Thứ Hai, 12 tháng 10, 2020

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG 90 NĂM, TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 TCCS - Công tác dân vận được xác định là nhiệm vụ chiến lược của sự nghiệp cách mạng, xuyên suốt các thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng chiến chống thực dân, đế quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn phong phú, sinh động của công tác dân vận 90 năm qua (15-10-1930 - 15-10-2020) là minh chứng khẳng định lời dạy sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gặt mùa (1954) _Nguồn: hochiminh.vn

Những chặng đường lịch sử công tác dân vận của Đảng: 90 năm gắn bó mật thiết với nhân dân

Tháng 10-1999, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận”(1), theo đề nghị của Ban Dân vận Trung ương, Bộ Chính trị khóa VIII đã đồng ý lấy ngày 15-10-1930 là ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng, quyết định chọn ngày 15 tháng 10 hằng năm là Ngày Dân vận của cả nước để đẩy mạnh việc học tập và thực hiện những lời dạy của Bác(2). Trải qua 90 năm xây dựng và trưởng thành, công tác dân vận luôn là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ những trải nghiệm qua nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguồn gốc sức mạnh của Đảng là từ sức mạnh to lớn của nhân dân, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Những năm tháng đi khắp các châu lục, như châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Phi, người thanh niên cần lao vô sản Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay vào công việc vận động quần chúng yêu nước, thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp năm 1917, thay mặt Hội gửi tới Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam tháng 6-1919, gây chấn động chính trường Pháp và thế giới; cùng với một số nhà hoạt động cách mạng châu Phi thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp năm 1921, xuất bản báo Người cùng khổ; tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á năm 1925, xuất bản tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp; thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1925, trực tiếp huấn luyện những chiến sĩ trung kiên làm hạt nhân đi sâu vào quần chúng tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, gieo niềm tin cách mạng và tinh thần đoàn kết trong các giai tầng xã hội qua tác phẩm Đường Cách mệnh năm 1927, tạo nên bước ngoặt lịch sử bằng việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định những nội dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân tộc và nguyện vọng tha thiết của đại đa số nhân dân, đề ra sách lược thu hút, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân trở thành lực lượng cách mạng đi theo lá cờ tiên phong của Đảng.

Trước tình hình các tổ chức quần chúng chỉ có 2.747 hội viên ở Bắc Kỳ, 327 hội viên ở Nam Kỳ(3), ngay sau Hội nghị thành lập, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam ra Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột, Người nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng”(4). Xác định tập hợp lực lượng quần chúng là nhiệm vụ chính trị cấp thiết để đối phó với “khủng bố trắng” và chính sách mị dân của chính quyền thuộc địa, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (từ ngày 14 đến 31-10-1930 tại Hồng Kông, Trung Quốc) đã thông qua các nghị quyết về công nhân vận động, nông dân vận động, cộng sản thanh niên vận động, phụ nữ vận động, quân đội vận động, vấn đề cứu tế và đồng minh phản đế. Nghị quyết Hội nghị xác định rõ: “Trong các Đảng bộ thượng cấp (từ thành và tỉnh ủy trở lên) phải tổ chức cả các ban chuyên môn về các giới vận động”(5), đặt nền tảng cho sự ra đời nhanh chóng hệ thống ban chuyên môn và đội ngũ cán bộ về các giới vận động của Đảng, bao gồm Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Quân đội vận, Mặt trận phản đế làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi dân sinh, dân chủ ở nhiều nơi dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất, thể hiện nhận thức của Đảng từ nhấn mạnh đoàn kết giai cấp đến nâng cao tầm quan trọng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc.

Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh - đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 - 1931 do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo _Nguồn: Tư liệu TTXVN

Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên đã thực hiện “vô sản hóa”, “ba cùng” với nhân dân, tuyên truyền, giác ngộ và thành lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo nên sức mạnh và động lực cho cách mạng theo phương châm “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cao trào cách mạng năm 1930 - 1931, với đỉnh cao của phong trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh là mốc son sáng chói, đánh dấu việc lần đầu tiên một đảng cách mạng, dù còn rất non trẻ, đã thể hiện vai trò, bản lĩnh, uy tín, sức chiến đấu và khả năng to lớn trong việc lãnh đạo, đoàn kết, huy động quần chúng nhân dân, như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là “Một phong trào quần chúng mạnh lớn xưa nay chưa từng có ở nước ta”, “chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam”(6). Trong những năm tháng khó khăn, gian khổ nhất khi chính quyền thực dân thi hành “khủng bố trắng”, sử dụng mọi thủ đoạn dã man, tàn bạo nhằm đàn áp, triệt tiêu, cắt đứt mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, cơ sở cách mạng thì chính niềm tin yêu tuyệt đối của nhân dân, sự hy sinh, che chở, bảo vệ của nhân dân đã làm nên sức mạnh giúp Đảng kiên cường, vững vàng vượt lên những mất mát, tổn thất, đối mặt mọi thách thức cam go, giữ vững được niềm tin của nhân dân vào tương lai cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng. Chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng về mở rộng đại đoàn kết toàn dân, tăng cường công tác mặt trận, tạo nên bước phát triển mới trong xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, bao gồm nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc và cả ngoại kiều,... bằng các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp thúc đẩy các phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ năm 1936 - 1939, phong trào Phản đế năm 1939 - 1941 và phong trào Mặt trận Việt Minh năm 1941 - 1945. Ngày 19-5-1941, Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã quyết định đổi tên Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thành Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh với những chính sách đúng đắn, có sức lan tỏa rộng rãi đã trở thành trung tâm tập hợp các tầng lớp nhân dân ở mọi miền Tổ quốc hăng hái tham gia các tổ chức “cứu quốc”(7), nhanh chóng phát triển lực lượng từ nông thôn đến thành thị, từ vùng cao đến đồng bằng, khơi dậy tinh thần yêu nước nồng nàn và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông, tạo thành khí thế cách mạng sục sôi, đóng góp quan trọng cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2-9-1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên, là ngọn cờ đoàn kết, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, thắng lợi của nghệ thuật, chiến lược vận động quần chúng của Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”(8). Chỉ với vài nghìn đảng viên, Đảng đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh to lớn của nhân dân, gắn bó mật thiết, thấu hiểu nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dựa vào sự ủng hộ của nhân dân; tuyên truyền giác ngộ để nhân dân hiểu rõ con đường giành độc lập, tự do, mưu cầu hạnh phúc; tổ chức tập hợp nhân dân vào mặt trận, các đoàn thể chính trị  - xã hội và các hình thức tổ chức khác một cách linh hoạt; hướng dẫn quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, đồng tâm hợp lực khởi nghĩa đánh đổ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, xây dựng chính quyền công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Từ kinh nghiệm sâu sắc về xây dựng lực lượng cách mạng, trong suốt 30 năm từ năm 1945  đến năm 1975, lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác dân vận luôn được Đảng quan tâm, củng cố, tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, địa bàn, hướng tới mọi tầng lớp nhân dân để tập hợp, khơi lên nguồn sức mạnh tổng hợp bằng các phong trào cách mạng thiết thực. Nhận thức sâu sắc về nguy cơ kẻ thù phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, Chỉ thị về công tác dân vận của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 1-9-1947, nhấn mạnh:Quân địch đang dùng những thủ đoạn tàn bạo xảo trá hòng chia rẽ, lừa dối nhân dân và làm cho nhân dân hoang mang. Vậy công việc dân vận trong lúc này là một công tác quan trọng của Hội”(9); đi đôi với nhiệm vụ xây dựng Đảng để giữ vững vai trò lãnh đạo, củng cố niềm tin của nhân dân, trong tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở “Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”(10) và chỉ ra động lực để thúc đẩy phong trào quần chúng là: “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”(11). Các hình thức và biện pháp củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng với sự thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên  - Việt) vào ngày 29-5-1946, thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành Mặt trận Liên - Việt ngày 3-3-1951, thu hút thêm các đảng phái yêu nước, đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị. Phong trào thi đua ái quốc là hình thức tập hợp toàn dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, nhanh chóng được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng sâu rộng, tạo thành sức mạnh to lớn phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; cổ vũ, động viên toàn quân, toàn dân, khơi dậy ý chí cách mạng, nhiệt huyết phấn đấu, hy sinh, hăng hái thi đua lao động, sản xuất vì Tổ quốc; đồng thời, tăng cường công tác địch vận, làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền; hàng chục nghìn dân công hướng ra tiền tuyến vận tải lương thực, thực phẩm, vũ khí phục vụ các chiến dịch, mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.

Giai đoạn 1954 - 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, miền Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam; nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh luôn được quan tâm. Ngày 10-9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời, tăng cường đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, động viên đồng bào, chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Tại miền Nam, ngày 20-12-1960, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam họp tại căn cứ Tây Ninh quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhờ chú trọng đổi mới nội dung và phương thức, công tác dân vận được triển khai sâu rộng trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực, các tầng lớp nhân dân trong nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại và đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; làm chỗ dựa vững chắc cho quân và dân miền Nam(12) tổ chức nhiều phong trào đấu tranh sâu rộng, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30-4-1975. Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước bước sang thời kỳ mới - thời kỳ hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương khóa III, trong năm 1976, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã được hợp nhất và thống nhất chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở(13).

Đại hội VI của Đảng năm 1986, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức và cán bộ, đổi mới phong cách làm việc, đã đánh dấu bước chuyển quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước, của hệ thống chính trị và đáp ứng mong đợi của nhân dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội nhấn mạnh bài học đầu tiên trong 4 bài học lớn được rút ra qua thực tiễn cách mạng, đó là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”; “phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân”(14). Tư tưởng đó tiếp tục được phát triển, khẳng định mạnh mẽ, sâu sắc trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Cương lĩnh 1991), toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Trong công cuộc đổi mới, thực hiện nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân”, bảo đảm điều kiện để Đảng vươn lên ngang tầm nhiệm vụ đã đặt ra yêu cầu cấp bách về đổi mới nội dung và phương thức công tác dân vận của Đảng. Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27-3-1990, về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”, tập trung khắc phục tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên quan liêu, mệnh lệnh, xa dân, chuyên quyền, độc đoán, tham ô, hối lộ, sống xa hoa, lãng phí, làm giảm nhiệt tình cách mạng, hạn chế việc phát huy khả năng to lớn của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Công tác dân vận đặt ra yêu cầu là phải đổi mới, tiến hành đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị; tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích và nghĩa vụ công dân; đa dạng hóa các hình thức tập hợp lực lượng; nêu cao trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đối với công tác quần chúng của Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tỉnh Nghệ An (năm 2017) _Nguồn: baonghean.vn

Những thành tựu to lớn, quan trọng của gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là điều kiện bảo đảm vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Các văn kiện qua 7 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc trong công cuộc đổi mới luôn chú trọng kiểm điểm, đánh giá về xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; từ đó, đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác vận động quần chúng sát hợp với yêu cầu, kế hoạch phát triển đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản, đó là: Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; các Nghị quyết số 23, 24, 25, khóa IX năm 2003, về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo; Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25-2-2010, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; các văn bản tạo điều kiện cho nhân dân, các tổ chức quần chúng tham gia góp ý, giám sát, phản biện, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, như Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Quyết định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư, “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”,... Đặc biệt là Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Trên cơ sở đánh giá tình hình, làm rõ các thách thức đối với công tác dân vận trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, Nghị quyết khẳng định 5 quan điểm, 7 nhiệm vụ thực hiện công tác dân vận trong tình hình mới. Bên cạnh đó, nhiều văn bản của Đảng liên quan đến công tác dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị  - xã hội và hội quần chúng được ban hành, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị đối với công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác dân vận tiếp tục được tăng cường, đổi mới và đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác dân vận của cơ quan nhà nước được chú trọng đẩy mạnh; từ năm 2018, việc thực hiện “Năm dân vận chính quyền” với 6 nội dung trọng tâm được triển khai đồng bộ ở các cấp chính quyền, tăng cường trách nhiệm đối với đời sống, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; nâng cao đạo đức công vụ, tinh thần phục vụ, tạo điều kiện để nhân dân giám sát, tham gia xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh theo hướng “thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị  - xã hội hướng về cơ sở, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, mở rộng hoạt động giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Các phong trào thi đua yêu nước được đẩy mạnh gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phong trào thi đua “Dân vận khéo”, với hàng vạn mô hình, điển hình dân vận khéo, tạo sức lan tỏa sâu sắc những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân vận” vào thực tiễn cuộc sống, nêu cao tinh thần trách nhiệm của Đảng, hệ thống chính trị với nhân dân. Đội ngũ cán bộ dân vận được kiện toàn, nâng cao năng lực, tham mưu với Đảng lãnh đạo, đổi mới công tác dân vận đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, phối hợp đẩy mạnh công tác dân vận trong hệ thống chính trị, chú trọng công tác dân vận của chính quyền các cấp; góp phần tạo đồng thuận xã hội, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Những kết quả quan trọng đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tiếp tục khẳng định cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong thực tiễn. Ghi nhận những đóng góp quan trọng của ngành dân vận, những năm qua Đảng, Nhà nước đã trao tặng nhiều danh hiệu cao quý cho tập thể Ban Dân vận Trung ương, như Huân chương Sao vàng năm 2002, Huân chương Hồ Chí Minh năm 2015, Huân chương Lao động hạng Nhất (các năm 2010, 2015, 2019).

Thắm tình quân dân _Ảnh: Tư liệu

Phát huy các giá trị truyền thống, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới

Trong suốt hơn 90 năm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận thức sâu sắc sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và yêu cầu xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, quán triệt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cương lĩnh 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mặc dù bối cảnh trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế nước ta vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc; phúc lợi, an sinh xã hội được tăng cường, dịch bệnh được kiểm soát, các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao; quốc phòng an ninh, đối ngoại được giữ vững; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được quan tâm toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đạt nhiều kết quả tích cực, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra, đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng, khắc phục các hiện tượng sa sút, thoái hoá về phẩm chất, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố và xây dựng các tổ chức đảng thật trong sạch, vững mạnh, làm cho Đảng thật sự “là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(15).

Cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam tặng cờ Tổ quốc cho ngư dân và vận động bà con tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo _Nguồn: baohaiquanvietnam.vn

Thời gian tới, tình hình quốc tế, khu vực có nhiều thay đổi phức tạp, nhanh chóng, khó lường; tình hình trong nước vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đời sống nhân dân; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, kiểm soát quyền lực còn một số hạn chế phải nhanh chóng khắc phục. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đối ngoại, phát triển đất nước ở mức độ cao hơn. Đảng nhận thức rõ động lực phát triển của đất nước giai đoạn tới chính là tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, văn hóa và con người Việt Nam, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đồng thời, đó cũng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trên cơ sở đó, công tác dân vận của Đảng cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu đặt ra, tập trung vào thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các cấp ủy đảng và của cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên; tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Hai là, tập trung làm tốt công tác dân vận của các cơ quan nhà nước các cấp, trọng tâm là: 1- Phát huy vai trò tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật; bảo đảm hài hoà lợi ích hợp pháp, chính đáng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân gắn với lợi ích quốc gia  - dân tộc, quan tâm địa bàn khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nâng cao chất lượng, khắc phục tính hình thức trong hoạt động tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân; 2- Nâng cao đạo đức công vụ, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực thi công vụ; phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo, người đứng đầu trước nhân dân. Kiên quyết phê phán, đấu tranh chống những biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm với nhân dân; đồng thời, nâng cao trách nhiệm công dân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật; 3- Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, sâu sát cơ sở, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; khắc phục tình trạng chậm hoặc không nắm được tình hình trật tự và nguyên vọng của nhân dân. Tập trung xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, tránh để hình thành và lan rộng các điểm nóng về an ninh, trật tự xã hội.

Ba là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tích cực tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình hay, điển hình tiên tiến về công tác dân vận. Phát huy vai trò, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, thực chất, hiệu quả hơn; nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội. Quan tâm lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận, dân vận, đoàn thể; kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận.

Bốn là, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; nâng cao vai trò trách nhiệm và tính gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động. Phối hợp, thực hiện có hiệu quả Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận.

Với truyền thống vẻ vang 90 năm, công tác dân vận của Đảng thực sự đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng. Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân trong chặng đường phát triển tiếp theo của đất nước với mục tiêu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng; trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, đòi hỏi công tác dân vận phải không ngừng phát huy truyền thống, nâng cao năng lực vận động quần chúng, làm tốt vai trò là cầu nối quan trọng giữa Đảng với nhân dân, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới./.

TRƯƠNG THỊ MAI

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương

-----------------------------

(1) Đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949
(2) Thông báo ý kiến của Bộ Chính trị số 293-CV/TW, ngày 14-10-1999
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 15
(4), (5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 16, 113
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 407 - 408
(7) Hội Nông dân Cứu quốc, Công nhân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc,...
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 19
(9) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 285 - 286
(10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 278, 285
(12) Công tác dân vận, tuyên truyền tuyển quân chi viện cho miền Nam góp phần trong 3 năm (1973 - 1975) có gần 50 vạn thanh niên nhập ngũ; riêng trong 2 năm (1973 - 1974) đã có 379.000 tấn vật chất từ miền Bắc chuyển vào các mặt trận, bằng 54% tổng khối lượng vật chất cho chiến trường trong suốt 16 năm trước đó; trong các năm (1972 - 1974), hàng nghìn cán bộ làm công tác tư tưởng đã được đưa vào miền Nam tuyên truyền, động viên chiến đấu (Ban Dân vận Trung ương: Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 353)|
(13) Ngày 25-4-1976, nhân dân cả nước thực hiện cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước; kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất diễn ra từ ngày 24-6 - 2-7-1976; Ban Bí thư ban hành Quyết định số 253-NQ/TW, ngày 24-5-1976, “Về việc thống nhất các đoàn thể nhân dân và thống nhất Mặt trận”, trên cơ sở đó hội nghị hợp nhất các đoàn thể được tổ chức: Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh ngày 26-3-1976; Tổng Công đoàn Việt Nam từ ngày 6 - 8 tháng 6-1976; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ ngày 10 - 12 tháng 6-1976; Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam từ ngày 20 - 21 tháng 9-1976; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ ngày 31-1 đến ngày 4-2-1977
(14) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 362 – 363
(15) Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tạp chí Cộng sản, số 949, tháng 9 năm 2020, tr. 7


 

Hơn 913.000 hộ dân ở miền Trung mất điện do mưa lũ và bão

 TTO - Tổng công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC) cho biết đến sáng 12-10 đã cấp điện trở lại cho hơn 334.000 khách hàng, nhưng hiện còn đến gần 580 nghìn khách hàng trong khu vực đang được khẩn trương khôi phục cấp điện ngay khi nước lũ rút.

Cơn bão số 6 cùng mưa lớn gây lũ lụt tại 7 tỉnh, TP miền Trung Tây Nguyên khiến hơn 913.000 khách hàng của 369 xã, phường trong khu vực bị mất điện. 

EVNCPC đã yêu cầu các công ty điện lực bị ảnh hưởng ít hoặc không bị ảnh hưởng bởi bão, lũ tăng cường lực lượng xung kích tham gia hỗ trợ các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum khắc phục thiệt hại nặng nề.

Đến trưa 12-10, EVNCPC chưa thể cấp điện trở lại tại 7 tỉnh, TP do tình hình mưa, lũ còn diễn biến phức tạp, giao thông chia cắt. Tại Quảng Bình hiện còn 2 xã với 1.577 khách hàng bị mất điện, Quảng Trị còn đến 47.323 khách hàng chưa thể khôi phục thuộc khu vực Hải Lăng, Thành Cổ, Triệu Phong nước còn dâng cao. 

Thừa Thiên Huế hiện còn 178.136 khách hàng của 73 xã, phường bị mất điện. TP Đà Nẵng còn 5.265 khách hàng 4 xã Hòa Tiến, Hòa Nhơn, Hòa Phú, Hòa Phong bị mất điện. Quảng Nam hiện tại còn 202.106 khách hàng của 126 xã bị mất điện. Quảng Ngãi còn 144.696 khách hàng của 20 xã mất điện...

Theo EVNCPC, đơn vị tiếp tục theo dõi và tiến hành khôi phục cấp điện khi nước rút, giao thông ổn định và đảm bảo an toàn đóng điện

Theo phó tổng giám đốc EVNCPC Nguyễn Thành, đơn vị đã tổ chức ngay đoàn công tác vào hiện trường tại tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam nắm bắt tình hình thiệt hại và trực tiếp chỉ đạo công tác khắc phục lưới điện sau bão số 6. 

Khẩn trương khắc phục lưới điện bị ảnh hưởng, nhanh chóng cấp điện trở lại cho khách hàng nhưng phải bảo đảm công tác an toàn. Ước công suất không cung cấp điện được tại 7 điện lực địa phương là 163 MW, chiếm 7,6% phụ tải toàn EVNCPC.

 

 

Đừng giỡn với thế giới ảo

 Gần đây, trong khi tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhiều cư dân mạng còn làm phức tạp thêm tình hình với nhiều tin tức thất thiệt.

Bên cạnh nỗ lực chống dịch bệnh Covid-19, cơ quan chức năng còn phải lo đối phó với “dịch” thông tin giả. Và xem ra, cuộc chiến chống “dịch” thông tin giả này cũng gian nan không kém chống dịch Covid-19. Từ giả công văn của cơ quan nhà nước, như thông tin cho học sinh đi học trở lại đến tin giả về số người bị nhiễm bệnh, về các loại “thần dược” có thể chữa được dịch bệnh; phát tán thông tin xấu về tình hình dịch bệnh...

Lý do chủ yếu mà chủ nhân của tin đồn biện minh là “giỡn cho vui”, để câu like, gây sự chú ý, lợi dụng bán hàng để thu lợi bất chính; có người chia sẻ, vô tình tiếp tay cho kẻ tung tin giả do thiếu hiểu biết và thiếu kiểm chứng... Và hẳn nhiên, những người tung tin thất thiệt, dù với bất cứ nguyên nhân hay động cơ gì, đã phải trả giá, bị xử lý, tùy mức độ nặng nhẹ cho sự “đùa giỡn” của họ - dù chủ nhân nhiều facebook sau đó đã công khai đăng lời xin lỗi. Thế mới thấy, bất cứ ai cũng không thể và không nên giỡn với luật pháp, dù ở ngoài đời thật hay trên thế giới ảo.

Luật An ninh mạng của nước ta quy định nghiêm cấm thông tin sai sự thật trên không gian mạng với quy định nghiêm ngặt nhưng dường như vẫn chưa đủ sức răn đe những người... thích đùa. Bằng chứng là có rất nhiều người, trong đó có cả những người nổi tiếng, đưa thông tin thất thiệt lên mạng xã hội, gây hoang mang dư luận và đã bị cơ quan chức năng xử phạt theo quy định. Nhiều trường hợp, tuy chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý vi phạm hành chính nhưng cũng đã khốn khổ vì bị “ném đá”, bị tẩy chay, xa lánh, vì những phát ngôn bốc đồng  trên mạng xã hội để câu like.

Mới đây, Chính phủ đã “mạnh tay” khi quy định nâng mức xử phạt đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống… lên 20 triệu đồng. Quy định này có hiệu lực từ ngày 15.4 tới, được hy vọng là liều thuốc đặc trị tin giả. Tất nhiên, “thuốc” ấy hiệu nghiệm đến đâu một phần còn tùy thuộc người sử dụng mạng xã hội có đủ tỉnh táo và trách nhiệm trong tiếp nhận, chia sẻ, đăng tải thông tin... Tung tin giả, sai sự thật, đùa giỡn quá đà trên thế giới ảo... đều có thể gây nên những hậu quả thật.

 

CÔNG TÁC PHỐI HỢP BẢO VỆ RỪNG Ở VƯỜN QUỐC GIA CHƯ MOM RAY

 

Vườn Quốc gia Chư Mom Ray thực hiện tốt công tác phối hợp bảo vệ rừng

TP - Dù chỉ có 105 người nhưng nhiều năm qua Vườn quốc gia Chư Mom Ray đã đạt kết quả tốt trong công tác quản lý bảo vệ rừng cũng như công tác phòng cháy chữa cháy rừng.

Chư Mom Ray là một trong số 30 Vườn Quốc gia thuộc hệ thống rừng đặc dụng cả nước với tổng diện tích hơn 56 nghìn ha (nằm ở các xã Rờ Kơi, Sa Nhơn, Sa Sơn, Mo Ray, thị trấn Sa Thầy của huyện Sa Thầy và xã Sa Loong, Bờ Y, Đắk Kan của huyện Ngọc Hồi) đều thuộc tỉnh Kon Tum. Chư Mom Ray có độ cao từ 200m đến 1.773m. 
Chư Mom Ray là khu vực có tính đa dạng sinh học cao với tổng số loài đã phát hiện và ghi nhận 1.895 loài thực vật. Về động vật có 120 loài có vú, 290 loài chim, 42 loài bò sát, 25 lưỡng cư­, 108 loài cá nư­ớc ngọt, 365 loài côn trùng; 176 loài thuộc diện quý, hiếm đ­ược ghi trong sách đỏ Việt Nam và thế giới. 
Chư Mom Ray là khu vực có tính đa dạng sinh học cao, tồn tại 7 hệ sinh thái rừng chính là rừng thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới và 5 hệ sinh thái rừng phụ là loại rừng trảng cỏ cây bụi, các kiểu rừng này là nơi tập trung của các loài thú móng guốc, thú ăn thịt...Chư Mom Ray có giá trị về bảo vệ môi trường, điều hoà khí hậu, nguồn nước và phòng hộ đầu nguồn cho Thuỷ điện Plei Krong, Ya Ly, Sê San 3 và phát triển du lịch sinh thái.
Để đạt được kết quả trên, Chư Mom Ray đã làm tốt công tác tuyên truyền. Cụ thể, các tháng đầu năm 2020 đã tổ chức 21 cuộc tuyên truyền cấp thôn, làng với 844  lượt người dân tham gia. Cụ thể, các trạm quản lý bảo vệ rừng phối hợp với UBND các xã tuyên truyền trên hệ thống đài truyền thanh của thôn, xã và tuyên truyền trực tiếp người dân trên nương rẫy. Nội dung tuyên truyền tập trung nâng cao nhận thức cho cộng đồng hiểu biết về giá trị của rừng, lợi ích của rừng mang lại cho cuộc sống của người dân, đồng thời quán triệt để người dân hiểu rõ về những hành vi trái pháp luật và những hậu quả nghiêm trọng khi người dân phá rừng, tuyên truyền về giáo dục môi trường, giáo dục pháp luật, tích cực vận động người dân tham gia hưởng ứng “phong trào toàn dân tham gia quản lý bảo vệ rừng”, cung cấp thông tin, tố giác tội phạm.

VIỆT NAM VÀ CHỦ QUYỀN TRÊN BIỂN ĐÔNG

Việt Nam nêu quan điểm về công hàm biển Đông của nhóm E3

TPO - Bộ Ngoại giao vừa cho biết quan điểm của Việt Nam trước việc 3 nước châu Âu gồm Anh, Pháp và Đức hôm 16/9 cùng gửi công hàm tới Liên Hợp quốc bày tỏ lập trường chung về các yêu sách của Trung Quốc ở biển Đông.

Bà Lê Thị Thu Hằng. (Ảnh: Như Ý)
Bà Lê Thị Thu Hằng. (Ảnh: Như Ý)

Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 1/10, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết, lập trường của Việt Nam về các vấn đề liên quan đến biển Đông là nhất quán và đã được thể hiện trong nhiều dịp khác nhau.
Việt Nam cho rằng, các nước chia sẻ nguyện vọng và mục tiêu chung về việc duy trì và thúc đẩy hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở biển Đông. Để thực hiện điều này, việc tôn trọng trật tự pháp lý trên biển và thưc thi đầy đủ, thiện chí, trách nhiệm Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 là thiết yếu.
 Việt Nam hoan nghênh lập trường của các nước về vấn đề  biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế, và chia sẻ quan điểm như đã nêu trong Tuyên bố của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 vừa qua và Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 53 rằng UNCLOS là khuôn khổ pháp lý điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương.
 Với tinh thần đó, cùng với các nước ASEAN, Việt Nam mong rằng tất cả các nước, bao gồm các nước đối tác của ASEAN, sẽ nỗ lực đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác tại biển Đông, và giải quyết các tranh chấp thông qua đối thoại và các biện pháp hòa bình khác theo luật pháp quốc tế, vì lợi ích chung, phù hợp với với nguyện vọng của các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. 
 “Một lần nữa xin khẳng định Việt Nam luôn đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào quá trình này”, bà Hằng nói.
 Trong công hàm nêu trên, 3 nước châu Âu với tư cách thành viên UNCLOS đã bày tỏ lập trường phản đối với yêu sách Trung Quốc ở biển Đông mà nước nãy đã gửi lên Liên Hợp quốc trước đó.

Theo Báo tiền phong

Twitter, Facebook phản ứng với tuyên bố gây hiểu lầm của Trump về dịch Covid-19 trên mạng xã hội

 

Mạng xã hội Twitter hôm 12/10/2020 vừa gán nhãn cảnh báo vào một dòng tweet của Tổng thống Donald Trump tự tuyên bố miễn nhiễm với coronavirus sau khi bác sĩ của ông ta cho phép ông ta tiếp tục hoạt động trong cộng đồng, mặc dù ông này mới trải qua sau 10 ngày điều trị do mắc Covid-19. Mục đích là để ông Trump nhanh chóng trở lại với chiến dịch tái tranh cử với các cuộc vận động hùng biện tại các điểm tập trung đông người, khi thời điểm bầu cử Tổng thống đã cận kề.

"Ngày hôm qua, các Bác sĩ Nhà Trắng đã xác nhận. Điều đó có nghĩa là tôi không thể mắc bệnh (miễn dịch). Rất vui được biết như vậy !!!" ông Trump đã viết trên Twitter vào Chủ nhật 12/10/2020. Trump cũng tuyên bố khả năng miễn dịch Covid-19 của mình trong một cuộc phỏng vấn trên Fox News, nói rằng ông ta sẽ miễn nhiễm "có thể là một thời gian dài, có thể một thời gian ngắn, có thể là cả đời."

Tuy nhiên, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh CDC của Mỹ thì khẳng định không có bằng chứng nào cho thấy mọi người miễn dịch với coronavirus nếu họ đã bị nhiễm một lần. CDC đặc biệt cảnh báo mọi người không nên cho rằng mình có khả năng miễn dịch, đặc biệt trong bối cảnh nước Mỹ đang dẫn đầu thế giới về số người nhiễm và số người chết do đại dịch Covid-19 và đang tiếp tục có xu hướng gia tăng khi thời tiết đang mùa thu và sắp bước vào mùa đông.

Nhãn cảnh báo của Twitter cho biết các thông tin tweet của ông Trump "đã vi phạm Quy tắc của Twitter về việc truyền bá thông tin gây hiểu lầm và có khả năng gây hại liên quan đến Covid-19."

Người phát ngôn của Twitter cho biết: “Chúng tôi đã đặt một thông báo cảnh báo đến cộng đồng trên Tweet của Tổng thống Trump vì đã vi phạm chính sách thông tin do đưa ra các tuyên bố về sức khỏe gây hiểu lầm về Covid-19”.

Trump cũng đã đăng thông điệp tương tự trên tài khoản Facebook của mình, nhưng nền tảng này đã không có cảnh báo nào. Bài đăng đã được 4 giờ và được chia sẻ hơn 24.000 lần trên Facebook. Facebook đã không trả lời yêu cầu bình luận. "Facebook chỉ đơn giản là cần làm tốt hơn với những thông tin sai lệch. Đặc biệt là Covid liên quan đến sự sống hoặc cái chết của con người theo đúng nghĩa đen. Facebook phản ứng quá chậm và tôi chưa thấy bất kỳ thay đổi thực sự nào trong chính sách của nó" Shepherd - phó giáo sư sinh học thần kinh và hóa sinh tại Đại học Utah, cho biết.

Trước đó, Facebook đã xóa một bài đăng khỏi tài khoản của Tổng thống sau khi ông ta tuyên bố sai sự thật rằng bệnh cúm gây chết người nhiều hơn Covid-19. Twitter trước đó cũng đã thêm nhãn cảnh báo vào các tweet tuyên bố vô căn cứ của Trump  trước đây.

Qua các sự kiện trên cho thấy, Twitter, Facebook phần nào đã nhận thức tác hại của việc đưa tin sai lệch trên mạng xã hội, họ đã có hành động “ngăn cản” dù cho người đưa tin là vị Tổng thống quyền lực cao nhất nước Mỹ. Liệu các mạng xã hội này có làm được việc ngăn chặn các thông tin sai lệch, xuyên tạc đang diễn ra hàng ngày trên khắp thế giới? Hơn nữa, qua sự việc cũng đặt dấu chấm hỏi về một nền dân chủ “thái quá” của Mỹ có đáng để làm hình mẫu cho cả thế giới hay không, khi cho phép một vị tổng thống đứng đầu đất nước sẵn sàng có những hành động và đưa ra những phát ngôn bất chấp tính mạng con người, chỉ với mục đích phục vụ chiến dịch tái tranh cử để đảm bảo quyền lực và lợi ích cho cá nhân?

TỰ HÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM NGÀY 20 THÁNG 10

 

 

Lịch sử ra đời ngày Phụ nữ Việt Nam 20-10

Lịch sử cho thấy, với đặc điểm Việt Nam là một đất nước nông nghiệp chủ yếu nghề là trồng lúa nước và nghề thủ công nghiệp, thường bị kẻ thù ngoại bang dòm ngó xâm lược, đời sống nghèo khổ, phụ nữ Việt Nam đã hình thành những bản sắc riêng: họ không chỉ là lực lượng lao động chính với tính cách lao động cần cù, sáng tạo mà còn là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là những người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.

Trong chế độ phong kiến và thực dân đế quốc, tầng lớp phụ nữ Việt Nam là tầng lớp chịu nhiều áp bức, bóc lột, và bất công nhất, nhưng họ luôn nêu cao tinh thần giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ Việt Nam đã tham gia đông đảo vào các phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, nhiều phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai... Từ năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ Việt Nam như Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề.. với hàng loạt phụ nữ tham gia các phong trào yêu nước, phản đối chế độ thực dân như: nhóm các chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội; Nhóm các chị Thái Thị Bôi, Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh; nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hoạt hội đỏ của Tân Việt; tham gia phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 với 12.946 chị tham gia phụ nữ giải phóng, cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính quyền Xô Viết ở trên 300 xã; ngày 1/5/1930, đồng chí Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của hơn 4.000 nông dân ở hai huyện Châu Thành, Mỹ Tho, trong đó có hàng ngàn phụ nữ tham gia.

Ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam".

Ý nghĩa ngày ngày Phụ nữ Việt Nam 20-10

Ngày Phụ nữ Việt Nam là một ngày lễ kỷ niệm nhằm tôn vinh phụ nữ Việt Nam, được tổ chức vào ngày 20 tháng 10 hàng năm ở Việt Nam. Vào dịp này, phụ nữ Việt Nam, cũng như phụ nữ tại các nơi khác trên thế giới, được nhiều người bày tỏ sự quan tâm và tôn vinh dưới nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất vẫn là tặng hoa hồng, thiệp và kèm theo những lời chúc mừng,... Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 là ngày đầu tiên trong lịch sử nước ta, một đoàn thể quần chúng của phụ nữ được hoạt động hợp pháp và công khai, nhằm đoàn kết, động viên lực lượng phụ nữ đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của đất nước. Trải qua 90 năm hình thành và phát triển, tổ chức Phụ nữ Liên hiệp Hội ngày càng lớn mạnh, người phụ nữ Việt Nam yêu nước ngày càng có tri thức, có sức khỏe, càng năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm tới lợi ích xã hội và cộng đồng. Trải qua nhiều thăng trầm của xã hội, chị em luôn luôn thể hiện vai trò tích cực, đảm đang, với tấm lòng nhân hậu đã đóng góp nhiều công sức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước.

Ngày 20/10 hàng năm được chọn là Ngày Phụ Nữ Việt Nam, đó là sự ghi nhận của đất nước với những con người được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng: "Cần cù, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang".

Ngày nay, phụ nữ Việt Nam đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Ðã có hàng trăm công ty, xí nghiệp có uy tín cao trên thị trường trong nước và quốc tế do phụ nữ lãnh đạo. Nhiều chị đã nhận được giải thưởng cao quý của Nhà nước. Nhiều lao động nữ trong nhiều ngành nghề đã được công nhận là có chất lượng và kỹ thuật tốt. Phụ nữ tham gia lãnh đạo trong các cơ quan Ðảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội ngày một nhiều.

 

TĐC

XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN THỂ CHẾ ĐỂ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ

 Mượn một câu chuyện vốn không chỉ xảy ra ở Việt Nam để công kích công tác cán bộ của Đảng, một số cá nhân (như Thảo Ngọc) đã xuyên tạc, “rêu rao” với những giọng điệu như: “Biến các cuộc bầu cử trở thành thị trường mua quan bán chức một cách trắng trợn”, "chức càng lớn thì giá càng cao…” chính là sự xuyên tạc, bôi đen đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên và của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tế, nhận thức sâu sắc rằng,“cán bộ là cái gốc của mọi công việc” vì “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(4), cho nên, ngay từ những ngày đầu của nền dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: Chính phủ là công bộc của dân! Trong các cơ quan công quyền; trong công tác cán bộ, cả người làm công tác cán bộ và việc lựa chọn cán bộ để bổ nhiệm cũng cần “phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui vào lọt các Ủy ban đó”.
Trong suốt 75 năm qua, những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh luôn được chú trọng thực hiện để phòng, chống và đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cả tư tưởng và hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức rõ: “Chạy chức, chạy quyền” là tham nhũng, là một nguy cơ và thách thức lớn đối với công tác cán bộ, cho nên đã, đang và sẽ chú trọng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, nhất là kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.
Từ thực trạng đó và để phòng và chống nạn “chạy chức, chạy quyền”, thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt nguyên tắc mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải chú trọng thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng; phải thường xuyên, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát trong mọi mặt công tác. Trong công tác cũng như trong cuộc sống đời thường, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch các căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao phó để mưu cầu lợi ích cá nhân cho mình, người thân, dòng họ và nhóm lợi ích; đều phải đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Theo đó, mỗi người, chức vụ càng cao càng phải thực hiện nghiêm các Quy định về nêu gương, nói đi đôi với làm; phải gương mẫu trong phòng và chống 27 biểu hiện suy thoái theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng…
Nói như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng là phải “nhốt quyền lực vào trong lồng quy chế lập pháp”; phải thông qua Hiến pháp, hệ thống pháp luật và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát để phát huy sức mạnh kỷ luật Đảng, phát huy vai trò giám sát của nhân dân để tạo ra “chiếc phanh cơ chế”, “cái lồng kiểm soát” thiết thực, hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, công tác cán bộ nói riêng, thì trong công tác cán bộ cũng còn không ít bất cập, hạn chế; trong đó có những kẽ hở để những người cơ hội "luồn lách chạy”. Một trong những liều "vắc xin đặc chủng" để kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền trong nhiệm kỳ Đại hội XII và cho những nhiệm kỳ sau chính là yêu cầu “xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm”(6). Điều này cũng cho thấy, vấn đề chống “chạy chức, chạy quyền” đã được chú trọng thực hiện tương đối đồng bộ và toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Quy định số 205-QĐ/TW “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” của Bộ Chính trị được Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 23/9/2019, một lần nữa cho thấy công tác cán bộ đã được Đảng đặc biệt quan tâm, đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Ðảng gắn với trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Nội dung Quy định này cũng đồng thời khẳng định chủ trương của Đảng về kiểm soát để phòng và chống sự tha hóa quyền lực được thấu triệt trên tinh thần mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế và mọi quyền hạn đều phải được ràng buộc bằng trách nhiệm.
Quyết tâm chính trị của Đảng được quán triệt, nghiêm túc triển khai bài bản gắn liền với sự giám sát, giúp đỡ của nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân trong công tác cán bộ thời gian qua đã khẳng định tính hiệu quả, cần thiết của Quy định 205-QĐ/TW.
Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đồng hành cùng dân tộc trên hành trình đi đến tương lai, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin yêu và sự kỳ vọng của nhân dân./.

“ĐẢNG KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TỔ CHỨC ĐỂ LÀM QUAN PHÁT TÀI”

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(1) và “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”(2); trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn rèn luyện về mọi mặt để “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Vì thế, nhìn nhận thực trạng “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích”, nguyên nhân, nguy cơ và tác hại của nó trong đời sống chính trị, trong công tác xây dựng Đảng và để đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân, chống các biểu hiện tiêu cực, tham ô, tham nhũng…, trong những nhiệm kỳ gần đây Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, khẳng định quyết tâm cao độ của Đảng về kiểm soát quyền lực, ngăn chặn “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” trong công tác tổ chức - cán bộ.
Trong thực tế, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; thực hiện nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về "Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương" và Quy định số 205-QÐ/TW ngày 23/9/2019 “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” cùng với việc chuẩn bị nhân sự, tổ chức thật tốt Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng theo tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”… đã và đang được triển khai nghiêm túc, sâu rộng trong Đảng, trong cả hệ thống chính trị.
Việc những tổ chức, cá nhân suy thoái, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật bị xét xử, truy tố (như Tổng Công ty viễn thông Mobifone mua 95% cổ phần của Công ty nghe nhìn toàn cầu (AVG), Vũ “Nhôm”...) liên quan đến một loạt sai phạm của một số cán bộ, đảng viên có chức quyền; nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những cán bộ cao cấp đã bị xét xử và chịu những hình thức xử lý thích đáng, không chỉ thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, tính kiên quyết, kiên trì trong đấu tranh phòng và chống “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” trên tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ của Đảng, mà còn góp phần cảnh tỉnh, ngăn ngừa tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Có thể nói, chưa có nhiệm kỳ nào như nhiệm kỳ Đại hội XII mà Đảng lại ban hành nhiều nghị quyết, quy định, chỉ thị nhằm chấn chỉnh công tác tổ chức - cán bộ; kiểm tra, giám sát, phòng và chống tham nhũng, “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” để siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng như vậy. Điều đó cho thấy sự kiên quyết, kiên trì của Đảng, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong quyết tâm phòng và chống “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích”, chứ không phải Đảng thấy mà không chống và “đã hết thuốc chữa” như Phạm Trần viết.
Trong thời gian qua, các cơ quan truyền thông của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thậm chí cả mạng xã hội cũng có những thông tin về các vụ việc “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” đã được các cơ quan chức năng phát hiện, tiến hành điều tra, xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Nó cho thấy cuộc đấu tranh phòng và chống tham ô, tham nhũng, “chạy chức”, “chạy quyền”, “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” ở Việt Nam đang tiếp tục được đẩy mạnh, thu hút sự quan tâm của dư luận và các tầng lớp nhân dân.
Ở đâu có quyền lực, ở đó có lợi ích và vì thế cũng sẽ có “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” tiêu cực. Trong bối cảnh hội nhập, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” cũng sẽ tiếp tục tác động đến quá trình hoạch định và thực thi chính sách ở tất cả các ngành, lĩnh vực, mọi quy mô, cấp độ, với các hoạt động ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Trong giai đoạn trước, “Lợi ích nhóm"/"Nhóm lợi ích" hoạt động mạnh mẽ, thậm chí có lúc công khai thì hiện nay, với việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhiều “nhóm lợi ích” tiêu cực đã tan rã; trong đó, không ít thành viên của nhóm bị xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật.
Nói thể để thấy, “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” tiêu cực là có thật. Cuộc đấu tranh để phòng, chống, ngăn chặn “Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” bằng cơ chế kiểm soát quyền lực là một công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, đang được Đảng Cộng sản Việt Nam triển khai quyết liệt cũng là có thật. Nó cũng đồng thời cho thấy, đây là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ mà nhân dân Việt Nam đang kiên trì xây dựng. Trong đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam "là kiên quyết, kiên trì thực hiện, khó mấy cũng phải thực hiện, thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, tiến hành thường xuyên, liên tục ở các cấp, các ngành, đồng thời cả Trung ương và cơ sở"...
Vì thế, kiểu nhìn tiểu tiết đánh giá toàn cục, nhìn một vài hiện tượng đơn lẻ trong Đảng để đánh giá bản chất Đảng Cộng sản Việt Nam chính là một thủ đoạn thâm độc, nhằm bôi đen, hạ uy tín của Đảng, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng và tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong nhân dân. Những nhận định kiểu: "Lợi ích nhóm”/“Nhóm lợi ích” là "những tổ chức cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong đảng Cộng sản Việt Nam đã chia bè, kết phái để cướp cơm dân và bảo vệ độc quyền cai trị cho đảng"; được hình thành "từ dưới lên trên, từ trung ương xuống cơ sở và từ nhà nước vào doanh nhân, xí nghiệp"; "khối Doanh nghiệp nhà nước là ổ tham nhũng phá hoại đất nước và phản bội sức lao động của dân lớn nhất" mà "gần 10 năm qua" các cơ quan ban, ngành chức năng không sao vạch mặt, chỉ tên ra được của một số "anh hùng bàn phím" là hồ đồ và sai hoàn toàn.

“CHÚNG TA PHẢI HẾT SỨC KHÔN KHÉO, ĐỨNG TRƯỚC BẤT KỲ KẺ THÙ NÀO, NGƯỜI CÁCH MẠNG CŨNG PHẢI HIỂU RÕ CHÚNG LÀ AI; MẠNH YẾU CHỖ NÀO, TRANH THỦ VÀ CÔ LẬP AI?…”

 Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời các vấn đề đối ngoại của chính phủ mới với Đoàn đại biểu công nhân Thành Hoàng Diệu ngày 09 tháng 10 năm 1945 tại Bắc Bộ phủ, do ông Trần Danh Tuyên dẫn đầu.

Lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta và trí tuệ, tư duy sắc bén của Hồ Chí Minh đã nhắn nhủ Người phải kiên trì thực hiện quan điểm “thêm bạn, bớt thù” trong mọi suy nghĩ và hành động. Bài học ấy một lần nữa được phát huy, góp phần cô lập kẻ thù, đồng thời tận dụng sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ trên thế giới trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Thấu triệt lời Bác dạy, vận dụng, phát triển quan điểm, tư tưởng của Người về bạn, thù, Đảng, Nhà nước ta đã khởi sướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đồng bộ đất nước đạt được những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hơn ba mươi năm đổi mới trên đất nước ta đã có vô số cái mới không ngừng nảy nở, vun trồng, phát triển trực tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: mới trong tư duy lý luận; mới trong chủ trương, đường lối của Đảng; mới trong lao động sản xuất; mới trong sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của quần chúng nhân dân;… Những cái mới được hòa quyện giữa truyền thống văn hóa dân tộc với giá trị thời đại để trở thành căn cứ chủ yếu của chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm về “đối tác, đối tượng” là một trong những cái mới làm nên bước đột phá mở đầu cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi, góp phần khẳng định trí tuệ, bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam – một đảng cộng sản chân chính, xứng đáng là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Học tập và làm theo lời Bác dạy, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn xác định rõ kẻ thù, đánh giá đúng ưu điểm, thế mạnh của địch để kìm chế, phát hiện khuyết điểm, sơ hở của địch để khoét sâu, đánh hiểm; phát huy sức mạnh của ta, kết hợp giữa đánh với đàm, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, hạn chế thấp nhất thương vong cho bộ đội và nhân dân. Tăng cường đối ngoại quân sự song phương và đa phương; đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, kết nghĩa đúng với tinh thần “thêm bạn, bớt thù” để góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hoà bình vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.