Thứ Năm, 8 tháng 10, 2020

 

Văn phòng Chủ tịch nước có tân Phó chủ nhiệm

Ông Lê Khánh Hải, Thứ trưởng Văn hóa Thể thao và Du lịch được điều động, bổ nhiệm giữ chức Phó chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước.

Sáng 8/10, Phó chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh đã trao quyết định nêu trên cho ông Lê Khánh Hải.

Ông Lê Khánh Hải. Ảnh: Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch

Ông Lê Khánh Hải. Ảnh: Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch

Ông Hải 54 tuổi, quê Quảng Trị; từng theo học trường Kỹ thuật quân sự, sau đó công tác tại Bộ tư lệnh Quân khu 7, TP HCM; Công ty vận tải Biển Việt Nam; Công ty Xuất nhập khẩu và Phát triển văn hóa, doanh nghiệp loại I và Trung tâm triển lãm Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.

Ông Hải đảm nhiệm chức Thứ trưởng Văn hóa Thể thao và Du lịch từ tháng 6/2010.

Văn phòng Chủ tịch nước hiện có ba Phó chủ nhiệm là bà Phan Thị Kim Oanh và các ông Phạm Thanh Hà, Lê Khánh Hải. Chủ nhiệm Văn phòng là ông Đào Việt Trung.

Nguồn EXPRESS

Nhận diện thông tin xấu độc trước thềm Đại hội Đảng

 Trong những ngày diễn ra Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội càng gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá với nhiều thủ đoạn tinh vi. Thủ đoạn của các phần tử phản động là lợi dụng không gian mạng để tập trung tuyên truyền những nội dung xấu, độc, trá hình, “bới lông tìm vết” để thổi phồng, xuyên tạc những khuyết điểm, hạn chế trong quản lý nhà nước để vu khống, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của cấp uỷ, chính quyền địa phương…Các cấp ủy, tổ chức đảng, cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần cảnh giác, nhận diện và ngăn chặn những thông tin có nội dung sai sự thật, xấu, độc trên internet, mạng xã hội, nhằm làm thất bại âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch.

Ngăn chặn thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động trước thềm Đại hội Đảng

 Thời điểm trước, trong và sau mỗi kỳ Đại hội Đảng các cấp là dịp các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động thường đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, đặc biệt là trên không gian mạng. Do đó, lực lượng An ninh Công an tỉnh đã luôn chủ động trong công tác nắm tình hình, nhằm phát hiện, ngăn chặn thủ đoạn chống phá của các đối tượng.

'Nội công, ngoại kích', thủ đoạn chống phá Đại hội XIII của Đảng

 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Thời điểm đại hội cận kề, các thế lực thù địch càng tăng cường các hoạt động chống phá, tung ra luận điệu xuyên tạc, sai trái nhằm làm suy giảm niềm tin, phá hoại Đại hội XIII của Đảng.

Mánh khóe tinh vi của 'Việt Tân'

 Để chống phá Việt Nam, “Việt Tân” đã lợi dụng tình hình dịch COVID-19 để chỉ đạo RISE lên kế hoạch quyên góp khẩu trang và dung dịch sát khuẩn để hỗ trợ cho gia đình số phạm nhân đang chấp hành án phạt tù và số đối tượng có quan hệ với “Việt Tân” ở miền Bắc và miền Trung...

Vạch trần âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để hình thành “nhà nước Mông”

 

Những năm qua, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, các thế lực thù địch, các tổ chức người Mông lưu vong… tăng cường các hoạt động kích động, tuyên truyền tư tưởng ly khai tự trị trong đồng bào các dân tộc. Đặc biệt ở những khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng xa các tỉnh biên giới phía Bắc nổi lên vấn đề tuyên truyền, hoạt động thành lập “nhà nước Mông” tự trị.

“KHÔNG ĐỔI MỚI THÌ SẼ ĐI VÀO NGÕ CỤT”

 Trong cuộc đời hoạt động cách mạng dài lâu, phong phú và hoàn toàn không đơn giản thuận chiều của mình, đồng chí Trường Chinh (tên thật: Đặng Xuân Khu, bút danh: Sóng Hồng, 9-2-1907-30-9-1988), nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn từ tháng 11-1940 tới tháng 10-1956 và nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn tháng 7 tới tháng 12-1986 được đánh giá là bậc thầy về nắm thời cơ.

Không ít những thành tựu của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX có thể được coi như là kết quả trực tiếp từ những quyết định sáng suốt và nhìn xa trông rộng của nhà lãnh đạo kiệt xuất này có tư duy thức thời và luôn biêt cách hành động kịp thời...
Đầu những năm 40 của thế kỷ trước, cách mạng Việt Nam đã phải ở trong tình thế cực kỳ gian nan và phức tạp. Đất nước “một cổ hai tròng”, vừa phải chịu ách áp bức đã kéo dài tới 8 thập niên của thực dân Pháp lẫn những trò tác oai tác quái của quân đội phát xít Nhật mới tràn vào. Hai lực lượng ngoại xâm này vừa mâu thuẫn với nhau nhưng vừa “đồng điệu” cùng nhau trong những hoạt động bóc lột, đàn áp người Việt Nam, chống phá những người cộng sản và yêu nước. Từ tháng 8-1942 tới tháng 9-1944, Bác Hồ đi công tác vắng, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ trong tù tới 14 tháng. Với cương vị Quyền Tổng Bí thư Đảng, trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này nhớ lại, đồng chí Trường Chinh đã đảm trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng với nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên trên hết. Và như thực tế cho thấy, đồng chí Trường Chinh đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, sớm nhìn ra những thời cơ thuận lợi có thể tới với cách mạng Việt Nam. Không ngẫu nhiên mà ngay tại Hội nghị Võng La (Đông Anh, lúc đó còn thuộc Phúc Yên), diễn ra tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ta đã sớm vạch ra một kế hoạch toàn diện chuẩn bị cho bước phát triển tiếp theo của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đất nước. Tới tháng 9-1944, chính đồng chí Trường Chinh cũng đã sớm nhìn ra được kết cục tất yếu sẽ bùng nổ từ những mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và phát xít Nhật và rung chuông cảnh báo trên báo “Cờ Giải phóng” qua bài báo “Cái nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ”. Và ngay từ ngày 8-3-1945, khi nhận được những thông tin đầu tiên về dấu hiệu dường như quân đội Nhật ở Việt Nam đang chuẩn bị chiến đấu, đồng chí Trường Chinh đã nhanh nhạy dự báo về cuộc lật đổ mau lẹ của Nhật đối với lực lượng của Pháp ở Đông Dương và đã ngay lập tức triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bác Ninh để đề ra những hoạt động cụ thể trong tình hình mới. Và cũng chính đồng chí Trường Chinh đã sớm thay mặt Thường vụ Trung ương ngày 12-3-1945 thảo ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và nhiệm vụ của chúng ta”. Theo đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “Cùng với Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, bản Chỉ thị ấy đã chỉ rõ thời cơ đang đến, khả năng thời cơ xuất hiện và thái độ của chúng ta như thế nào... Chỉ thị đó có tác dụng quyết định trong việc động viên, hướng dẫn toàn Đảng trong cao trào chống Nhật, cứu nước...”. Đại tướng Văn Tiến Dũng cũng nhận định: “Chỉ thị này dự kiến những trường hợp làm cho cuộc Tổng khởi nghĩa có thể mở ra thắng lợi, chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Chỉ thị này là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng trong cao trào này, dẫn tới thắng lợi trực tiếp của Cách mạng tháng Tám”.
Và khi thời cơ đến theo đà phe Đồng Minh tiêu diệt dần các lực lượng phát xít ở châu Âu, cũng chính đồng chí Trường Chinh là người đã chỉ đạo tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nhiều nơi, thành lập các khu giải phóng. Khi nước Đức phát xít sụp đổ, Tổng bí thư Đảng đã kêu gọi đồng chí, đồng bào chuẩn bị sẵn sàng Tổng khởi nghĩa giành lại độc lập tự do. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã diễn ra đúng lúc “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” nhất, không sớm hơn và cũng không muộn hơn. Và vì thế, đã thành công rực rỡ trong vòng hơn 10 ngày, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa đầu tiên trên dải đất hình tia chớp. Trong sự kiện lịch sử vĩ đại này có phần đóng góp to lớn của Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh...
Còn nhiều sự kiện lịch sử khác nữa in dấu ấn đậm nét tài dự báo đúng và xử lý đúng cơ hội lịch sử của đồng chí Trường Chinh. Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh đã đưa ra nhiều quyết sách mang tính chiến lược, góp phần đưa cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp tới thắng lợi. Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, tập hợp những bài báo đã đăng trên tờ Cứu Quốc, của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chứa đựng những đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận cách mạng. Trong tác phẩm đã từng là “sách gối đầu giường” của nhiều cán bộ ta trong kháng chiến, đồng chí Trường Chinh cũng nhấn mạnh tới việc nắm bắt thời cơ một cách nhạy bén để tạo ra các bước ngoặt trong chiến tranh cách mạng...
Trong sự nghiệp kiến quốc, đồng chí Trường Chinh cũng là người nhạy bén với những đòi hỏi của thực tế, vừa kiên định lập trường cách mạng vừa biết tự thay đổi tư duy cho phù hợp với thực tế. Thậm chí cho tới tuổi đã gần 80, sức khỏe không còn được như trước nữa, khi thêm một lần nhận trọng trách làm Tổng Bí thư Đảng trong bối cảnh đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đồng chí Trường Chinh vẫn rất minh mẫn trong việc cùng Đảng và Nhà nước ta nhìn thẳng vào sự thật, tiến hành đúng mực và đúng hướng đường lối Đổi Mới. Đi sâu vào thực tế luôn có thể nhìn ra lối thoát hiểm tối ưu. Chính với tư duy đó nên Tổng Bí thư Trường Chinh đã rất tích cực thực hiện những chuyến công tác tới các địa phương trong cả nước để thấy rõ hơn thực trạng nền kinh tế và tình hình xã hội mọi mặt. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong bài viết nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh của đồng chí Trường Chinh (năm 2002), đã nhắc tới lời tâm sự của Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh sau những chuyến thăm thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam cuối những năm 80 của thế kỷ trước: “Việc đi thăm Thành phố... cũng như những chuyến đi thăm các địa phương khác trong thời gian qua đã giúp tôi hiểu rõ thêm tình hình thực tế của đất nước, từ đó mà suy nghĩ về một số vấn đề chung có ích cho việc đóng góp vào sự lãnh đạo của Trung ương”. Chính trong ấn tượng từ những chuyến đi thực tế sâu sát đó, Tổng bí thư Trường Chinh đã đưa ra câu phát biểu tối quan trọng với vận mệnh quốc gia và dân tộc trong thời điểm hết sức nhạy cảm của những năm cuối thập niên thứ 8 thế kỷ XX: “Đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn”. Chúng ta đã không bỏ lỡ thời cơ có một không hai của lịch sử để tìm ra “những mô hình “tháo gỡ” sản xuất để dần dần thoát khỏi sự trói buộc của cơ chế quản lý kinh tế theo kiểu hành chính-quan liêu-bao cấp” (lời Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong bài viết đã dẫn). Tưởng nhớ đồng chí Trường Chinh, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đặt tựa đề bài viết của mình là: “Đồng chí Trường Chinh – Tổng Bí thư của Đổi mới”. Đồng chí Võ Văn Kiệt viết: “Đồng chí Lê Duẩn qua đời, đồng chí Trường Chinh được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư và bắt tay vào chuẩn bị Đại hội VI. Phải nói rằng, ở thời điểm đó chỉ có đồng chí Trường Chinh với hiểu biết sâu sắc về lý luận, và hình ảnh một đồng chí hết sức nguyên tắc, có phần cứng theo kiểu chính thống, mới có thể chỉ đạo thành công Đại hội VI – Đại hội của Đổi Mới. Điều tôi thấy hết sức thú vị là “tác giả” – nói chính xác hơn là “chủ biên” – của Đổi Mới lại là một người vốn được coi là hết sức “cứng” như đồng chí Trường Chinh. Tôi hiểu rằng, đồng chí đã chú ý nghe từ nhiều phía và đặc biệt đã coi trọng ý kiến của những cán bộ có tư duy, dám nói thật, nói rõ quan điểm của mình. Đồng chí là người rất kiên trì đấu tranh với mọi ý tưởng, mọi sự việc mà theo đồng chí là không đúng và cũng rất quyết đoán đối với những điều mà đồng chí cho là đúng đắn, có cơ sở”. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng rất ấn tượng với cách làm việc tỉ mỉ, sâu sát của Tổng Bí thư Trường Chinh trong quá trình chuẩn bị văn kiện cho Đại hội VI: “Đồng chí Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo và đích thân sửa chữa từng câu, chữ trong dự thảo văn kiện. Qua thực tiễn công việc sau này, tôi càng thấy chi tiết có vẻ mang tính kỹ thuật đó rất quan trọng, cần thiết. Đối với những tài liệu liên quan tới các chủ trương lớn, nếu người lãnh đạo không trực tiếp cho định hướng rõ ràng mà “giao khoán” cho anh em biên tập thì sau này dù có sửa đi sửa lại cũng khó đạt đúng tầm cần thiết, mong muốn. Cuối giai đoạn chuẩn bị, cần dành thời gian xem xét tỉ mỉ tới từng câu chữ để bảo đảm mọi ý tứ đều được thể hiện”...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại, trong những năm 80 của thế kỷ trước, tình hình đất nước rất khó khăn nên thực tiễn đặt ra yêu cầu phải đổi mới: “Anh Trường Chinh đã theo dõi sát tình hình, đi vào thực tiễn, đi xuống cơ sở ở một số tỉnh phía Nam. Trong một cuộc nói chuyện ở Hà Nội, anh Trường Chinh kết luận: Hiện nay, nhiều báo cáo không đúng sự thật, Đảng ta phải cứu lấy giai cấp công nhân; muốn thế, nhất định phải đổi mới. Đổi mới là yêu cầu bức thiết, đổi mới là vấn đề có tầm quan trọng sống còn. Anh nhấn mạnh: Nếu không đổi mới thì sẽ đi vào ngõ cụt”...
Nói cho cùng, cách mạng luôn là một quá trình liên tục đổi mới để đáp ứng được những yêu cầu mới của thời cuộc. Cách mạng cũng là nghệ thuật đưa ra những quyết định hợp thời và thức thời để giành lấy thắng lợi cho dân, cho nước. Nhìn từ góc độ đó, đồng chí Trường Chinh quả thực đã là một tấm gương lớn của những người cộng sản trong mọi hoàn cảnh...

CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI 1950: CHIẾN DỊCH CÓ QUY MÔ LỚN ĐẦU TIÊN CỦA QUÂN ĐỘI TA

 70 năm trước, trên miền biên giới Đông Bắc đất nước, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Việt Nam mở chiến dịch tiến công quy mô lớn vào hệ thống phòng ngự quân đội Pháp (khu vực Đường số 4). Chiến dịch giành thắng lợi vang dội, mở ra bước ngoặt mới theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng.

Bối cảnh quốc tế năm 1950 có sự chuyển biến quan trọng. Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa ra đời (1/10/1949) tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng nước ta có thể quan hệ trực tiếp với các nước xã hội chủ nghĩa, tiếp nhận viện trợ quốc tế. Từ tháng 1 năm 1950, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ kháng chiến (Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa).
Trong nước, cuộc kháng của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược có sự phát triển toàn diện. Tuy nhiên, cách mạng còn gặp nhiều khó khăn. Thực dân Pháp, được đế quốc Mỹ hậu thuẫn xây dựng “tuyến hành lang cơ bản” (Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La) hòng cắt liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc của ta với đồng bằng Liên khu III, Liên khu IV; đồng thời tăng cường hệ thống phòng ngự tại các tỉnh biên giới phía Bắc nhằm “khóa chặt biên giới Việt - Trung”, cô lập cách mạng Việt Nam với thế giới bên ngoài.
Trong tình thế đó, để tạo bước “đột phá” xoay chuyển cục diện chiến tranh, tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng, Chính phủ chủ trương mở chiến dịch quy mô lớn ở vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nhằm mục đích: “Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới, mở đường thông thường với các nước xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc”. Tuy nhiên, việc lựa chọn hướng chính chiến dịch (Đông Bắc hay Tây Bắc) chưa thống nhất.
Tháng 7 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng tiếp tục họp bàn, quyết định chọn hướng tiến công chính ở Đông Bắc (trọng điểm là Cao Bằng - Lạng Sơn), vì đây là địa bàn hiểm yếu; địa hình rừng núi phù hợp với sở trường tác chiến bộ đội ta; việc huy động nhân lực, vật lực có nhiều thuận lợi. Để bảo đảm giành thắng lợi, Trung ương Đảng huy động phần lớn các đơn vị chủ lực cơ động chiến lược của Bộ, bao gồm Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174 và bốn đại đội sơn pháo, năm đại đội công binh; phối hợp cùng lực lượng vũ trang của Liên khu Việt Bắc và hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn.
Ngày 25/7/1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Biên giới (mật danh Lê Hồng Phong II). Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quyết định sẽ trực tiếp đi mặt trận tham gia chỉ đạo, động viên cán bộ, chiến sĩ, đồng bào. Ngoài ra, chiến dịch còn được sự giúp đỡ tích cực về vũ khí, lương thực từ chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là có Đoàn cố vấn Trung Quốc bên cạnh Sở chỉ huy.
Chiến dịch Biên giới 1950 là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân đội ta, mang ý nghĩa chiến lược rất to lớn. Sự thành - bại trong chiến dịch này có ảnh hưởng quyết định đến việc thay đổi cục diện chiến tranh, đến lòng tin của quân và dân đối với đường lối kháng chiến của Đảng, đến quá trình xây dựng, trưởng thành của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị: “Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!”. Thường vụ Trung ương Đảng cũng nhấn mạnh lại quyết tâm: “Phải thực hiện cho bằng được những nhiệm vụ chiến dịch đã nêu ra ở trên”.
Chấp hành chủ trương, chỉ đạo chiến lược đề ra, quân dân ta khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Riêng lực lượng hậu cần lên đến ba vạn người, cộng thêm 12 vạn dân công thuộc các dân tộc Việt Bắc ngày đêm hoạt động phục vụ tiền tuyến. Khối lượng vật chất vận chuyển từ xa đến mặt trận khoảng 4.000 tấn. Bên cạnh đó, Trung ương Đảng cũng giao nhiệm vụ cho các chiến trường đẩy mạnh hoạt động tại chỗ để phối hợp kiềm chế địch, không cho chúng dồn quân tăng viện cho mặt trận biên giới.
Lúc này, lực lượng quân Pháp trên tuyến phòng thủ biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn có 11 tiểu đoàn và 9 đại đội bộ binh (phần lớn là lính Âu - Phi tinh nhuệ) được trang bị vũ khí hiện đại, tổ chức thành những cụm cứ điểm mạnh dọc theo Đường số 4: Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lộc Bình... cách nhau trung bình từ 25 - 30km. Trong trường hợp một cụm cứ điểm bị tiến công, địch có thể chi viện trực tiếp bằng đường không, hoặc tổ chức lực lượng ứng cứu đường bộ từ những cụm cứ điểm gần nhất.
Sau thời gian tích cực chuẩn bị, sáng ngày 16 tháng 9 năm 1950, ta tiến công cụm cứ điểm Đông Khê, mở màn chiến dịch. Đến sáng ngày 18 tháng 9, ta tiêu diệt toàn bộ quân phòng ngự, đẩy quân Pháp vào tình thế hoang mang: Thất Khê bị uy hiếp, Thị xã Cao Bằng bị cô lập; thế phòng thủ Đường số 4 bị lung lay.
Bị mất Đông Khê, Bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương quyết định rút quân khỏi Cao Bằng theo Đường số 4 với kế hoạch “hành quân kép”: Tổ chức một cuộc hành quân đánh lên Thái Nguyên nhằm buộc ta đưa chủ lực về đối phó, giảm áp lực cho quân Pháp ở biên giới; đồng thời tổ chức một cuộc hành quân từ Thất Khê tiến lên chiếm lại Đông Khê, để đón cánh quân từ Cao Bằng rút về.
Nhận định đúng ý định của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo các đơn vị kiên trì mai phục chờ đánh quân tiếp viện. Đúng như dự đoán, ngày 30 tháng 9 năm 1950, quân Pháp bắt đầu triển khai kế hoạch hành quân. Chớp thời cơ, từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 10 năm 1950, quân ta liên tục chặn đánh tiêu diệt từng cánh quân địch tại khu vực ngoại vi Đông Khê, làm phá sản hoàn toàn kế hoạch rút quân của chúng. Bộ chỉ huy quân Pháp hoảng loạn, ra lệnh rút quân khỏi hàng loạt cứ điểm trên Đường số 4: Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập.
Ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, hoàn thành xuất sắc mục tiêu cơ bản đề ra. Trải qua 29 ngày đêm chiến đấu (16/9 - 14/10/1950), ta diệt và bắt hơn 8.000 quân tinh nhuệ địch, thu 3.000 tấn vũ khí, mở thông dải biên giới Đông Bắc kéo dài từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), trực tiếp góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh: ta bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự. Đây thực sự “là kết tinh thành quả những nỗ lực phi thường của quân và dân ta trong những năm tháng chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ trong vòng vây bốn bề của địch, dưới sự lãnh đạo hết sức tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta”.

HỌC VÀ LÀM THEO PHƯƠNG PHÁP DÂN VẬN HỒ CHÍ MINH

 PHƯƠNG PHÁP DÂN VẬN “LẤY DÂN LÀM GỐC”

Kế thừa tư tưởng “trọng dân”, “thân dân” theo truyền thống của dân tộc, đồng thời Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, cho nên Người đặc biệt đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân. Người nói: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”; “Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”; “dân là gốc của nước”; “dân là quý nhất, là quan trọng nhất. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: “Dân là gốc của nước”, là lực lượng chủ yếu của cách mạng, vì dân có số lượng đông, vì “mọi lực lượng đều ở nơi dân”. Dân cũng là những người làm ra mọi của cải vật chất và giá trị văn hoá, nuôi sống bộ máy Nhà nước và toàn thể xã hội, làm cho xã hội tồn tại và phát triển: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”.
Phương pháp “Lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh là phải tôn trọng nhân dân, làm lợi cho dân để nhân dân hăng hái tham gia, ủng hộ sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Vô luận việc gì đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”, cho nên phải xem xét mọi việc để có lợi cho dân. Người nhấn mạnh: “Kinh nghiệm trong nước và các nước đã cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
PHƯƠNG PHÁP “DÂN VẬN KHÉO” LÀ PHẢI BIẾT PHÁT HUY DÂN CHỦ
Phát huy dân chủ tức là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để dân thực sự được “làm chủ” và thực sự “là chủ”. Hồ Chí Minh chỉ rõ, phát huy dân chủ không chỉ là “ở chỗ chào hỏi kính thưa có lễ phép mà đủ” mà còn là “không được phung phí nhân lực, vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ dân cũng là biết tôn trọng dân”. Trong quan hệ với nhân dân, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác dân vận phải sâu sát, tìm hiểu kỹ càng, “hiểu nguyện vọng của dân, sự cực khổ của dân. Hiểu tâm lý của dân, học sáng kiến của dân... Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm gương cho dân”.
Theo Hồ Chí Minh, “không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm trò dân mới làm được thầy học dân”.
DÂN VẬN BẰNG PHƯƠNG PHÁP “NÊU GƯƠNG”
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, “nêu gương” là một trong những phương pháp vận động nhân dân hữu hiệu nhất. Để tập hợp được lực lượng, vận động được quần chúng, được quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, thì người đảng viên, người cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận phải là những tấm gương sống.
Khi nhận xét về V.I.Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, V.I.Lênin là người “đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ” và “không phải thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi”.
Cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu phải trở thành tấm gương: “Nói đi đôi với làm”; “Nói ít, làm nhiều”, hướng về dân, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân để đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân.
Thực hiện phương pháp nêu gương trong công tác dân vận, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, không gì thuyết phục hơn là bằng hành động thực tiễn, bằng việc làm cụ thể, Hồ Chí Minh nói, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, vì “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, dùng phương pháp “nêu gương” để vận động nhân dân đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên ở bất kỳ vị trí công tác nào cũng phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê bình. Cán bộ, đảng viên càng giữ chức vụ cao, đảm trách vị trí quan trọng, nhất là người đứng đầu, càng phải hết sức nêu gương tự phê bình và phê bình; luôn tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống ở mọi lúc, mọi nơi.
Đó là những vấn đề căn cốt của phương pháp “dân vận khéo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh

BIỂN ĐẢO VIỆT NAM - MỘT SỐ ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT

1️⃣. Việt Nam có bao nhiêu huyện đảo? Có bao nhiêu tỉnh (thành phố) có 2 huyện đảo?
➡️ Việt Nam có 12 huyện đảo:
3 tỉnh, thành phố có 2 huyện đảo gồm Quảng Ninh (Cô Tô, Vân Đồn), Hải Phòng (Bạch Long Vĩ, Cát Hải), Kiên Giang (Kiên Hải, Phú Quốc).
Thứ tự các tỉnh có một huyện đảo tính từ Bắc vào Nam là Quảng Trị (Cồn Cỏ), Đà Nẵng (Hoàng Sa), Quảng Ngãi (Lý Sơn), Khánh Hòa (Trường Sa), Bình Thuận (Phú Quý), Bà Rịa-Vũng Tàu (Côn Đảo)”.
2️⃣. Đường biên giới trên biển là đường nào?
➡️ Đường biên giới trên biển là mép ngoài của vùng lãnh hải (Vùng biển Việt Nam bao gồm: nội thủy nằm phía trong đường cơ sở; từ đường cơ sở ra 12 hải lý là lãnh hải; từ lãnh hải tiếp ra 12 hải lý là vùng tiếp giáp lãnh hải; từ đường cơ sở ra 200 hải lý là vùng đặc quyền kinh tế; tiếp theo là thềm lục địa).
3️⃣. Bãi Tư Chính thuộc tỉnh nào quản lý?
➡️ Bãi Tư Chính thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4️⃣. Quần đảo Trường Sa hiện nay, Việt Nam quản lý bao nhiêu đảo?
➡️ Tại quần đảo Trường Sa hiện nay, Việt Nam quản lý tổng cộng: 21 thực thể địa lý, gồm 7 đảo san hô/cồn cùng 14 rạn san hô.
5️⃣. Có bao nhiêu tỉnh (thành phố) ở nước ta có biển?
➡️ Có 28 tỉnh, thành phố của nước ta có biển.
6️⃣. Bờ biển Việt Nam dài bao nhiêu?
➡️ Bờ biển Việt Nam dài khoảng 3.260km.
7️⃣. Quần đảo nào có nhiều đảo nhất?
➡️ Cát Bà - Được mệnh danh là hòn ngọc của miền Bắc, Cát Bà ngày càng là 1 điểm đến lý tưởng cho du khách vào mùa hè. Ai đã từng đến với các chương trình tour du lịch Cát Bà hẳn sẽ vẫn còn ấn tượng với vẻ đẹp trong veo của biển nơi đây. Nằm ngay gần với Hạ Long, du khách đi tàu mất chừng 30 phút từ Tuần Châu đến Cát Bà bạn sẽ được đặt chân đến quần đảo có nhiều đảo nhất Việt Nam ( 367 đảo lớn nhỏ ). Tại đây du khách sẽ được hòa mình vào 1 làn nước biển trong veo,lặn biển…, thăm quan khu rừng nguyên sơ, những điểm đến lịch sử, nhưng hang động huyền bí… đó chính là những điều tuyệt vời mà bạn sẽ có trong chương trình đi Cát Bà
8️⃣. Bãi biển dài nhất của Việt Nam?
➡️ Bãi biển Trà Cổ được biết đến không chỉ là 1 bãi biển trữ tình, Trà Cổ còn được mệnh danh là bãi biển dài nhất nước ta. Bãi biển dài 17km này còn là nơi đặt nét bút đầu tiên cho chữ S trên bản đồ Việt Nam. Nơi đây cũng giống như những bãi tắm tuyệt vời khác hấp dẫn du khách bởi sự trong xanh của biển đảo, những bãi cát trắng trải dài miên man. Đặc biệt ở đây còn có khu dừng ngập mặn khá thú vị cho bạn khám phá và bạn cũng đừng quên ghé chân qua những khu chợ hải sản bình dân nơi đây nhé.
9️⃣. Vịnh có nhiều đảo nhỏ nhất?
➡️ Vịnh Hạ Long - Nhắc đến những điều lý thú của biển đảo Việt Nam bạn không thể không nhắc đến vịnh Hạ Long. Vịnh sở hữu danh hiệu có nhiều đảo nhất Việt Nam. Đến với Tour Hạ Long, bạn sẽ được thăm những hòn đảo đủ kích thước, hình dáng nơi đây, thăm những hang động kỳ bí và những câu chuyện thần thoại huyền ảo. Một hoạt động mà chưa thu hút được nhiều khách Việt mà rất tuyệt vời chính là ngủ đêm trên Vịnh bằng du thuyền. Đến Hạ Long bạn đừng quên thử 1 lần trải nghiệm dịch vụ này nhé.
🔟. Hòn đảo lớn nhất Việt Nam hiện nay?
➡️ Đảo Phú Quốc, với vô vàn cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời cho bạn chiêm ngưỡng. Ẩn chứa trong mình không chỉ những bãi biển tuyệt đẹp, những cảnh hoàng hôn quyến rũ lòng người, những rặng san hô độc đáo đầy màu sắc, những đặc sản ngon… Đến Phú Quốc bạn còn có thể trải nghiệm không gian nghỉ dưỡng hoàn hảo tại khu du lịch Vinpear Land Phú Quốc.
1️⃣1️⃣. Đảo có mật độ dân số cao nhất của Việt Nam
➡️ Đảo Lý Sơn, là 1 huyện đảo nhỏ nhưng Lý Sơn lại mang danh hiệu đảo có dân số cao nhất. Có thể bạn biết Lý Sơn có những bãi tắm tuyệt vời và có thể đẹp hơn những bãi biển như Mỹ Khê, Bắc Mỹ An trong tour Đà Nẵng nhưng chưa hẳn bạn đã biết rằng hiện có mật độ dân số cao nhất trong 12 huyện đảo nước ta.
1️⃣2️⃣. Đầm phá lớn nhất?
➡️ Tam Giang – đầm phá lớn nhất Việt Nam và cũng là ở Đông Nam Á. Khi tới đây, bạn sẽ được lênh đênh trên dòng nước mênh mang để vừa ngắm bức tranh phong cảnh thay đổi theo thời điểm trong ngày. Nơi đây có những nét văn hóa cổ xưa độc đáo cùng những món ăn hải sản ngon tuyệt.
⤴️ Đó là những điều mà bạn nên biết về huyện đảo của Việt Nam, những điều sẽ khiến bạn thêm tự hào hơn về quê hương mình.
📌 Và cuối cùng, bạn - tôi - chúng ta luôn phải nhớ, hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam. 🇻🇳./.

LÝ DO NGƯỜI VIỆT NAM TỰ HÀO VỀ CHIẾC MŨ CỐI CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

 Dưới đây là hình ảnh chiếc mũ cối của liệt sĩ Bùi Đức Hưng được một người lính Mỹ giữ lại trong suốt 46 năm. Chiếc mũ là kỷ vật mà John Wast tìm lại được sau một cuộc đấu súng căng thẳng với liệt sĩ Hưng tại chiến trường miền Nam.

Cuộc đấu căng thẳng suốt 3 ngày đêm và người Mỹ chỉ thật sự yên tâm sau khi không còn nghe thấy bất kỳ tiếng bắn trả nào trong nhiều giờ đồng hồ. Họ tìm lên quả đồi nơi những người lính Bắc Việt ẩn náu để xem "Đội quân nhỏ bé với chỉ vài chục người" đó như thế nào. Tất cả còn lại chỉ là sự hoang tàn, vết cày xới của đạn bom.
John Wast đã tìm thấy được chiếc mũ này, chiếc mũ khi ấy là dấu hiệu nhận biết những anh giải phóng quân. Nhưng khi nằm trên tay John Wast nó đã lỗ chỗ 11 vết đạn thù, có lẽ người lính ấy đã chiến đấu đến những hơi thở cuối cùng và trong giây phút đó, sức mạnh của anh xuất phát từ tình yêu nước và quyết tâm giữ lại từng tấc đất quê hương.
Điều khiến anh lính Mỹ kinh ngạc là khi lật chiếc mũ đó lên, anh thấy dòng chữ Việt Nam và hình ảnh một chú chim bồ câu. Anh chợt nhận ra những con người phía bên kia chiến tuyến cũng yêu hòa bình, cũng chiến đấu vì sự tự do dân tộc chứ không phải những gì anh được nước Mỹ tuyên truyền về 1 cuộc chiến tại Việt Nam đầy nhân văn, công lý.
Ông ghi nhận: "Đó là một người lính yêu nước, đáng được tôn vinh và trân trọng."
Ở Việt Nam có những thứ thiêng liêng như thế. Những người bạn nước ngoài không thể hiểu tại sao chúng ta lại thích đội mũ cối và có những chiếc kẻng bằng vỏ bom...Chúng ta yêu vì chúng ta hiểu, hiểu lịch sử dân tộc và những gì cha ông ta đã trải qua!

Canh giac truoc hoat dong loi dung hoi nhap kinh te quoc te

Nhận diện hoạt động lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế để chống phá Việt Nam

       Một trong những nội dung quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, kết hợp với kích động các hoạt động chống phá từ bên trong nước ta. Nhận thức rõ trong thời đại ngày nay, việc hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, do đó Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo để ngày càng phát triển, mở rộng các mối quan hệ quốc tế, trong đó có HNKTQT. Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước về HNKTQT, những năm qua, tiến trình này của Việt Nam đã, đang đạt nhiều kết quả hết sức to lớn. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước trên thế giới và cũng là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các thành viên nhóm G7 và 13/20 nước G20. Việt Nam đã ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Nhờ HNKTQT, những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cùng với các lĩnh vực khác của xã hội. Năm 2016, GDP Việt Nam đạt 203 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2006; GDP năm 2017 đạt hơn 220 tỷ USD, tăng cao nhất kể từ 2011 trở lại đây và tăng 6,81% so với năm 2016. Năm 2015, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng 4 lần so với năm 2006, lên 11,8 tỷ USD. Năm 2017, FDI vào Việt Nam đạt gần 36 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, tăng 42,3% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng 10 tháng năm 2018, cả nước có 2.458 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 27,9 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017.
      Thế nhưng trong sự thành công của Việt Nam về HNKTQT, các thế lực thù địch cũng không ngừng lợi dụng lĩnh vực này để nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với Việt Nam. Những năm qua, các thế lực thù địch đã ráo riết triển khai một số hoạt động cơ bản như sau:       Một là, thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài để từng bước chi phối nền kinh tế Việt Nam; thông qua đó nhằm làm cho Nhà nước từng bước mất dần khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với phương châm: “Lấy kinh tế để chuyển hóa chính trị”, các thế lực thù địch âm mưu từng bước xóa bỏ chế độ XHCN một cách từ từ, êm ả, không gây ra chấn động lớn trong xã hội mà khởi nguồn là từ những sai lầm trong HNKTQT ở Việt Nam.
      Hai là, họ lợi dụng HNKTQT và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là thông qua hợp tác với các cơ quan của Đảng, Nhà nước Việt Nam để xâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, thu thập tin tức bí mật nhà nước để chống phá Việt Nam. Họ đặc biệt triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao để thu thập tin, đánh cắp bí mật nhà nước, lấy cắp các phát minh, sáng chế của Việt Nam, gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.
      Ba là, triệt để thông qua các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp quốc tế hợp tác, làm ăn với Việt Nam để đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý. Họ còn tìm cách gây ra “khủng hoảng”, những tác động tiêu cực từ bên ngoài làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng đến phúc lợi nhân dân và sức mạnh của Nhà nước.
       Bốn là, họ tìm cách tác động tới các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước phương Tây, đòi gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với điều kiện cải cách chính trị, pháp luật theo kiểu phương Tây (như yêu cầu Nhà nước xóa bỏ một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành…); đòi thay Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải thúc đẩy tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây, đòi thả các đối tượng chống đối vi phạm pháp luật... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, xã hội ngay từ bên trong đất nước.
       Cũng cần phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, việc HNKTQT của Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, đó là: Cơ cấu tăng trưởng kinh tế Việt Nam chưa thay đổi căn bản; chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp và chưa thực sự ổn định, bền vững. Quá trình HNKTQT chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể và lộ trình hợp lý về HNKTQT; chưa có chiến lược rõ ràng khi tham gia các FTA. Việc ứng phó với các biến động và xử lý những tác động xấu do nền kinh tế thế giới gây ra còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ; hệ thống luật pháp Việt Nam theo yêu cầu HNKTQT chưa hoàn thiện và đầy đủ. Ở một số địa phương, các vụ việc phức tạp xảy ra liên quan đến khiếu nại, tố cáo… chậm được giải quyết, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị-xã hội. Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt. Còn tồn tại tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng, triển khai các dự án, đề án hợp tác kinh tế quốc tế… Đó là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng hòng thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Nhằm tận dụng những cơ hội, thuận lợi trong hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước và phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hành vi lợi dụng HNKTQT để chống phá Việt Nam, chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm như sau:
      Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để chống phá nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính tất yếu khách quan của việc HNKTQT; âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của các thế lực thù địch; vị trí, vai trò công tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
      Hai là, bảo đảm thực hiện hiệu quả quá trình HNKTQT trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc. Xác định rõ hội nhập là quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; do vậy, cần chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế, coi đây là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong HNKTQT.
      Ba là, thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác, làm ăn với Việt Nam để chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động lợi dụng hợp tác để xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Cần tập trung nắm tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài, các chương trình, dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài triển khai ở Việt Nam… nhằm kịp thời phát hiện những vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh chính trị, trật tự xã hội để phòng, chống hiệu quả. Chủ động phát hiện đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp làm lộ, lọt bí mật nhà nước, cung cấp bí mật nhà nước cho các tổ chức nước ngoài, hoặc bị kẻ địch mua chuộc, lôi kéo nhằm phá hoại kinh tế nước ta.
       Bốn là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ làm việc ở các cơ quan, đơn vị thường xuyên tiếp xúc, trao đổi, hợp tác với các tập đoàn kinh tế nước ngoài, bảo đảm cho đội ngũ này luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực HNKTQT; có khả năng nắm bắt và tận dụng cơ hội lớn, vượt khó khăn, thách thức đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia nước ta trong HNKTQT, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
      Năm là, khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến HNKTQT trên cơ sở tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng nội luật hóa theo lộ trình phù hợp với những cam kết quốc tế, bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong HNKTQT, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, chủ quyền của đất nước ta.  
     Những năm tới, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng HNKTQT để phá hoại thành quả cách mạng và chống phá chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Với những thành tựu đã đạt được trong HNKTQT, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta sẽ HNKTQT thành công, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, phát triển.

Xuyen tac lich su

Xuyên tạc lịch sử chính là phá hoại tương lai

       Cứ đến dịp kỷ niệm 30/4, CMT8, QK 2/9 hằng năm, lại xuất hiện những cụm từ cũ rích, cố tình tô vẽ lại những quan điểm sai lầm. Gần đây, trên một trang xưng là của cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại những từ ngữ như “tháng Tư là tháng "vo gạo bằng nước mắt”, “mùa quốc hận-tháng tư đen”. Nhiều trang mạng viết coi cuộc kháng chiến thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào. Một số ít người tự cho mình là cấp tiến, tùy tiện phán xét quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày chiến thắng không phải là một việc “tử tế”.
      Cù Huy Hà Vũ, kẻ sinh ra trong một gia đình cách mạng, từng bị tòa án tuyên án khi bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, gây chia rẽ, thù hằn dân tộc. Gần đây, khi sang Mỹ, Vũ phát ngôn cho rằng, hòa hợp dân tộc không dừng ở hòa hợp giữa hai bên “thắng cuộc” và "thua cuộc" mà còn là hòa hợp giữa những nhà dân chủ với chính quyền hiện nay. Chỉ khi nào “chế độ cộng sản sụp đổ, người Việt mới có hòa hợp, hòa giải”. Nguyễn Lân Thắng, "kẻ đốt đền" trong một gia đình khoa học thì lại muốn nổi tiếng bằng những lời xảo ngôn: "Mình mong ngày 30-4 sẽ chuyển thành ngày tưởng niệm những mất mát của dân tộc, đừng nói chuyện ai thắng, ai thua". Lý Thái Hùng, kẻ tự xưng là "tổng bí thư" của tổ chức khủng bố Việt Tân gần đây đã hô hào biến ngày 30-4 từ "quốc hận" trở thành “tinh thần quốc kháng” để chống lại chế độ cộng sản.
Tháng 9-2018, tại Washington (Mỹ), cái gọi là “tập hợp vì dân chủ cho Việt Nam” đã tổ chức hội thảo có chủ đề “Nhìn lại chiến tranh Việt Nam” và đưa ra một số luận điểm bịa đặt, biện hộ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa. Họ kêu gọi: “43 năm qua, Việt Nam vẫn chưa có tự do, vẫn chưa có dân chủ. Thành ra sứ mệnh của người trẻ tại hải ngoại sẽ phải tiếp tục đồng hành, tiếp tục tranh đấu cho tự do và dân chủ”.
        Xung quanh bộ phim tài liệu 10 tập The Vietnam War (Chiến tranh Việt Nam) được Mỹ công chiếu, một số người trong nhóm "Văn đoàn độc lập" đã xét lại lịch sử: “Có nhất thiết phải qua chiến tranh mới giành được độc lập không? Giá chúng ta tìm một con đường khác ít xương máu hơn cho nền độc lập của đất nước thì quý biết nhường nào?”. "Nếu không cần chống Mỹ, miền Nam có giàu như Hàn Quốc không?".
       Để xem xét lịch sử thì cần phải có cái nhìn toàn diện, khách quan, tôn trọng sự thật. Cho dù cuộc kháng chiến đã lùi xa 44 năm hay lâu dài hơn nữa thì lịch sử dân tộc và thế giới đều ghi nhận và chúng ta phải luôn khẳng định, tự hào về thắng lợi của một cuộc kháng chiến chính nghĩa, trường kỳ, vĩ đại vì nền hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc. Đúng như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
        Nhà sử học người Pháp, kiêm chuyên gia nghiên cứu về lịch sử Đông Dương Alain Rusco cho rằng, sự kiện 30-4 “gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế về một dân tộc không chịu khuất phục trước quân thù… để có được chiến thắng này hàng triệu người dân Việt Nam đã ngã xuống trong nhiều thập kỷ đầy cam go, quyết liệt”.
       Gần đây, trả lời báo chí về bộ phim tài liệu The Vietnam War, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam mang tính chính nghĩa, phát huy được truyền thống sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, được bạn bè và nhân dân thế giới hết sức ủng hộ. Chính vì thế đã đi đến thắng lợi cuối cùng và thống nhất đất nước".
Trong cuốn hồi ký “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đúc kết một trong những đặc điểm nổi bật về cuộc kháng chiến là: “Cả nước đánh Pháp, đánh Mỹ, không phân biệt tiền tuyến, hậu phương. Ý chí thống nhất Tổ quốc là thế và lực mạnh trong chiến tranh. Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Chiến trường Việt Nam là một. Cả dân tộc kết thành một khối trong tình đồng bào cùng chung giống nòi Hồng Lạc, không thể cắt chia. Thù nhà nợ nước là chung của cả dân tộc…”. Những kẻ ngày nay xuyên tạc cho rằng bên này, bên kia mới là thắng cuộc, bên này mới là giải phóng bên kia… chẳng những không hiểu cội nguồn lịch sử mà còn xúc phạm xương máu cha ông.
        Trên thực tế, chính những người trong cuộc là Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đều đã thừa nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam; chỉ một bộ phận chống cộng, mang nặng hận thù và những kẻ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ngày nay mới tin vào những luận điệu như chiến tranh ý thức hệ, nội chiến hay quan điểm lập lờ “bên nào thắng thì nhân dân đều bại”(!).
Chính Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, người được xem là “kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã rút ra 11 “sai lầm một cách tồi tệ”, đáng chú ý nhất là đã lẫn lộn cuộc đấu tranh ý thức hệ với cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của cả một dân tộc. Ông viết: "Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ là mở rộng làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ”.
        Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ viết: "Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975…”.
        các tài liệu mới được giải mật của chính quyền Mỹ, ngày 27-9-1948, trong một văn kiện của Bộ Ngoại giao Mỹ xác định mục tiêu lâu dài của Mỹ là “thủ tiêu ở mức tối đa có thể được ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Dương, Mỹ muốn thấy Việt Nam và Đông Dương có một nhà nước dân tộc chủ nghĩa tự trị thân Mỹ”. Ngày 30-12-1949, Tổng thống Mỹ S.Truman phê chuẩn một văn kiện của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, trong đó nêu rõ: “Mục tiêu lâu dài của Mỹ là thủ tiêu ở mức độ tối đa có thể được ảnh hưởng của cộng sản ở Việt Nam và Đông Dương... Mỹ muốn thấy ở Việt Nam và Đông Dương có các nhà nước chống cộng, thân Mỹ”. Điều này cũng được Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc lại nhân kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: "Bác Hồ đã sớm nhìn thấy âm mưu đen tối của Mỹ. Từ 1950, Bác đã chỉ ra sự dính líu và can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Ðông Dương. Ðể tranh thủ hòa bình, Bác đã 11 lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ S.Truman...” nhưng không có phản hồi.
Giáo sư Trần Chung Ngọc, một người Mỹ gốc Việt, một cựu quân nhân trong quân lực Việt Nam cộng hòa từng có nhiều bài viết phân tích sâu sắc về cuộc chiến tranh. Ông viết: “Mỹ không có lý do nào chính đáng để can thiệp vào Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975. Mỹ đã bất kể đến công pháp quốc tế, không dựa trên pháp lý mà dựa trên “luật rừng” và “cường quyền thắng công lý” để can thiệp vào Việt Nam với ý đồ “bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên toàn khu vực”…
        Một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII chỉ ra là: “Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết sức tỉnh táo để phát hiện, ngăn chặn.
      Không chỉ cán bộ, đảng viên mà mỗi người dân yêu nước Việt Nam cũng cần phải có tiếng nói đúng với lương tâm và lẽ phải. Quá khứ không chỉ là lịch sử mà còn là hành trang, là sức mạnh tinh thần, là dòng máu Lạc Hồng tạo nên nhân cách của mỗi người dân đất Việt. Nếu quên tổ tiên, quên công lao của thế hệ đi trước, quên những hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của dân tộc thì không thể là người Việt Nam chân chính. Phẫn nộ với ý kiến cho rằng "không cần chiến tranh sau này đất nước vẫn giàu mạnh", nhà sử học người Mỹ gốc Việt Nguyễn Mạnh Quang đã viết: “Trừ phi không biết hoặc thuộc loại phản quốc, khi có một nước khác đến ngồi trên đầu làm chủ, không có một người dân tử tế nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn thực dân tự động trả lại cơ đồ ông cha mình cả. Nếu theo luận điệu ươn hèn như trên, thì những công lao và sự hy sinh của hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi giặc Pháp ngoại xâm từ năm 1858 đến 1954 đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến 1954-1975 để đòi lại miền Nam trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho đất nước cũng là vô ích hay sao! Ðưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc Việt Nam được trường tồn”.
       Trên thực tế, đã có rất nhiều tiếng nói từ những người ở phía bên kia chiến tuyến sau này thừa nhận sai lầm của họ và ghi nhận chiến thắng vĩ đại của cả dân tộc cũng như chiến công của những người cộng sản. Tướng Nguyễn Hữu Có, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng Việt Nam cộng hòa, sau này trả lời phóng vấn Báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh, nói: “Chiến thắng 30-4 rất vĩ đại, là chiến thắng của sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam... Không còn chiến tranh, không còn bom rơi đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất mà việc kết thúc chiến tranh mang lại". Cựu thủ tướng Việt Nam cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận xét về việc gọi ngày 30-4 là "quốc hận" và đòi "phục quốc": "Thống nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi một người con Việt Nam nhưng chúng tôi đã không làm được. Những người anh em phía bên kia đã làm được, phải chấp nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói phục quốc? Nước Việt Nam có mất cho Tây... đâu mà phục quốc?".
       Ngay cả những người Mỹ đương đại cũng luôn nhìn lịch sử với sự tôn trọng để rút ra bài học cho tương lai. Trong bài thuyết trình "Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử" trình bày tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh năm 2018, Giáo sư D.G.Faust, Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard nói: “Lịch sử soi rọi những sự mù quáng và tàn bạo đã làm nên chiến tranh. Nó giúp chúng ta hình dung và đấu tranh cho hòa bình”.
       Chúng ta cũng có thể tham khảo được nhiều bài học từ nước Nga. Sau khi Liên Xô tan rã, đã xuất hiện nhiều tiếng nói phủ nhận những thành tựu thời Xô viết, xét lại Cách mạng Tháng Mười, coi đó như một cuộc đảo chính man rợ, coi chế độ Xô viết như chủ nghĩa phát xít… Thế nhưng sau đó, chính quyền từ thời Tổng thống Nga Putin đã nhanh chóng bác bỏ những quan điểm sai trái trên, tiếp tục đề cao các giá trị truyền thống tốt đẹp thời Xô viết, coi đó là niềm tự hào chung để cố kết dân tộc Nga, tăng thêm sức mạnh. Phê phán những quan điểm sai trái, một bài báo từ hãng thông tấn Sputnik của Nga khẳng định: Không có chính quyền dân chủ nào được lập nên trên đầu mũi súng và không có nền dân chủ nào lại xúi giục những người anh em trong cùng một đất nước bắn giết lẫn nhau, dối trá và phỉ báng lịch sử của mình.
       Sự dối trá, hèn hạ phỉ báng lịch sử, khơi gợi hận thù để lặp lại sai lầm, kích động mâu thuẫn… không chỉ là hành động vô luân, vô ơn với tiền nhân, với người hy sinh vì hòa bình, độc lập, thống nhất mà còn là sự phá hoại tương lai của dân tộc. Chúng ta phải kiên quyết lên án, xóa bỏ những tư tưởng ấy để “mở nền thái bình muôn thuở", "dập tắt chiến tranh muôn đời”.