn chinh Pháp, chúng hoảng loạn bố trí lại lực lượng, thay đổi chỉ huy… Đây là thất bại chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp đến lúc bấy giờ./.

 

Thứ Năm, 10 tháng 9, 2020

ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

 Trong 90 năm lãnh đạo cách mạng, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng ta thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Bước vào thời kỳ đổi mới, nhất là những nhiệm kỳ đại hội Đảng gần đây, Đảng luôn xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng các nhiệm kỳ đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phát động và lãnh đạo nhiều cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước tác động của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, có nơi, có lúc, một số tổ chức đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền, không nhận thức đầy đủ tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, không thực hiện nghiêm túc nghị quyết, quy định của Đảng và những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng, giảm sút niềm tin của nhân dân.

Nhận thức sâu sắc nguy cơ tha hóa trong nội bộ Đảng; yêu cầu bức thiết, cấp bách của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; quán triệt, kế thừa, phát huy những giá trị vô giá của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đại hội XII của Đảng đặt lên hàng đầu nhiệm vụ trọng tâm: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(13). Trong hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đã tập trung cao độ ban hành, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều nghị quyết quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; triển khai sâu rộng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đẩy mạnh quyết liệt cuộc đấu tranh chống tham nhũng và những khuyết tật trong Đảng, trong đó đội ngũ cán bộ chủ chốt, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng có trách nhiệm nêu gương. Quyết tâm chính trị, hành động quyết liệt của toàn Đảng đang tạo ra những chuyển biến tích cực, quan trọng, từng bước củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo động lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trên thực tế, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay và trong thời kỳ sắp tới thể hiện sinh động giá trị bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Học tập, làm theo tấm gương vĩ đại của Người, toàn Đảng và cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc những quan điểm của Người, học theo đạo đức, phong cách của Người, trong đó đặc biệt chú trọng:
Thứ nhất, giữ vững bản chất giai cấp, bản lĩnh chính trị, thống nhất tư tưởng, tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa trong truyền thống dân tộc và văn minh của nhân loại, không ngừng hoàn thiện, lãnh đạo thực hiện thành công đường lối đổi mới, phấn đấu đưa đất nước trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xây dựng Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, trọng tâm là xây dựng văn hóa, đạo đức trong toàn Đảng, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm gương xây dựng văn hóa, đạo đức xã hội. Thực hiện bằng được lời căn dặn của Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(14).
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phong cách của cán bộ, đảng viên, lấy hiệu quả phụng sự phát triển đất nước, chăm lo hạnh phúc của nhân dân làm tiêu chí hàng đầu; thưc hiện theo phương châm Hồ Chí Minh chỉ dạy: “Phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải phòng chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái”(15).
Thứ tư, kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng khắc phục những yếu kém trong tổ chức đảng, ngăn chặn, đẩy lùi, tẩy trừ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, bè phái, cơ hội chính trị, chạy chức, chạy quyền, quan liêu, xa dân... trong cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự liêm khiết, thật sự là Đảng của giai cấp, của dân tộc, được nhân dân tin yêu, ủng hộ./.

HỒ CHÍ MINH - TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI VỀ ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN VĨ ĐẠI

 Hồ Chí Minh bằng cả cuộc đời hoạt động không mệt mỏi của mình đã nêu tấm gương lớn về đạo đức, phong cách của Người cộng sản chân chính. Đạo đức cộng sản của Người bắt nguồn, tỏa sáng từ tấm lòng yêu nước, thương dân, từ nhận thức có tính nguyên lý: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”(11); từ lẽ sống tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phấn đấu vì hạnh phúc của con người; luôn đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Tư tưởng, đạo đức cộng sản thấm nhuần tự nhiên trong suy nghĩ, hành động của Người, được biểu hiện sinh động thành phong cách Hồ Chí Minh. Đó là phong cách tư duy khoa học, sáng tạo; phong cách lãnh đạo dân chủ, quần chúng, quyết đoán, nói đi đôi với làm; phong cách làm việc cụ thể, sâu sát, dứt điểm; phong cách sống giản dị, thanh cao; phong cách ứng xử tinh tế, nhân văn tràn đầy tình yêu thương con người.

Chính tư tưởng, đạo đức, phong cách cộng sản của Hồ Chí Minh đã trở thành niềm tin yêu, thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ, trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cán bộ, đảng viên, nhân dân tự hào, tin tưởng vì Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, là Đảng Hồ Chí Minh

“Kỷ luật là động lực giữ sức mạnh của bộ đội”.

 Đây là lời phát biểu chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại “Hội nghị cán bộ chỉ huy cấp trung đoàn, đại đoàn tham gia Chiến dịch Biên giới”, ngày 11 tháng 9 năm 1950. Kỷ luật của Quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là sự cụ thể hóa đường lối, chủ trương, điều lệ của Đảng; hiến pháp, pháp luật của Nhà nước phù hợp với đặc điểm, tình hình, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt nhấn mạnh: Bên cạnh lý tưởng chiến đấu, kỷ luật quân đội là điểm mấu chốt tạo nên sự thống nhất cao độ trong nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là trên chiến trường; do vậy, kỷ luật là động lực vô cùng quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Người luôn yêu cầu mọi cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân phải chấp hành kỷ luật một cách tự giác và nghiêm minh; đối với mệnh lệnh cấp trên ban xuống thì phải tuyệt đối phục tùng và triệt để thi hành; báo cáo từ dưới lên trên phải thật thà, nhanh chóng và thiết thực; là cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng đa số; địa phương phục tùng Trung ương… Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lưu ý, kỷ luật phải được thi hành bình đẳng, nhất quán, triệt để từ trên xuống dưới, không phân biệt đối xử.
Lịch sử hơn 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta cho thấy, quan điểm “Kỷ luật là động lực giữ sức mạnh của bộ đội” của Bác thực sự là một di sản tư tưởng, lý luận quý báu; một nguyên tắc đặc biệt quan trọng góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từ một đội quân du kích lúc ban đầu trở thành một quân đội có ý thức tổ chức kỷ luật cao, luôn kiên định trước mọi khó khăn, thử thách; cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, bản lĩnh, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp xây dựng quân đội hiện nay, để duy trì nghiêm kỷ luật quân đội, cùng với việc chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị và các cơ quan chức năng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần phải làm tốt công tác giáo dục, tăng cường quản lý, duy trì kỷ luật trong đơn vị, tiến hành xử lý nghiêm minh, triệt để mọi vụ việc vi phạm kỷ luật theo đúng quy định. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì, chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải là những cán bộ luôn gương mẫu, tận tụy trong công tác, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội làm tấm gương sáng cho bộ đội học tập, noi theo. Có như vậy, kỷ luật của quân đội ta mới thật sự là nghiêm minh, tự giác, tạo nền móng xây dựng sự đoàn kết, nhất trí xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao./.

ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LỊCH SỬ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

  Trong thời gian qua, lợi dụng các trang mạng xã hội, chủ yếu là Facebook, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Lân Thắng, Nguyễn Quang A, Lã Dũng và một số đối tượng chống đối, phần tử bất mãn đã lớn tiếng xuyên tạc bản chất của Cách mạng tháng Tám, phủ nhận giá trị lịch sử và những thành quả cách mạng của nhân dân ta. Những luận điệu mà các đối tượng này đưa ra chủ yếu là “nhai lại” lời lẽ của những kẻ phản quốc hại dân từ nhiều năm trước đây như: Cách mạng tháng Tám là “việc không nên làm”, nhân dân không cần phải làm cách mạng vì khi đó “quốc tế” đang chuẩn bị công nhận chính phủ dân tộc của người Việt Nam. Không chỉ hạ thấp vai trò của Cách mạng tháng Tám, các đối tượng chống phá còn dã tâm hơn khi đổi trắng thay đen cho rằng: Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực chất là “cuộc đảo chính của cộng sản Việt Nam”.

 Cho dù những lời lẽ trên đây chỉ là chiêu trò cũ rích, soạn lại mỗi dịp diễn ra các ngày lễ kỷ niệm hay sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, nhưng nó vẫn là thứ vũ khí độc hại mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng để tiến hành phá hoại tư tưởng, làm nhiễu loạn thông tin, tạo sự mơ hồ, khả nghi dẫn đến làm mất lòng tin của nhân dân đối với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thật ra, lâu nay từng xuất hiện những kẻ có tư tưởng vọng ngoại bán rẻ lương tâm làm con rối cho các thế lực xấu giật dây chống phá đất nước để mong giành lấy chốn nương thân nơi xứ người kiếm sống cầu vinh thì cũng chẳng có gì là lạ. Nhưng điều đáng phải lên án ở chỗ là một số người có mắt mà không nhìn, cái tai không nghe, cái tâm luôn cảm thấy hằn học, cay cú trước mỗi bước phát triển đi lên của đất nước, nay đòi phán xét lại lịch sử, mai phỉ báng công lao các tiền nhân, thì thật không còn chút liêm sỉ.

 Có một sự thật vẫn cần phải nhấn mạnh, đó là ở Việt Nam cho đến trước Cách mạng tháng Tám những cụm từ như dân chủ, nhân quyền, tự do, bình đẳng thì hoàn toàn xa lạ, bởi nó không dành cho người Việt. Chỉ từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời vào ngày 2/9/1945, người dân Việt Nam mới biết đến các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Hiện nay, lợi dụng vào sự rộng mở chưa từng có của truyền thông, internet, mạng xã hội mà Nhà nước ta đem lại, các thế lực thù địch, phản động và phần tử bất mãn chính trị coi đó là cơ hội, là môi trường để gia tăng xuyên tạc lịch sử, truyền thống cách mạng của dân tộc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

  Thực tiễn đã chứng minh, Cách mạng tháng Tám đánh dấu sự kết thúc của hơn 80 năm trời nhân dân ta chịu sự nô dịch áp bức của thực dân, phát xít và khởi đầu cho kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay, 75 năm đã qua, mục tiêu chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của Cách mạng tháng Tám vẫn là sự lựa chọn duy nhất của ý Đảng lòng dân. Từ một đất nước nghèo nàn, chịu hậu quả chiến tranh nặng nề, đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển và là một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế.

Đất nước, con người, dân tộc Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín như ngày nay là sự khẳng định tính đúng đắn của con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn mở ra từ dấu mốc lịch sử hiện thực Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là sự thật không thể đảo ngược. Cho nên những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, bôi đen truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam sẽ bị lên án và đấu tranh loại bỏ một cách không khoan nhượng!

Nhận diện thủ đoạn bóp méo sự thật công tác hỗ trợ chống dịch COVID-19

         Trong đợt dịch COVID-19 bùng phát trở lại, các thế lực thù địch đã tăng cường đăng tải, tán phát nhiều thông tin xuyên tạc, bóp méo sự thật về tình hình dịch bệnh tại Việt Nam; họ vin vào những khó khăn, bất cập trong thực hiện việc hỗ trợ do dịch gây ra ở một số địa phương để quy kết, bôi nhọ Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, tác động xấu đến tâm lý nhân dân, gây hại tới an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

          Để hoàn thành mục đích trên, họ triệt để khai thác tính năng lan tỏa nhanh của internet thông qua các trang mạng xã hội như: youtube, facebook, blog… để tán phát nhiều bài viết, hình ảnh, video clip có nội dung tuyên truyền xuyên tạc, sai sự thật. Điển hình là: Trên facebook của tổ chức phản động Việt Tân đã chia sẻ bài viết: “Hà Nội: Nhà giàu nhận hỗ trợ, hộ nghèo trắng tay”, hay trên trang facebook TNCG đăng tin: “Đảng nhận viện trợ quốc tế mà để dân chờ mãi chẳng thấy gì”…

          Thực tế, hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã nhanh chóng, linh hoạt, kịp thời trong lãnh đạo, chỉ đạo; nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả trong triển khai tổ chức thực hiện công tác phòng chống cũng như hỗ trợ khắc phục hậu quả do ảnh hưởng dịch COVID-19 gây ra.

          Trước những nguy hại từ dịch COVID-19, ngày 30/3/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ra Lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm chiến thắng đại dịch COVID-19. 

          Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ Trung ương tới địa phương đã vận động các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19. 

TBQL 17