Thứ Năm, 22 tháng 10, 2020

THỰC HIỆN NỘI DUNG SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

 

Với sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp công nhân - chủ thể và là sản phẩm xã hội của nền “đại công nghiệp”, đã trở thành luận chứng thực tiễn cho phát hiện lý luận vĩ đại của C. Mác về “sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân”. Và, cũng như vậy, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tiếp nối lô-gíc đã từng được lịch sử minh chứng.

 Công nhân ngành dệt may đứng trước yêu cầu nâng cao tay nghề đáp ứng yêu cầu sản xuất trong nền Cách mạng công nghiệp 4.0

Công nhân ngành dệt may đứng trước yêu cầu nâng cao tay nghề đáp ứng yêu cầu sản xuất trong nền Cách mạng công nghiệp 4.0. Nguồn: enternews.vn

Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân do C. Mác (1818 - 1883) phát hiện và luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay đã trải qua ba lần tiến hóa. Những nội hàm cơ bản của lý luận này đã thể hiện và tiếp tục được bổ sung từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng công nghiệp 4.0, về đại thể, sẽ vẫn tiếp tục lô-gíc của C. Mác, tiếp nối nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gần đây mới được nhận thức rõ dấu hiệu và những đặc điểm của nó. Giáo sư K. Sô-áp (K. Schwab), Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), là người đưa ra thuật ngữ này. Cách mạng công nghiệp 4.0, theo ông, là một thuật ngữ phản ánh những đổi mới các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu, năng lượng, vật liệu và chế tạo trong sản xuất và dịch vụ. Đó là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, in-tơ-nét của vạn vật và in-tơ-nét của các dịch vụ. Nó “là sự thay đổi cơ bản trong cách thức chúng ta tạo ra, tiêu thụ sản phẩm và liên đới lẫn nhau, được dẫn dắt bởi sự hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và con người chúng ta”(1).

Cách mạng công nghiệp 4.0 có đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày càng nhanh chứ không đều đặn”, với quy mô là “thúc đẩy những chuyển đổi mô hình chưa từng có trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã hội và cá nhân”, có những tác động “dẫn đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa các (và trong mỗi) quốc gia, doanh nghiệp ngành công nghiệp và toàn xã hội”(2). Theo đó, chúng ta có thể phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân từ lô-gíc chung của các cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra và từ những nhận thức ban đầu về Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, cũng như những dự báo.

Thực hiện nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

C. Mác khẳng định, giai cấp công nhân là chủ thể của phương thức sản xuất công nghiệp với các đặc tính: công cụ lao động là máy móc, năng suất lao động cao, lao động có tính chất xã hội hóa cao và gợi mở nhiều giải pháp tích cực cho quá trình phát triển xã hội. Chính từ quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp, giai cấp công nhân được xác định là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại và thông qua đó, chuẩn bị những tiền đề vật chất cho xã hội tương lai(3). Về lô-gíc, có hai nội dung lý luận cơ bản cần được chú ý ở phương diện này:

Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội hiện đại bằng phương thức công nghiệp mang tính xã hội hóa cao. Xã hội nào cũng tồn tại và phát triển thông qua quá trình sản xuất và tiêu thụ của cải vật chất. Với tư cách là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp và tham gia quá trình sản xuất, tái sản xuất của cải vật chất, giai cấp công nhân góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Thêm vào đó, tính chất xã hội hóa ngày càng tăng của sản xuất cũng làm nảy sinh những nhân tố mang tính chất xã hội trong quá trình phát triển. Theo C. Mác, đây chính là yếu tố duy vật cho chủ nghĩa xã hội hiện đại, cái tính chất mà trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chưa xuất hiện trên thực tế. Công nghiệp càng phát triển thì tính chất xã hội hóa này ngày càng cao. Nội dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành công nội dung kinh tế này cũng là điều kiện vật chất để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, cũng từ quá trình sản xuất công nghiệp này, những nhân tố vật chất kỹ thuật cho sự hình thành một xã hội mới được tích lũy ngày một nhiều hơn. Cũng vì vậy, C. Mác coi cách mạng công nghiệp cùng những yếu tố cấu thành của nó, như máy móc, cách thức tổ chức quản lý sản xuất, trình độ cao của lao động và hợp tác lao động công nghiệp... là “những nhà cách mạng” khiến xã hội hiện tại không thể duy trì trạng thái cũ.

Hai lô-gíc căn bản đó đang tiếp diễn với mức độ sâu sắc và rộng lớn hơn trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Những nghiên cứu về cuộc cách mạng này đang xác nhận điều đó. Về đại thể, như dự báo của Giáo sư K. Sô-áp: “Những sáng tạo lớn về công nghệ sắp thổi bùng những thay đổi lớn lao trên khắp thế giới - như một tất yếu khách quan”(4). Tốc độ của những sáng kiến lan tỏa nhanh, năng suất lao động tăng mạnh. Chẳng hạn cách đây hơn 1 thập niên, dự án đầu tiên về giải mã bộ gen người mất 13 năm để hoàn thành với chi phí là 2,7 tỷ USD. Còn hiện nay, một bộ gen người có thể được giải trình tự trong vài giờ với chi phí vài nghìn USD. Các máy giải trình tự gen “để bàn” giá thành tương đối thấp có thể được sử dụng trong chẩn đoán thường ngày, có khả năng cải thiện đáng kể việc điều trị từ việc ứng dụng công nghệ ADN để đưa ra các phương pháp điều trị phù hợp cho bệnh nhân. Tiếp theo là sinh học tổng hợp cho khả năng tùy chỉnh chính xác các sinh vật bằng việc chỉnh sửa ADN được thiết kế có chủ đích(5).

Nhìn chung, “sự hài hòa và tích hợp ngày càng tăng của nhiều ngành và nhiều phát kiến khác nhau”(6) vừa tạo ra những đột phá mới trong sản xuất và dịch vụ, vừa tạo ra những cơ sở mới cho tăng năng suất lao động xã hội. Cần chú ý tới những biểu hiện mới của tính chất xã hội hóa, bộc lộ từ cuộc Cách mạng công nghiệp 3.0 và nay đang tiếp diễn.

Cơ hội học tập đang mở rộng hơn với mọi người. Hiện nay, người ta nói nhiều đến vấn đề giảm dần nhu cầu về lao động giản đơn, tăng lao động trình độ cao nhưng chưa chú ý đến khả năng tiếp cận giáo dục - dạy nghề cũng tăng lên và dễ dàng hơn với đa số. Người lao động hiện đại dễ dàng hơn trong việc học tập để nâng cao tay nghề và mở rộng khả năng chuyển đổi nghề nghiệp trước những thách thức về việc làm do Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra.

Kiến thức, kỹ năng lao động hiện đại đang có xu hướng xã hội hóa. Máy tính, điện thoại thông minh, các kho dữ liệu khổng lồ có thể dễ dàng tiếp cận với chi phí thấp, các trường đại học, cao đẳng với nhiều chương trình đào tạo từ xa… là những điều kiện thuận lợi để người lao động bình thường có thể học tập và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn thông qua cơ sở của truyền thông số. “Dễ tiếp cận, chi phí thấp, trung tính về địa lý của truyền thông là những nhân tố cho phép tương tác rộng rãi hơn, vượt qua các ranh giới xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, tôn giáo và ý thức hệ”(7).

Nhu cầu của thị trường sức lao động hiện đại vừa đặt ra yêu cầu cao về chất lượng của nguồn nhân lực, vừa nâng cao vị thế của người lao động. Khi đã có một trình độ tương đương với nhu cầu của thị trường, vị thế của người công nhân cũng khác trước khi thương lượng với người sử dụng lao động về giá cả của hàng hóa sức lao động. Trong điều kiện mới, khả năng tự bảo vệ của người lao động đã được tăng lên.

Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế xã hội hóa lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học và công nghệ có vai trò lớn trong sản xuất đang tạo ra một thay đổi quan trọng: tư bản khả biến (v) tăng nhanh, tư bản bất biến (c) giảm tương đối trong tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trò to lớn của tri thức, tay nghề, văn hóa, kinh nghiệm của người công nhân trong sản xuất công nghiệp đang từng bước phá vỡ cơ chế chiếm hữu của giai cấp tư sản, vốn bắt nguồn từ độc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, độc quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư.

Máy móc, công nghệ sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trò là “những nhà cách mạng” thầm lặng. Chính xu hướng “tích hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và con người” quy định và thúc đẩy xã hội phải phát triển khác đi. Nó buộc con người trong quá trình sản xuất hiện đại không chỉ chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả kinh tế mà còn phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của phát triển bền vững.

Xã hội hóa là xu thế khách quan đang được Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy khá mạnh mẽ. Nó thể hiện ở xu hướng tiếp hợp, liên ngành, liên kết chuỗi trong sản xuất hiện đại. Xã hội hóa còn thể hiện ở sự gắn kết các khâu sản xuất - dịch vụ - tiêu dùng. Trước đây, trong Cách mạng công nghiệp 3.0 vốn đã có bước tiến dài với lý thuyết ma-két-tinh, còn ngày nay đang tiếp diễn với việc kết hợp đa chiều: kỹ thuật số, vật chất và sinh học trong sản xuất và dịch vụ.

Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Theo quan niệm của C. Mác, sở dĩ giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là vì họ là giai cấp đại diện cho xu thế xã hội hóa của lực lượng sản xuất hiện đại. Trong sản xuất công nghiệp, họ vừa là “sản phẩm của nền đại công nghiệp”, vừa là chủ thể của quá trình này. Do gắn liền với phương thức lao động này, giai cấp công nhân có được những phẩm chất, như tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tâm lý lao động công nghiệp... Đó là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.

C. Mác là người đầu tiên chỉ ra quan hệ lợi ích phức tạp giữa công nhân và tư bản. Hai bên vừa đối lập nhau về lợi ích cơ bản, vừa phụ thuộc nhau về lợi ích hằng ngày trong thị trường sức lao động. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc cơ bản của giá trị thặng dư và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột được ngày càng nhiều giá trị thặng dư. “Trong xã hội ấy, những người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động”(8). Đây là mâu thuẫn cơ bản về lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản và là cốt lõi của bất công và đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại. Mâu thuẫn ấy không thể điều hòa và chỉ có thể được giải quyết bằng việc xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị thặng dư trên cơ sở xác lập một quan hệ sản xuất mang tính chất công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chính lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa đã chỉ ra biện pháp giải quyết ấy.

Theo đó, nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như công bằng, bình đẳng, dân chủ… và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính trị - xã hội mới do giai cấp công nhân lãnh đạo - chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề chính trị cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo cơ hội và làm nổi bật các nội dung sau: Dân chủ hóa - công nghệ số góp phần mở rộng truyền thông, tạo điều kiện để thông tin đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những nước phát triển, thông qua thành tựu khoa học - công nghệ, người dân có điều kiện tốt hơn để giám sát và chia sẻ quyền lực với nhà nước đương trị. Công nghệ và thiết bị ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn với chính phủ để nêu ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức mạnh về công nghệ để tăng cường sự quản trị của mình đối với người dân dựa trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết cấu hạ tầng số. “Tuy nhiên, xét về tổng thể, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải thay đổi cách thức tiếp cận hiện nay của họ đối với sự tham gia của công chúng và quy trình đưa ra quyết định khi vai trò trung tâm của họ trong việc thực thi chính sách bị suy giảm trước sự xuất hiện của các nguồn cạnh tranh mới, sự phân phối lại và phân bổ quyền lực dưới sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ”(9).

Cùng với những cơ hội để phát triển dân chủ, công bằng, bình đẳng, cuộc cạnh tranh - đấu tranh giữa “hai con đường”, giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa dường như cũng sắp bước vào một bước ngoặt lịch sử mới. Hãy thử sắp xếp các dữ kiện chính trị, xã hội lớn gắn với các chu kỳ cách mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và Công xã Pa-ri - năm 1871; Cách mạng công nghiệp lần thứ hai với Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917; Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với sự kiện Đông Âu - Liên xô và cải cách, đổi mới… Lô-gíc đó cho phép chúng ta dự báo và kỳ vọng vào những thay đổi của đời sống chính trị, xã hội theo hướng tích cực. Không ai khác, chính giai cấp công nhân với trình độ được tri thức hóa, với tổ chức khoa học và tinh thần cách mạng sẽ vẫn là chủ thể hàng đầu của những cuộc cách mạng trong tương lai.

Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều rất quan tâm và quyết tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện nội dung văn hóa - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Trên bình diện thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác cùng phát triển trong môi trường dân chủ, công bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu thế ấy tạo điều kiện thuận lợi cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và cả sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Xét cho cùng, mọi tiến bộ xã hội trong lịch sử và gần gũi hơn là những thành quả nhiều mặt của các cuộc cách mạng công nghiệp gần đây cũng chỉ xoay quanh một vấn đề lớn của nhân loại, đó là làm thế nào để kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Hệ giá trị của giai cấp công nhân(10) với những giá trị cơ bản phù hợp với những tiêu chí cơ bản xã hội hiện đại, như lao động, công bằng, bình đẳng, dân chủ và sự phát triển tự do toàn diện cho mỗi người… đang được Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện và cổ vũ hiện thực hóa.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác và những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới đã đưa ra một tiếp cận văn hóa và nhìn nhận rằng: “Chủ nghĩa xã hội là văn minh hóa văn hóa, chứ không chỉ giản đơn là sự vận động của vật chất và phúc lợi vật chất của mọi người… Chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân văn, không chỉ trên nguyên tắc loại trừ mọi hình thức bóc lột, áp bức, bần cùng hóa, bạo lực, mà căn bản là các quan hệ xã hội toàn diện và lối sống hàng ngày xứng đáng với tính người… Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm tính phụ thuộc biện chứng và sâu sắc của sự phát triển tự do từng cá nhân với sự phát triển tự do của mọi người trong xã hội”(11). Quan niệm về chủ nghĩa xã hội đầy tính nhân văn ấy sẽ làm mới, cập nhật và có điều kiện rộng rãi hơn trong quá trình hiện thực hóa.

Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh, có những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển. Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất - giai cấp công nhân, “đang xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp/giai cấp sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, thiết kế, nghệ thuật, văn hóa, giải trí, truyền thông, giáo dục - đào tạo, y tế, pháp luật. Cùng với sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, lao động sáng tạo ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, đặt ra vấn đề nhìn nhận lại vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội hiện đại…”(12). Hệ giá trị của giai cấp công nhân theo đó có thể được bổ sung những giá trị tuy khá đặc thù nhưng gần gũi của các tầng lớp khác như trí thức - nhóm xã hội coi sáng tạo, dân chủ như điều kiện môi trường để lao động và phát triển.

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều vấn đề mới, từ quá trình vận động tự thân và việc bị các thế lực lợi dụng vào những mưu đồ phản tiến bộ, phản văn hóa. Tuy nhiên, tiến bộ xã hội có đủ sức mạnh để lựa chọn biện pháp tối ưu để giải quyết. Như GS. K. Sô-áp khẳng định: “Tôi vững tin rằng kỷ nguyên công nghệ mới, nếu được định hình một cách tích cực và có trách nhiệm, sẽ có thể là một chất xúc tác cho một cuộc phục hưng văn hóa mới”(13). Cũng có thể nói như vậy với sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân và chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI./.

Theo: tapchicongsan.org.vn
-------------------

(1) Klaus Schwab: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Diễn đàn Kinh tế thế giới, 2016
(2) Klaus Schwab: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bản tiếng Việt do Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật hợp tác với Bộ Ngoại giao và Diễn đàn Kinh tế thế giới đồng xuất bản, Hà Nội, 2018, tr. 14 - 15
(3) Xem: Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa xã hội khoa học”, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2018, t. 3, tr. 34 - 59
(4) Klaus Schwab: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Sđd, tr. 24
(5) Báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Hà Nội, 2017
(6) Klaus Schwab: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Sđd, tr. 26
(7) Klaus Schwab: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Sđd, tr.162
(8) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 619
(9) Báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Hà Nội, 2017
(10) Xem: Nguyễn An Ninh: Để hệ giá trị của giai cấp công nhân Việt Nam trở thành hệ giá trị của toàn xã hội, Tạp chí Triết học, tháng 5-2008
(11) Nguyễn Trọng Chuẩn và Iu. K. Pletnicốp (Chủ biên): Vận mệnh lịch sử của chủ nghĩa xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 56 - 58
(12) Báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tlđd
(13) Klaus Schwab: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Sđd

HỌC TẬP TẤM GƯƠNG LÀM VIỆC TRÁCH NHIỆM, KHOA HỌC, ĐỔI MỚI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 Đã 50 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nhưng tấm gương, di sản mà Người để lại cho hậu thế vẫn trường tồn với thời gian. Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu…, thì việc học tập và làm theo Bác nói chung, học tập và làm theo tấm gương làm việc trách nhiệm, khoa học, đổi mới của Bác nói riêng lại càng đặt ra bức thiết.

Học tập tinh thần và trách nhiệm phục vụ nhân dân của Bác Hồ cần xuất phát từ sự tự giác của chính bản thân mỗi người_Nguồn:  dantri.com.vn

Tấm gương làm việc trách nhiệm

Trong công việc, mỗi người đều giữ một vị trí, vai trò nhất định ở cơ quan, đơn vị, tổ chức mà mình tham gia và là thành viên; do vậy, phải có trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức đó. Trách nhiệm chính là phần việc được giao, là điều phải làm, phải gánh vác hoặc nhận lấy về mình theo cương vị, chức trách. Nó được hình thành trên cơ sở những quy định của luật pháp, quy định, quy chế, thỏa thuận, điều lệ của tổ chức, đơn vị mà mình là thành viên.

Bên cạnh trách nhiệm với cơ quan, tổ chức, mỗi người đều là công dân của một quốc gia, dân tộc; do vậy, phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp, xây dựng, phát triển quê hương, đất nước. Đối với người cán bộ, đảng viên, yêu cầu, đòi hỏi về tinh thần trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ còn cao hơn nhiều. Cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ với tư cách là công dân, người cán bộ, đảng viên còn phải tiên phong, gương mẫu đi đầu về tinh thần, thái độ, trách nhiệm với công việc, trong rèn luyện và thực hành đạo đức, lối sống, nêu gương, cũng như tuân thủ nghiêm Điều lệ Đảng, quy định về những điều đảng viên không được làm,…

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta - là một mẫu mực về tinh thần làm việc trách nhiệm, hết lòng, hết sức cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người định nghĩa về tinh thần trách nhiệm bằng những từ ngữ rất giản dị, dễ hiểu: “Tinh thần trách nhiệm là: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ(1), là “khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, v.v., là không có tinh thần trách nhiệm”(2). Người yêu cầu, nhắc nhở, bất kỳ ai, dù ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm; “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”(3).

Nhận thức sâu sắc trách nhiệm, bổn phận của mình trước dân tộc, nhân dân và trước Đảng, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng sôi nổi, đầy cam go, thử thách, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người đã tự mình đi khắp năm châu, bốn biển khảo sát, nghiên cứu, lao động, học tập để tìm đường cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Mục đích của Người là tranh đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và vì hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Và cũng chính bởi mục đích, ham muốn tột bậc này, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ, có lúc bị hiểu lầm hoặc phải “ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo”.

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, từ thực tiễn đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, dự báo được chiều hướng phát triển của tình hình, Người rất chú ý đến việc giáo dục ý thức, tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong nhiều bài viết gửi các cấp chính quyền, Người yêu cầu xây dựng các cơ quan từ Chính phủ cho đến các làng, xã phải là “công bộc” của dân, Chính phủ phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân thì phải hết sức tránh; phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết, phải chú ý giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân; đồng thời, nghiêm khắc phê phán, lên án những căn bệnh, như cậy thế, tư túng, óc bè phái, kiêu ngạo,… đang ngự trị trong đầu óc của không ít cán bộ, đảng viên lúc bấy giờ.

Khát vọng cháy bỏng về một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc, trở thành động lực để Chủ tịch Hồ Chí Minh dấn thân, hành động, làm việc một cách tự giác, tự nhiên, không vì danh lợi, thành tích hay sự ca ngợi nào. Được cống hiến, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân đối với Người là nguồn vui, niềm hạnh phúc vô bờ bến. Tinh thần trách nhiệm đó xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc, tâm trong sáng, tình thương yêu con người vô hạn. Trong Di chúc, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(4).

Trong công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng lên trên hết, gương mẫu trong mọi việc. Phương châm xử lý, giải quyết công việc của Người là “chí công vô tư”, “dĩ công vi thượng”, không để cảm xúc, tình cảm cá nhân xen vào công việc. Muốn thực hiện được được điều này, theo Người, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của mọi thói hư tật xấu, làm cho con người không giữ được mình, không vì lợi ích chung để giải quyết công việc, kém tinh thần trách nhiệm, chỉ nghĩ đến lợi ích của cá nhân, của gia đình, phe nhóm mình. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của đạo đức cách mạng. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải chiến đấu và chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi con người là chủ nghĩa cá nhân.

Tấm gương, tinh thần làm việc trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Đó là nói gắn liền với làm, không nói nhiều làm ít, nói mà không làm, làm không như nói. Đây là một đặc điểm nổi bật trong phẩm chất con người Hồ Chí Minh. Quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên nhìn thấy ở Người phẩm chất, phong cách của một lãnh tụ hành động, một tấm gương có sức cảm hóa, thuyết phục đối với tất cả mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm đúng như những gì Người nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và chính Người đã trở thành một tấm gương sống mẫu mực, sáng ngời về đạo đức, nhân cách, tài năng, kết tinh những giá trị, phẩm chất tốt đẹp nhất, tiêu biểu cho phẩm giá, lương tâm, trí tuệ của con người Việt Nam.

Tấm gương làm việc khoa học, đổi mới

Cùng với việc nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân và đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn làm việc hết sức khoa học, luôn tìm tòi, đổi mới để đạt hiệu quả và chất lượng cao nhất. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:

Làm việc gì cũng luôn đi sâu đi sát, nghiên cứu, điều tra, khảo sát kỹ lưỡng

Trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định, giải pháp nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn chắc chắn, có độ tin cậy cao. Người không quyết định theo cảm tính, chủ quan, mà nghe nhiều bên, có phân tích, xem xét, đánh giá một cách khách quan rồi mới đưa ra quyết định cuối cùng. Người nói: “So đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách làm việc có khoa học(5). Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi “gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”(6). Cách làm khoa học này là cơ sở cho việc lãnh đạo đúng, trúng, sát hợp thực tế, tình hình.

Trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, bên cạnh việc tham vấn bộ máy, đội ngũ trợ lý, giúp việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trực tiếp đi nghiên cứu, khảo sát, tiếp xúc với cơ sở, địa phương để tìm hiểu thực tế, nắm bắt tình hình, thu thập thông tin cụ thể. Người chỉ rõ, muốn lãnh đạo đúng, trước hết phải quyết định mọi vấn đề cho đúng. Muốn quyết định cho đúng, trước tiên phải điều tra, nghiên cứu rõ ràng. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên khi xử lý và giải quyết công việc cần phải tôn trọng hiện thực khách quan, không “tô hồng”, bóp méo sự thật, phải có tầm nhìn xa rộng, tránh rơi vào những việc sự vụ, thiển cận. Theo Người, khi ra quyết định công tác, xác định cách tổ chức, cách làm việc thì phải luôn căn cứ vào tình hình thực tế, xem xét mọi mặt. Người phê phán gay gắt những cán bộ mắc bệnh quan liêu, hình thức, ngồi bàn giấy chỉ nghe người ta báo cáo rồi ra quyết định, mà không nắm rõ tình hình thực tế,…

Làm việc có chương trình, kế hoạch

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc theo chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, chi tiết hằng năm, quý, tháng, tuần, từ dài hạn, trung hạn, đến ngắn hạn. Theo Người, chương trình, kế hoạch làm việc cần khoa học, cụ thể, chi tiết, không nên tham lam, thiết thực, vừa sức, “chớ làm kế hoạch đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện được”(7).

Người yêu cầu, cần đặt kế hoạch cho sát hợp. Kế hoạch đặt ra để mình và mọi người thực hiện chứ không phải để chiêm ngưỡng, tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ ra khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, nhất là của người lãnh đạo là: “Chương trình công tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực. Đặt ra kế hoạch và chương trình không xét rõ năng lực của những người thi hành kế hoạch và chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà việc gì làm cũng không triệt để”(8). Cùng với đó, cán bộ, đảng viên thường mắc phải khuyết điểm là đầu tư nhiều công sức vào việc vạch ra chương trình, kế hoạch, nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho được kế hoạch, chương trình đã đề ra. Hơn nữa, chương trình, kế hoạch này thực hiện chưa xong, chưa biết kết quả thực hiện ra sao đã nghĩ đến chương trình, kế hoạch khác; hoặc xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc, nhưng cách sắp đặt công việc không khéo, ôm đồm làm nhiều việc cùng một lúc, hoặc làm không đúng, lại thiếu những biện pháp thích hợp, thiếu quyết tâm, nên chương trình, kế hoạch đặt ra đều không thực hiện được. Do vậy, Người nhắc nhở: “Kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần, và quyết tâm phải ba phần, có như thế mới có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch”(9).

Làm việc gắn với kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm

Thực hiện quan điểm của V.I.Lê-nin: Lãnh đạo không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Mục đích của kiểm tra là để xem các cấp thực hiện có đúng đường lối, chính sách không, để nắm được chất lượng, tiến độ công việc, tuân thủ quy trình, các bước tiến hành triển khai công việc,… Người chỉ ra một thực trạng: “Hiện nay, nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”(10).

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến việc tổng kết, rút kinh nghiệm. Theo Người, mỗi khi làm xong một việc gì, dù thành công hay thất bại, đều cần tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm những việc làm được, hoặc còn chưa làm được, phát hiện những khó khăn, vướng mắc làm cơ sở cho việc bổ sung, phát triển lý luận, đề ra chủ trương, biện pháp một cách sát hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn. Trong thực tế quá trình lãnh đạo, Người thường xuyên kiểm tra, kiểm soát từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên để có cái nhìn đúng đắn, khách quan về hoạt động của cán bộ, đảng viên, cũng như của các cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.

Làm việc phải cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng điểm và nắm điển hình

Người yêu cầu người cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ; phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể, phải cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời, làm đến nơi đến chốn. Hồ Chí Minh phê phán căn bệnh “hữu danh vô thực” ở không ít cán bộ, đảng viên: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít, suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch… Thế là không làm tròn nhiệm vụ của mình. Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm”(11).

Luôn đổi mới, sáng tạo trong công việc

Người luôn suy nghĩ, tìm tòi, đổi mới trong công việc, không cứng nhắc, bảo thủ, đóng khung, cố chấp, mà rất linh hoạt, mềm dẻo khi xử lý, giải quyết từng vấn đề, sự việc cụ thể. Một ví dụ để minh chứng cho nhận định trên: Khi dự thảo công văn cho Bác, anh em giúp việc thường dựa vào các văn bản cũ đã được Người duyệt để làm theo. Không ngờ, có lần Người lại sửa khác đi. Anh em giúp việc có ý thanh minh: Thưa Bác, cháu thấy trong văn bản trước Bác đã thông qua một câu như vậy rồi ạ. Người nói, lần trước Bác chưa nghĩ ra, lần này Bác thấy phải sửa tiếp cho tốt hơn(12). Có thể thấy, phong cách làm việc của Người là luôn đổi mới, sáng tạo, không cứng nhắc, không chấp nhận tư duy lối mòn, kinh nghiệm chủ quan, mà hướng tới sự mới mẻ, hiệu quả để ngày càng đạt kết quả tốt hơn.

Học tập tấm gương làm việc trách nhiệm, khoa học, đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm với công việc. Học và làm theo Bác không phải là bằng những điều cao siêu, to lớn, mà cần bắt đầu từ những lời nói, việc làm, bằng thái độ, cách ứng xử trong xử lý và giải quyết công việc hằng ngày. Đó là sự tự ý thức về trách nhiệm của mình trong công việc chung, là việc cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ ở cương vị công tác. Mỗi người cần thấm nhuần, khắc sâu lời Bác dạy: Cán bộ, đảng viên “là người đày tớ trung thành và tận tụy của nhân dân”; “phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý”; “làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng”.

Học tập ý thức, tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của Bác cần xuất phát từ tinh thần tự giác, sự thôi thúc của con tim, từ danh dự và lương tâm của chính bản thân mỗi người. Làm việc với một niềm hăng say, phấn khởi, tin tưởng, hạnh phúc, với mong muốn được cống hiến, đóng góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển của cơ quan, đơn vị, tổ chức mà mình là thành viên, rộng hơn là của xã hội, đất nước, chứ không phải vì danh lợi, chạy theo thành tích. Cần nhận thức rõ rằng, trở thành một cán bộ, công chức, một đảng viên là niềm vinh dự, tự hào, nhưng cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ to lớn. Vinh dự, trách nhiệm đó đòi hỏi mỗi người cần cố gắng, phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được tổ chức phân công, giao phó. 

Học tập tinh thần trách nhiệm của Bác còn là việc phải luôn đau đáu, trăn trở với những tâm tư, suy nghĩ, mong mỏi của người dân và xã hội, muốn đóng góp sức lực nhỏ bé của mình vào việc xây dựng một xã hội tiến bộ, tốt đẹp hơn; nói đi đôi với làm, lý luận liên hệ với thực tiễn; biết thông cảm, thấu cảm, biết đau trước những khó khăn, mất mát của người dân; biết vui mừng, sẻ chia trước hạnh phúc, niềm vui của nhân dân. Thấu hiểu và cảm thông với nhân dân, xuất phát từ lợi ích của nhân dân sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên luôn tìm tòi, suy nghĩ để giải quyết công việc vừa ích nước, vừa lợi dân.

Hai là, trong xử lý và giải quyết công việc cần khắc ghi sâu sắc nguyên tắc lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng là tối thượng, bất khả xâm phạm, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Người cán bộ, đảng viên trước bất cứ công việc gì, dù ở cương vị, hoàn cảnh nào cũng phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng lên trước. Lợi ích của cá nhân, của bộ phận, của giai cấp phải phục tùng và không được làm tổn hại đến lợi ích dân tộc; đồng thời, linh hoạt, mềm dẻo, “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong thực hiện nguyên tắc này. Vì vậy, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo yêu cầu, đòi hỏi, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam; đoàn kết, tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc làm nên thắng lợi vĩ đại trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Để luôn đứng vững trên lập trường dân tộc, lấy quyền lợi của Tổ quốc và nhân dân làm tối thượng, cần chống chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tư tưởng cục bộ, óc bè phái, kéo bè kéo cánh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ ra. Chủ nghĩa cá nhân “là một thứ vi trùng rất độc, một thứ rất gian giảo, xảo quyệt”. Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại khó khăn, gian khổ, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, xa rời quần chúng, mất đoàn kết, kém tinh thần trách nhiệm,… Nó là nguyên nhân của mọi thói hư tật xấu, của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Do vậy, phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân” - kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta.

Ba là, học tập và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ. Trong một xã hội vận động và biến đổi nhanh chóng, đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới đã và đang đặt ra yêu cầu, đòi hỏi rất cao về năng lực, chuyên môn, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh chính trị đối với mỗi người cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Do vậy, để tránh tụt hậu, đáp ứng được yêu cầu của công việc, tiến tới có đủ năng lực làm việc được trong môi trường quốc tế, không có cách nào khác, mỗi người cần có tinh thần cầu thị, không ngừng cố gắng, nỗ lực học tập, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân, ngày càng tiến bộ.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi việc tự học tập, rèn luyện là nhiệm vụ tự thân, là chế độ, quy định bắt buộc. Học tập là con đường duy nhất để tiến bộ và phát triển. Học tập phải được coi là nghĩa vụ, là khát vọng, niềm say mê, nguồn vui để làm việc và làm người cán bộ, đảng viên tốt. Không học tập và rèn luyện sẽ bị tụt hậu, đào thải, không đáp ứng được yêu cầu về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn. Do vậy, cần xác định học tập là công việc suốt đời, “còn sống là còn phải học”. Có nhiều cách học: học ở trường lớp, học đồng nghiệp, học trong sách vở, tự học. Nói tóm lại, phải thấm nhuần lời dạy của V.I.Lê-nin được Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Học, học nữa, học mãi”!./.

Theo: tapchicongsan.org.vn

------------------------------

(1), (2)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr. 249, 248

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.6, tr. 131

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.15, tr. 623

(5), (6), (7), (8), (10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 5, tr. 337, 279, 81, 636 - 637, 297

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 25

(12) Ban Tuyên giáo Trung ương: Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 105

 

CẨN TRỌNG TRƯỚC LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

          Trên internet, các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn, bồi bút hiện đang thực hiện hàng loạt bài viết, tạo sóng dư luận nhằm chống phá ý nghĩa chính trị Đại hội XIII của Đảng. Chúng tập trung xuyên tạc về những vẫn đề có thể thu hút sự quan tâm của dư luận, tiêu biểu là vấn đề nhân sự Đại hội. Thực tế, đâu đó trong quần chúng nhân dân đã tiếp nhận một cách đơn giản rồi bàn tán xôn xao ở chỗ này, chỗ khác rất phản cảm, gây ra dư luận không tốt trong xã hội.

          Để Đại hội Đảng lần thứ XIII thực sự có ý nghĩa chính trị sâu rộng trong xã hội, thực sự đi vào cuộc sống, chúng ta phải cảnh giác trước các luận điệu sai trái, tập trung vào một số nội dung sau:

           “Dự báo” nhân sự Đại hội XIII: Với các luận điệu “Ai sẽ vào “tứ trụ” Đại hội XIII”, “nhân sự Đại hội XIII: Gươm đã tuốt khỏi vỏ”… Đây là điều vô lý, Đại hội còn chưa diễn ra, song những “con buôn” chính trị lại tỏ ra thông thái khoác lác như thật, khẳng định người này triệt hạ người kia để giữ vị trí này vị trí khác, sắp xếp bộ máy lãnh đạo của Đảng từ cao xuống thấp; từ đó suy diễn, đánh giá theo chiều hướng tiêu cực. Mánh lới thường thấy của chúng là “giật tít-câu khách” đánh trúng vào sự tò mò của nhiều người, từ đó đưa ra phân tích nhận định công tác cán bộ, nhân sự có sự “an bài”, “sắp xếp”, “thỏa hiệp”, cuối cùng là rêu rao, xuyên tạc chế độ mất dân chủ, độc đảng, chuyên quyền, toàn trị.

          Xuyên tạc đời tư, nói xấu, vu cáo cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng: Thủ đoạn là phát tán các thông tin, hình ảnh, clip giả tạo, sai lệch, biến không thành có, thật giả lẫn lộn, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận xã hội. Từ đó, hòng tác động đến nhận thức, tâm lý, tư tưởng, tình cảm của nhân dân, cán bộ, đảng viên.

          Nhận định xuyên tạc, đánh đồng công tác phòng chống tham nhũng là “thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực” trước Đại hội XIII: Thủ đoạn là lợi dụng vào một số vụ việc cụ thể như một số cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân bị Bộ Chính trị, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luật, xử lý vừa qua…chúng cho rằng đó là sự “đấu đá quyền lực” “tranh giành lợi ích”, “tiêu diệt phe nhóm”,“thanh trừng nội bộ”… Từ đó, nhằm gây ra tình trạng nghi ngờ, hoang mang, lầm tưởng an ninh chính trị mất ổn định, nội bộ mất đoàn kết làm suy giảm niềm tin đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

          Thực tế cho thấy, đối với mỗi một đảng chính trị, đảng cầm quyền ở bất kỳ quốc gia hay thể chế chính trị nào, để xây dựng, bầu ra bộ máy lãnh đạo của đảng thì công tác tiến hành lựa chọn, bầu cử bộ máy lãnh đạo, người đứng đầu dưới hình thức nào (từ dân chủ trực tiếp hay gián tiếp) là việc bình thường. Ví dụ như ở Mỹ, đảng nào cũng phải họp, đề cử đại biểu của đảng mình tham gia bầu Tổng thống… Hay cũng ở hầu hết các nước những công chức trong hệ thống chính trị dù ở cương vị nào, nếu tham ô, tham nhũng thì đều bị điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật. Ví dụ như: ở Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Pháp... Chẳng nhẽ đây cũng là thành trừng nội bộ?

          Công tác nhân sự, cán bộ của Đảng được thực hiện trên một quy trình chặt chẽ, chuẩn bị công phu, cách làm cẩn trọng, dựa trên nguyên tắc xây dựng Đảng vốn là sức mạnh, tiến bộ, phát huy được nguyện vọng, ý chí tập thể là nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số. Từ đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là cơ quan cao nhất của Đảng sẽ dân chủ lựa chọn, sáng suốt bầu ra đội ngũ cán bộ là tinh hoa của Đảng, thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, sự sống còn của chế độ.

          Những luận điệu suy diễn, những thông tin giả mạo, thất thiệt là những chiêu trò xuyên tạc, “diễn biến hoà bình” công tác cán bộ của Đảng, đánh vào tâm lý tò mò của nhiều người, gây nhiễu loạn thông tin, dao động về tư tưởng chính trị, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy, người dân khi tiếp nhận thông tin cần phải thận trọng, mạnh dạn bác bỏ các thông tin sai sự thật, tránh lan truyền, gây tâm lý hoang mang trong xã hội./.

VN.

 

Đấu tranh với một số luận điệu xuyên tạc

quan hệ Việt Nam – Trung Quốc

                                                        

Trong thời gian vừa qua, lợi dụng những tồn tại, khuyết điểm trong thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội có yếu tố Trung Quốc, trên một số trang mạng phản động, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã tán phát nhiều bài, hình ảnh có nội dung phản động; xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam -  Trung Quốc. Tập trung vào những dự án kinh tế - xã hội mà Chính phủ Việt Nam ký kết hiệp định với Chính phủ Trung Quốc; trong đó, chúng tập trung xuyên tạc sự thật; tìm mọi lý do, chứng cứ để chứng minh Việt Nam bị Trung Quốc thao túng, chi phối, giật dây; chúng rêu rao rằng lãnh đạo Đảng, Chính phủ Việt Nam đã bị lãnh đạo Trung Quốc chèn ép, làm thiệt hại lớn cho nền kinh tế Việt Nam, mục tiêu chủ yếu là làm mất uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, mà lờ đi vai trò của những người trực tiếp chỉ đạo, điều hành các dự án đó, nằm ở trong Ban quản lí các dự án. Lợi ích nhóm và tham nhũng trong Ban quản lí các dự án đã làm biến tướng các dự án, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp (yếu, kém về năng lực nhưng lành nghề trong mua chuộc các quan chức nước sở tại) của Trung Quốc thao túng quá trình thực hiện dự án, gây tổn hại vô cùng lớn cho nền kinh tế đất nước, niềm tin của nhân dân. Trong cuộc chơi của nền kinh tế thị trường thì không ai cho không ai một thứ gì, tất cả đều có điều kiện kèm theo, quan trọng là tận dụng các yếu tố có lợi như thế nào để “biến nguy thành cơ”. Hợp tác và cạnh tranh luôn song hành. Thương trường là chiến trường, cảnh giác không bao giờ thừa. Tận dụng nguồn vốn của Trung Quốc thì phải chấp nhận những điều kiện ràng buộc của họ. Nhưng những điều kiện như: Doanh nghiệp của Trung Quốc thực hiện dự án, nhân công và chuyên gia Trung Quốc,... là điều bình thường. Quan trọng là các Ban quản lí dự án đã không thực hiện đúng chức trách, hay nói cách khác là buông lỏng quản lí, thậm chí không loại trừ việc bắt tay với doanh nghiệp Trung Quốc để tìm kiếm lợi ích, đó là lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân, họ đã bán rẻ lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó mới chính là điều cần phải lên án, đấu tranh. Tất nhiên, cuộc đấu tranh với những vấn đề trên nằm trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng của đất nước, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn được; Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã nhận ra và đang nỗ lực trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” này. Thực chất của những luận điệu trên là vu khống, bôi nhọ lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, xuyên tạc chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, nhằm phá vỡ những quan hệ tốt đẹp mà Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước đã gắn bó xây dựng có bề dày lịch sử, làm mất an ninh trật tự, mất niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, thể chế chính trị, nhất là sự giúp đỡ sâu sắc của Trung Quốc với cách mạng Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân trước đây cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay. Bởi vậy, tình cảm hữu nghị giữa hai nước đã được xây dựng qua nhiều thế hệ, trở thành tài sản quý báu của hai dân tộc. Quan hệ hai nước trong lịch sử tuy có trải qua thăng trầm, quan hệ hiện nay cũng vẫn còn đó những bất đồng và mâu thuẫn trong một số vấn đề, lịch sử đã dạy cho chúng ta bài học cảnh giác, nhưng lịch sử cũng dạy chúng ta phải lấy hòa hiếu làm trọng. Quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp cơ bản là dòng chảy liên tiếp đã được chứng minh. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác hai bên cùng có lợi với Trung Quốc là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Hiện nay, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, nhất là phát triển kinh tế.

Thế nhưng những ngày gần đây, các tổ chức phản động và các thế lực chống đối sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta ở trong nước, cũng như ở ngoài nước đã dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ sự hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc với chiêu trò khác nhau, chúng lợi dụng những sự việc nào đó để xuyên tạc, thổi phồng sự thật, hoặc là giả danh yêu nước để kích động nhân dân biểu tình chống Trung Quốc... Những tư tưởng, quan điểm đó thực chất là chống lại đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam, chống phá những điều tốt đẹp trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, cổ súy cho chủ nghĩa cực đoan dân tộc, kích động bạo lực, chiến tranh hận thù dân tộc....vì thế, càng khó khăn thêm cho chúng ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; khó khăn trong hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, dẫn đến thiệt hại về kinh tế của chúng ta.

Thực chất các luận điệu trên của các tổ chức phản động và các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam là một trong những thủ đoạn trong chiến lược "diến biến hoà bình" hòng làm mất ổn định chính trị- xã hội dẫn đến suy yếu từ bên trong và làm mất sức mạnh tổng hợp từ quan hệ hợp tác với bên ngoài, làm cho nhân dân nghi ngờ Đảng, Nhà nước về chính sách ngoại giao, làm mất uy tín của Đảng dẫn đến phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta...Vì vậy, chúng ta kiên quyết trừng trị thích đáng với những kẻ chống đối đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và lên án, đấu tranh với những luận điệu sai trái, đồng thời phải tích cực chủ động trong giáo dục quần chúng nhân dân có ý thức, tinh thần cảnh giác cao, không bị chúng lôi kéo, mua chuộc hoặc vô tình tiếp tay cho các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam.  

 

 

Nhận xét

Bài đăng ph biến

 

Đừng lấy nỗi đau của người dân vùng lũ để thực hiện

 mưu đồ chính trị đen tối

                                         

Trong những ngày vừa qua, mưa lớn trên diện rộng đã gây ra lũ lụt lớn ở miền Trung. Đây là đợt lũ chồng lũ, là đợt lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, tập trung ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Nam Trung Bộ. Miền Trung ruột thịt đã phải hứng chịu những thiệt hại nặng nề cả về con người và vật chất do mưa lũ gây ra. Hàng ngàn ngôi nhà bị ngập nước, hư hỏng, sụp đổ, hàng chục hecta hoa màu bị hỏng..., bao gia đình bị đẩy vào cảnh tang thương, mất mát không có nhà ở, lương thực để ăn. Mới gần đây, sự việc thương tâm xẩy ra khi một thai phụ đang trên đường đi sinh nở thì bị dòng nước lũ cuốn trôi; vụ việc sạt nở ở Rào Trăng 3, sạt nở ở Hương Hóa - Quảng Trị làm nhiều cán bộ, chiến sĩ của Đảng, Quân đội và nhân dân hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Đây là sự mất mát to lớn đối với người miền Trung nói riêng và cả nước nói chung nhưng lại có những kẻ lợi dụng nỗi đau này để “nhận tiền” từ hải ngoại ra sức kêu gào, đổ lỗi, suy diễn vói mục đích chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Thế nhưng thay vì chia sẻ, giúp người dân vượt qua cơn khó khăn, thì đám rận chủ, phản động lại lợi dụng vào sự đau thương, mất mát đó để công kích, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Chắc hẳn chúng ta quá quen thuộc với Nguyễn Lân Thắng, Nguyễn Văn Đài, Đỗ Nam Trung...chúng thương xuyên đăng tải, chia sẻ các nội dung phản động cho các trang như "Nhật ký yêu nước”, "Đài châu á tự do… Đặc biệt gần đây trên trang facebook của cá nhân tên Đỗ Nam Trung chia sẻ bài viết của Báo Thanh Niên với nội dung "Lời kêu gọi giúp bà con miền Trung vượt qua giai đoạn ngặt ngèo do mưa lũ". Nhưng không phải vơi mục đích kêu gọi giúp đỡ nhân dân mà với những lời lẽ bịa đặt, vu khống. Chúng luôn rêu rao rằng Đảng, Nhà nước, Chính quyền không quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân, đế mặc người dân trong cơn hoạn noạn, "sống chết mặc bay."

Thật đáng căm phẫn cho những kẻ dùng mọi thủ đoạn, lợi dụng vào nỗi đau, sự mất mát của người dân để đưa ra những lời lẽ xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà Nước ta.

Chúng như ngựa quen đường cũ từ chính trị đến tất cả các linh vực của đời sống xã hội, lực lượng phản động lại tìm cách đưa ra nhưng luận điệu để xuyên tạc chống phá Đảng, chế độ XHCN ở nước ta. Ngay cả khi cả nước đang hướng về khúc ruột Miền trung, nơi đang phải hứng chịu những hậu quả do mưa lũ gây ra, thì lợi dụng vào đó lực lượng "quạ đen" lại nói xấu Đảng, đội ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.

Tất cả chúng ta đều biết rằng những lời lẽ đó là hoàn toàn là bịa đặt, vu khống. Trước sự biến động của thời tiết, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có dự báo và đưa ra các biện pháp phòng ngừa và kế hoạch phòng chống để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho nhân dân, các kênh truyền thông của nhà nước thường xuyên cập nhật thông tin về diễn biến tình hình để người dân biết để chủ động phòng tránh. Chính quyền địa phương các cấp, cac lực lượng chức năng huy động đến mức cao nhất cả về người đến trang thiết bị cần thiết để giúp đỡ người dân trong cơn lũ lụt. Lãnh đạo các địa phương đã đến tận nơi đế chỉ đạo và cùng nhân dân chống thiên tai. Và đã có cán bộ chiến sĩ đã hi sinh trong quá trình cứu giúp nhân giúp. Nhà nước, các tổ chức kêu gọi giúp đỡ, quyên góp ủng hộ, đến tận nơi, trao tận tay người dân vùng lũ.

Trước sự tàn phá khốc liệt của thiên tai, thiệt hại là không thể tránh khỏi. Chúng ta hãy phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, cùng nhau đồng lòng, đồng sức, giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua cơn hoạn nạn chứ không phải lợi dụng vào đó để chia rẽ, chống phá đất nước.

 VT.

 

SỰ HY SINH THẦM LẶNG

                                                                  

Những ngày qua, cả nước hướng về khúc ruột miền Trung. Mưa gọi lũ về khiến dải đất còn lắm nghèo khó phải oằn mình chống chọi. Nỗi đau lại chất chồng nỗi đau, khi trong nỗ lực làm nhiệm vụ cứu nạn cứu hộ, có 13 cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng “đất mẹ”. Cũng lúc này, hàng triệu người ngậm ngùi, khóc thương sự hy sinh của các cán bộ, chiến sĩ vì nhiệm vụ với Tổ quốc, với nhân dân mà mãi mãi không về. Đất nước, dân tộc, quân đội, nhân dân không bao giờ quên sự hy sinh, mất mát to lớn ấy. 

Như chúng ta đã biết Sáng 12/10, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên - Huế cùng Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn nhận được cuộc điện thoại “nóng”. Nhà máy Thủy điện Rào Trăng 3 (xã Phong Xuân, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế) bị sạt lở, gây hậu quả nghiêm trọng. Tình thế nguy cấp, “cứu người như cứu hỏa”, đoàn công tác của Quân khu 4 do Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó Tư lệnh Quân khu 4 dẫn đầu và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên - Huế lập tức lên đường hành quân hướng về thượng nguồn sông Rào Trăng trong điều kiện mưa rừng xối xả, nhiều đoạn đất, đá sạt lở ngổn ngang. Gian nguy hiện hữu trước mắt nhưng chẳng thể làm chùn bước chân của đoàn công tác đến giải cứu những công nhân mắc kẹt trong mưa lũ. Đến 21 giờ cùng ngày, tuyến đường độc đạo bị sạt lở nên đoàn dừng chân tại khu vực Trạm Kiểm lâm Sông Bồ. Khoảng 0 giờ 5 phút sáng 13/10, những tiếng nổ liên tục phát ra từ khu đồi phía sau, trong tích tắc, đất đá đổ xuống khu nhà, 8 người may mắn thoát ra ngoài, còn lại 13 cán bộ, chiến sỹ bị mất liên lạc. Sau nhiều nỗ lực tìm kiếm của đồng chí, đồng đội,  hy vọng về “phép màu” tan biến khi 13 cán bộ, chiến sỹ lần lượt được tìm thấy sâu trong lòng đất mẹ, vẹn nguyên trong bộ quân phục thân thương.!!!

Cho dù thời bình hay thời chiến thì với “Bộ đội cụ Hồ” khi Tổ quốc cần là họ lên đường với tinh thần phơi phới vì đã thực hiện nhiệm vụ theo mệnh lệnh “từ trái tim, từ phẩm chất cao cả của bộ đội Cụ Hồ như trong báo tố, lũ lụt ở khúc ruột miền trung họ cũng chỉ kịp nhắn tin cho người thân. Trong số ấy, có người lính trẻ - Đại úy Cường vẫn đang ngóng vọng được bế bồng một đứa con thơ, khi anh mới xây dựng gia đình chưa tròn 1 năm, dù đều công tác gần nhà nhưng do đặc thù công việc, họ chẳng mấy khi được gần nhau. Giờ anh đã đi xa, mong mỏi có được đứa con chưa kịp thành và bao lời hứa với cha mẹ già sẽ mãi dang dở. Thế là các anh lên đường vào chốn “rừng thiêng nước độc”, đến lúc trở về, các anh đã trọn vẹn lời thề, nghĩa tình với đất nước, với nhân dân. Đây là tổn thất vô cùng to lớn với quân đội, sự hy sinh của các đồng chí đến từ việc đặt nhiệm vụ lên trên hết. Dẫu vậy, đau đớn thay khi đó là những cuộc chia ly không được báo trước, với những lời hứa chưa tròn cùng bao niềm day dứt trong tâm khảm những người ở lại. Rào Trăng ôm các anh vào lòng, để đau thương cho người ở lại… Thế nhưng, sự hy sinh này chẳng dễ dàng quên lãng, bởi các anh ra đi vì một sứ mệnh chưa từng do dự. Các anh sẽ vẫn sống trong niềm tự hào của người thân và nhân dân, trong sự tiếp nối noi gương quả cảm của những thế hệ tương lai. Khắc ghi sự hy sinh cao cả ấy, ngày 16/10, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định cấp Bằng Tổ quốc ghi công, công nhận liệt sỹ đối với 13 cán bộ, chiến sỹ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực nhà máy Thuỷ điện Rào Trăng 3.

Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”Vĩnh biệt những người con ưu tú. Xin chia buồn với tất cả đại gia đình các anh. Ngàn năm con cháu còn thương nhớ. Muôn đời sông núi mãi ghi công! “Mong thân nhân gia đình các đồng chí nén đau thương, mất mát để tiếp tục vươn lên, xứng đáng với sự hy sinh của các liệt sĩ. Thân nhân gia đình các liệt sĩ hãy nhận ở tôi - những người bạn chiến đấu, những đồng nghiệp thân thiết lòng tiếc thương vô hạn và sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc nhất.Tôi xin cúi đầu cảm ơn các anh đã dũng cảm đương đầu với khó khăn để tìm cách cứu hộ các nạn nhân. Mọi người hãy cùng chung tay hướng về đồng bào miền Trung để chia sẻ phần nào nỗi đau mà họ đang phải gánh.

                                                                                        NHK

 

Trực thăng thả hơn 1,5 tấn hàng cứu trợ dân vùng lũ

QUẢNG TRỊTrực thăng của Sư đoàn 327 Bộ Quốc phòng thả hơn 1,5 tấn hàng hoá cho người dân ở xã Hướng Việt (huyện Hướng Hóa), lúc 15h30 ngày 22/10.

Ông Hà Sĩ Đồng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị, cho hay hàng hoá được thả gồm nhu yếu phẩm, lương thực, một số thuốc men cho người dân. Số hàng hoá này tập kết tại sân bay Phú Bài (Thừa Thiên Huế), được bộ đội bốc xếp lên trực thăng, sau đó vận chuyển đến các vùng bị cô lập trong nước lũ.

Việc tiếp tế phải thực hiện bằng trực thăng do đường Hồ Chí Minh nhánh Tây vào xã Hướng Việt đang bị sạt lở nặng với 42.500 m3 đất đá, 14 điểm tắc giao thông.

Cũng trong sáng 22/10, tổ công tác 17 người gồm y bác sĩ, cán bộ biên phòng và quân sự huyện Hướng Hoá băng đường rừng vào xã Hướng Việt, gùi theo thuốc và các vật tư thiết yếu để khám chữa bệnh cho người dân sau mưa lũ.

Chuyển hàng hóa lên máy bay tiếp tế cho người dân xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị), ngày 22/10. Ảnh: Báo Quân đội nhân dân

Chuyển hàng hóa lên máy bay tiếp tế cho người dân xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị), ngày 22/10. Ảnh: Báo Quân đội nhân dân

Dự kiến ngày 23/10, trực thăng của Bộ Quốc phòng sẽ tiếp tế thêm một chuyến hàng cứu trợ và đưa 2 cán bộ bị thương nặng ra bên ngoài. Hai người này gồm một Đại úy biên phòng và Chủ tịch UBND xã Hướng Việt bị thương vào tối 17/10, khi băng rừng tìm kiếm một nhóm người dân đi làm rẫy mất liên lạc trong mưa lũ.

Ngoài việc sử dụng trực thăng, ngày 23/10, huyện Hướng Hoá sẽ điều 10 xe bán tải chở hàng hoá, nhu yếu phẩm ra tỉnh Quảng Bình, theo đường Hồ Chí Minh nhánh Tây tiếp cận ngược vào xã Hướng Việt. Tuy nhiên, hướng tiếp cận này cũng có một điểm sạt lở lớn, đoàn lên kế hoạch đưa nhu yếu phẩm qua điểm sạt lở bằng gùi cõng.

Đường Hồ Chí Minh nhánh Tây bị sạt lở nghiêm trọng, khiến xã Hướng Việt bị cô lập hoàn toàn. Ảnh: Hoàng Táo

Đường Hồ Chí Minh nhánh Tây bị sạt lở nghiêm trọng, khiến xã Hướng Việt bị cô lập hoàn toàn. Ảnh: Hoàng Táo

Mưa lũ lớn từ ngày 6/10 đến nay khiến đường Hồ Chí Minh nhánh Tây bị sạt lở nhiều điểm, cô lập xã Hướng Việt. Để tiếp cận xã Hướng Việt chỉ có một con đường độc đạo là Hồ Chí Minh nhánh Tây, nhưng 2 đầu đường vào xã này đều bị sạt lở.

Theo nhà chức trách địa phương, hiện lương thực thực phẩm ở vùng bị cô lập đang thiếu thốn, dù chưa đói nhưng khó cầm cự được lâu. Tại xã này, 3 người dân mất tích khi đi làm rẫy vào ngày 17/10, nghi do sạt lở đất. Tuy nhiên, lực lượng và phương tiện cứu hộ mỏng nên vẫn chưa tìm ra người mất tích. Ngoài Hướng Việt, hai xã khác là Húc và Hướng Sơn cũng đang bị chia cắt do sạt lở đường.

Đến nay, mưa lũ ở Quảng Trị khiến 50 người chết, trong đó 30 người chết do sạt lở đất, 4 người mất tích, 43.000 nhà dân bị ngập.

Chiều 21/10, trả lời báo chí bên hành lang Quốc hội, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Quốc phòng, cho biết trực thăng ở Đà Nẵng, Gia Lâm (Hà Nội) sẵn sàng huy động thực hiện nhiệm vụ cứu hộ nhân dân; một số trực thăng đã vào sân bay Phú Bài (Thừa Thiên Huế) chờ lệnh.

"Những trường hợp không thể tổ chức cho người và phương tiện bình thường vào được, thì phải huy động trực thăng để tiếp tế lương thực cho nhân dân ở vùng bị cô lập do bão lũ", ông nói.

Nguồn: Vnexpress

Gửi!

 Các chị ơi cho em xin lỗi nhé!

Quà tháng 10 ta sẽ để Năm sau !

Đừng khoe hoa khi lũ lụt chìm sâu 

Cả miền Trung đục ngầu trong bùn đất!

Bao số phận bao Con người đã mất!

Chị có nghe quặn thắt tận đáy lòng?!

Con mất cha Người vợ trẻ mất chồng!

Bao số phận không còn nơi nương tựa!

Xin các chị đừng Làm Màu khoe nữa!

Khúc ruột mềm đang chìm giữa phong ba!

Có gia đình sạt núi chết cả nhà…

Bao chiến sĩ Ra Đi Không trở lại.

Cả đất nước đang đau thương quằn quại!

Lễ lần này hãy để lại năm sau!

Các chị cho em xin lỗi một câu!

(Con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ)

Câu tục ngữ ngàn năm kia còn đó.

Tay đứt rồi hỏi ruột có xót không?

Hãy nhìn kìa đồi núi cũng thành sông…

Cả miền Trung mênh mông trong Biển Nước!

Vậy mà vẫn có nhiều người vui được ,

Họ nghĩ gì khi đất nước ngả nghiêng!

Mùa thiên tai đã dìm nhấn một Miền…

Chôn biết bao số phận Yên lòng đất!

Người may mắn khóc thương người đã khuất,,!

Cầu mong sao đất nước sớm yên bình…!

Xin cầu mong tất cả các vong linh!

Sớm siêu thoát giữa thời Bình giông bão…!

Huyện Hải Lăng nói gì trước thông tin "cấm cứu trợ trực tiếp cho người dân vùng lũ"?

Nhiều người dùng mạng xã hội đang chia sẻ thông tin UBND huyện Hải Lăng (tỉnh Quảng Trị) cấm các tổ chức, cá nhân cứu trợ trực tiếp người dân bị ảnh hưởng bởi trận lũ lịch sử.


Trong những ngày qua, nhiều tổ chức, cá nhân, nhà tài trợ đã đến huyện Hải Lăng (tỉnh Quảng Trị), mang đến cho người dân vùng lũ nhiều phần quà ý nghĩa, thiết thực giúp họ giải quyết những khó khăn ban đầu do lũ lụt gây ra.


Nắm được tình hình đó, UBND huyện đã ban hành công văn về việc phối hợp tiếp nhận, phân phối hàng hóa cứu trợ mưa lũ, trong đó có hướng dẫn các tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm liên hệ và trực tiếp hỗ trợ tại tổ tiếp nhận của huyện; hoặc nếu muốn trao trực tiếp đến người dân thì thông qua UBND xã, thị trấn để được sắp xếp, bố trí lực lượng, hỗ trợ vận chuyển đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá trình cứu trợ.

 

Tuy nhiên, trên nhiều trang mạng xã hội đã chia sẻ thông tin cho rằng, UBND huyện hạn chế, cấm việc cứu trợ nhân dân; không cho các tổ chức, cá nhân, nhà tài trợ phát hàng cứu trợ trực tiếp đến nhân dân… gây dư luận xấu, bất bình trong nhân dân.


Về thông tin này, lãnh đạo UBND huyện Hải Lăng khẳng định, đó là thông tin xuyên tạc. UBND huyện khẳng định luôn ghi nhận, cảm ơn, tạo mọi điều kiện tốt nhất và khuyến khích, kêu gọi tất cả các nhà tài trợ, các tổ chức, cá nhân quan tâm, hỗ trợ hàng hóa, nhu yếu phẩm giúp đỡ nhân dân trên địa bàn huyện.


"Huyện không cấm, hạn chế, cản trở việc cứu trợ nhân dân; không cấm các tổ chức, cá nhân trực tiếp trao hàng cứu trợ đến nhân dân như một số trang Facebook cá nhân đăng tin", lãnh đạo UBND huyện Hải Lăng khẳng định.


"Một số tổ chức, cá nhân đã trực tiếp đến các vùng ngập lụt để trao quà cho nhân dân nhưng không đảm bảo an toàn về ghe, thuyền, không được trang bị áo phao và các dụng cụ hỗ trợ cứu hộ, cứu nạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng và hàng hóa. Bên cạnh đó, việc tự phát cứu trợ gây ra sự chồng chéo, trùng lặp, thiếu sự hài hòa về hàng cứu trợ cho người dân tại các khu vực khác nhau", lãnh đạo UBND huyện Hải Lăng giải thích thêm.


Do đó, Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn huyện đã thành lập 1 tổ tiếp nhận, quản lý, cấp phát và giám sát việc tiếp nhận; 1 tổ trực tiếp điều hành, phân phối hàng hóa, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân cấp phát hàng hóa đến tận tay từng người dân. Đồng thời, huyện Hải Lăng đã điều động hơn 100 cán bộ, chiến sĩ huyện, 150 công an, dân quan tự vệ xã cùng với 2 ca nô của huyện, 2 cano của Biên phòng tỉnh và một số thuyền máy sẵn sàng tham gia hỗ trợ các tổ chức, cá nhân về cứu trợ người dân trong địa bàn.


Các tổ chức, cá nhân, nhà tài trợ khi có nhu cầu hỗ trợ hàng hóa, các nhu yếu phẩm, UBND huyện đề nghị nên thông tin về tổ tiếp nhận của huyện để được giới thiệu địa điểm cứu trợ đảm bảo hài hòa giữa các vùng, đảm bảo mọi người dân đều được tiếp nhận hàng cứu trợ; đồng thời, huyện hỗ trợ phương tiện vận chuyển, lực lượng phân phối, dẫn đường đảm bảo an toàn cho người và hàng hóa cứu trợ, đảm bảo an ninh trật tự.


Đối với các tổ chức, cá nhân, nhà tài trợ đã có địa chỉ cứu trợ cụ thể, UBND huyện khuyến khích nên thông tin với tổ tiếp nhận của huyện hoặc UBND các xã, thị trấn để được hỗ trợ về lực lượng, phương tiện vận chuyển và đảm bảo công tác cứu trợ diễn ra thuận lợi, an toàn.


Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay đã có gần 100 tổ chức, cá nhân thông qua các cấp chính quyền, mặt trận huyện, xã, thị trấn ở huyện Hải Lăng để cứu trợ người dân với 42.196 thùng mì tôm, 9.576 thùng nước uống đóng chai, 7.802 ổ bánh mì, 2.521 thùng lương khô, 8.193 suất quà, 56,02 tấn gạo, 7.460 lít dầu ăn, 6.805 lít nước mắm, 8.660 cá hộp, 3.891 gói bột ngọt, 3.005 gói hạt nêm, 6.585 suất cơm và nhiều loại đồ dùng, thực phẩm khác. Ngoài ra, đã tiếp nhận 1.773,4 triệu đồng tiền mặt hỗ trợ từ các nhà tài trợ.