Mấy hôm nay thấy nhiều cư dân mạng đay nghiến về công tác phòng chống thiên tai của Việt Nam, kiểu tại sao năm nào cũng lụt, tại sao năm nào cũng chết chóc thiệt hại, miền Trung lũ lụt như thế sao không chống lại được?
Thứ Năm, 22 tháng 10, 2020
HÃY SUY NGHĨ TÍCH CỰC HƠN
TOÀN DÂN ĐỒNG LÒNG!
Khắp các con đường ở Nghệ An lúc ni thật sự quá xúc động, khi ở đầu xe tải đều có những dòng chữ "Ủng hộ đồng bào miền Trung". Đây là đoàn xe của Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Quỳnh Lưu ạ!
Khi là một quốc gia theo chế độ cộng sản lâu đời nhất hành tinh, thì Việt Nam có gì?
Xin trả lời:
KHÔNG CÓ NƠI NÀO NHƯ TỔ QUỐC CỦA TÔI!
Nhìn cảnh tượng những đoàn xe cứu trợ nối đuôi nhau vào miền Trung, chúng ta lại nhớ về một thời hoa lửa, những ngày tháng 4 năm 1975. Khi đó, vì miền Nam ruột thịt, cả miền Bắc dồn hết sức người, sức của để đánh bại giặc Mỹ xâm lược và tay sai, thống nhất nước nhà. Tất cả những cánh quân cùng tiến về Sài Gòn, làm nên chiến thắng vĩ đại, thu sơn hà về một mối. Đất nước ta hiện nay đã liền một dải hơn 45 năm. Thế nhưng khi giặc lũ lụt tấn công đồng bào miền Trung, cả hai miền Nam, Bắc lại dồn sức chi viện cho "chiến trường đánh giặc lũ". Những đoàn xe khắp muôn nơi tiến về miền Trung để đánh thắng giặc lũ. Chẳng có loại giặc nào có thể chiến thắng được dân tộc Việt Nam vì dân ta có lòng nồng nàn yêu nước, thương nòi, có tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau, sẵn sàng làm tất cả vì đồng bào ruột thịt, vì tổ quốc thân yêu.
Thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Với sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp công nhân - chủ thể và là sản phẩm xã hội của nền “đại công nghiệp”, đã trở thành luận chứng thực tiễn cho phát hiện lý luận vĩ đại của C. Mác về “sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân”. Và, cũng như vậy, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tiếp nối lô-gíc đã từng được lịch sử minh chứng.
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân do C. Mác (1818 - 1883) phát hiện và luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay đã trải qua ba lần tiến hóa. Những nội hàm cơ bản của lý luận này đã thể hiện và tiếp tục được bổ sung từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng công nghiệp 4.0, về đại thể, sẽ vẫn tiếp tục lô-gíc của C. Mác, tiếp nối nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gần đây mới được nhận thức rõ dấu hiệu và những đặc điểm của nó. Giáo sư K. Sô-áp (K. Schwab), Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), là người đưa ra thuật ngữ này. Cách mạng công nghiệp 4.0, theo ông, là một thuật ngữ phản ánh những đổi mới các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu, năng lượng, vật liệu và chế tạo trong sản xuất và dịch vụ. Đó là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, in-tơ-nét của vạn vật và in-tơ-nét của các dịch vụ. Nó “là sự thay đổi cơ bản trong cách thức chúng ta tạo ra, tiêu thụ sản phẩm và liên đới lẫn nhau, được dẫn dắt bởi sự hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và con người chúng ta”(1).
Cách mạng công nghiệp 4.0 có đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày càng nhanh chứ không đều đặn”, với quy mô là “thúc đẩy những chuyển đổi mô hình chưa từng có trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã hội và cá nhân”, có những tác động “dẫn đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa các (và trong mỗi) quốc gia, doanh nghiệp ngành công nghiệp và toàn xã hội”(2). Theo đó, chúng ta có thể phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân từ lô-gíc chung của các cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra và từ những nhận thức ban đầu về Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, cũng như những dự báo.
Thực hiện nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
C. Mác khẳng định, giai cấp công nhân là chủ thể của phương thức sản xuất công nghiệp với các đặc tính: công cụ lao động là máy móc, năng suất lao động cao, lao động có tính chất xã hội hóa cao và gợi mở nhiều giải pháp tích cực cho quá trình phát triển xã hội. Chính từ quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp, giai cấp công nhân được xác định là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại và thông qua đó, chuẩn bị những tiền đề vật chất cho xã hội tương lai(3). Về lô-gíc, có hai nội dung lý luận cơ bản cần được chú ý ở phương diện này:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội hiện đại bằng phương thức công nghiệp mang tính xã hội hóa cao. Xã hội nào cũng tồn tại và phát triển thông qua quá trình sản xuất và tiêu thụ của cải vật chất. Với tư cách là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp và tham gia quá trình sản xuất, tái sản xuất của cải vật chất, giai cấp công nhân góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Thêm vào đó, tính chất xã hội hóa ngày càng tăng của sản xuất cũng làm nảy sinh những nhân tố mang tính chất xã hội trong quá trình phát triển. Theo C. Mác, đây chính là yếu tố duy vật cho chủ nghĩa xã hội hiện đại, cái tính chất mà trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chưa xuất hiện trên thực tế. Công nghiệp càng phát triển thì tính chất xã hội hóa này ngày càng cao. Nội dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành công nội dung kinh tế này cũng là điều kiện vật chất để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, cũng từ quá trình sản xuất công nghiệp này, những nhân tố vật chất kỹ thuật cho sự hình thành một xã hội mới được tích lũy ngày một nhiều hơn. Cũng vì vậy, C. Mác coi cách mạng công nghiệp cùng những yếu tố cấu thành của nó, như máy móc, cách thức tổ chức quản lý sản xuất, trình độ cao của lao động và hợp tác lao động công nghiệp... là “những nhà cách mạng” khiến xã hội hiện tại không thể duy trì trạng thái cũ.
Hai lô-gíc căn bản đó đang tiếp diễn với mức độ sâu sắc và rộng lớn hơn trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Những nghiên cứu về cuộc cách mạng này đang xác nhận điều đó. Về đại thể, như dự báo của Giáo sư K. Sô-áp: “Những sáng tạo lớn về công nghệ sắp thổi bùng những thay đổi lớn lao trên khắp thế giới - như một tất yếu khách quan”(4). Tốc độ của những sáng kiến lan tỏa nhanh, năng suất lao động tăng mạnh. Chẳng hạn cách đây hơn 1 thập niên, dự án đầu tiên về giải mã bộ gen người mất 13 năm để hoàn thành với chi phí là 2,7 tỷ USD. Còn hiện nay, một bộ gen người có thể được giải trình tự trong vài giờ với chi phí vài nghìn USD. Các máy giải trình tự gen “để bàn” giá thành tương đối thấp có thể được sử dụng trong chẩn đoán thường ngày, có khả năng cải thiện đáng kể việc điều trị từ việc ứng dụng công nghệ ADN để đưa ra các phương pháp điều trị phù hợp cho bệnh nhân. Tiếp theo là sinh học tổng hợp cho khả năng tùy chỉnh chính xác các sinh vật bằng việc chỉnh sửa ADN được thiết kế có chủ đích(5).
Nhìn chung, “sự hài hòa và tích hợp ngày càng tăng của nhiều ngành và nhiều phát kiến khác nhau”(6) vừa tạo ra những đột phá mới trong sản xuất và dịch vụ, vừa tạo ra những cơ sở mới cho tăng năng suất lao động xã hội. Cần chú ý tới những biểu hiện mới của tính chất xã hội hóa, bộc lộ từ cuộc Cách mạng công nghiệp 3.0 và nay đang tiếp diễn.
Cơ hội học tập đang mở rộng hơn với mọi người. Hiện nay, người ta nói nhiều đến vấn đề giảm dần nhu cầu về lao động giản đơn, tăng lao động trình độ cao nhưng chưa chú ý đến khả năng tiếp cận giáo dục - dạy nghề cũng tăng lên và dễ dàng hơn với đa số. Người lao động hiện đại dễ dàng hơn trong việc học tập để nâng cao tay nghề và mở rộng khả năng chuyển đổi nghề nghiệp trước những thách thức về việc làm do Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra.
Kiến thức, kỹ năng lao động hiện đại đang có xu hướng xã hội hóa. Máy tính, điện thoại thông minh, các kho dữ liệu khổng lồ có thể dễ dàng tiếp cận với chi phí thấp, các trường đại học, cao đẳng với nhiều chương trình đào tạo từ xa… là những điều kiện thuận lợi để người lao động bình thường có thể học tập và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn thông qua cơ sở của truyền thông số. “Dễ tiếp cận, chi phí thấp, trung tính về địa lý của truyền thông là những nhân tố cho phép tương tác rộng rãi hơn, vượt qua các ranh giới xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, tôn giáo và ý thức hệ”(7).
Nhu cầu của thị trường sức lao động hiện đại vừa đặt ra yêu cầu cao về chất lượng của nguồn nhân lực, vừa nâng cao vị thế của người lao động. Khi đã có một trình độ tương đương với nhu cầu của thị trường, vị thế của người công nhân cũng khác trước khi thương lượng với người sử dụng lao động về giá cả của hàng hóa sức lao động. Trong điều kiện mới, khả năng tự bảo vệ của người lao động đã được tăng lên.
Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế xã hội hóa lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học và công nghệ có vai trò lớn trong sản xuất đang tạo ra một thay đổi quan trọng: tư bản khả biến (v) tăng nhanh, tư bản bất biến (c) giảm tương đối trong tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trò to lớn của tri thức, tay nghề, văn hóa, kinh nghiệm của người công nhân trong sản xuất công nghiệp đang từng bước phá vỡ cơ chế chiếm hữu của giai cấp tư sản, vốn bắt nguồn từ độc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, độc quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Máy móc, công nghệ sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trò là “những nhà cách mạng” thầm lặng. Chính xu hướng “tích hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và con người” quy định và thúc đẩy xã hội phải phát triển khác đi. Nó buộc con người trong quá trình sản xuất hiện đại không chỉ chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả kinh tế mà còn phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của phát triển bền vững.
Xã hội hóa là xu thế khách quan đang được Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy khá mạnh mẽ. Nó thể hiện ở xu hướng tiếp hợp, liên ngành, liên kết chuỗi trong sản xuất hiện đại. Xã hội hóa còn thể hiện ở sự gắn kết các khâu sản xuất - dịch vụ - tiêu dùng. Trước đây, trong Cách mạng công nghiệp 3.0 vốn đã có bước tiến dài với lý thuyết ma-két-tinh, còn ngày nay đang tiếp diễn với việc kết hợp đa chiều: kỹ thuật số, vật chất và sinh học trong sản xuất và dịch vụ.
Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Theo quan niệm của C. Mác, sở dĩ giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là vì họ là giai cấp đại diện cho xu thế xã hội hóa của lực lượng sản xuất hiện đại. Trong sản xuất công nghiệp, họ vừa là “sản phẩm của nền đại công nghiệp”, vừa là chủ thể của quá trình này. Do gắn liền với phương thức lao động này, giai cấp công nhân có được những phẩm chất, như tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tâm lý lao động công nghiệp... Đó là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
C. Mác là người đầu tiên chỉ ra quan hệ lợi ích phức tạp giữa công nhân và tư bản. Hai bên vừa đối lập nhau về lợi ích cơ bản, vừa phụ thuộc nhau về lợi ích hằng ngày trong thị trường sức lao động. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc cơ bản của giá trị thặng dư và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột được ngày càng nhiều giá trị thặng dư. “Trong xã hội ấy, những người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động”(8). Đây là mâu thuẫn cơ bản về lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản và là cốt lõi của bất công và đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại. Mâu thuẫn ấy không thể điều hòa và chỉ có thể được giải quyết bằng việc xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị thặng dư trên cơ sở xác lập một quan hệ sản xuất mang tính chất công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chính lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa đã chỉ ra biện pháp giải quyết ấy.
Theo đó, nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như công bằng, bình đẳng, dân chủ… và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính trị - xã hội mới do giai cấp công nhân lãnh đạo - chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề chính trị cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo cơ hội và làm nổi bật các nội dung sau: Dân chủ hóa - công nghệ số góp phần mở rộng truyền thông, tạo điều kiện để thông tin đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những nước phát triển, thông qua thành tựu khoa học - công nghệ, người dân có điều kiện tốt hơn để giám sát và chia sẻ quyền lực với nhà nước đương trị. Công nghệ và thiết bị ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn với chính phủ để nêu ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức mạnh về công nghệ để tăng cường sự quản trị của mình đối với người dân dựa trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết cấu hạ tầng số. “Tuy nhiên, xét về tổng thể, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải thay đổi cách thức tiếp cận hiện nay của họ đối với sự tham gia của công chúng và quy trình đưa ra quyết định khi vai trò trung tâm của họ trong việc thực thi chính sách bị suy giảm trước sự xuất hiện của các nguồn cạnh tranh mới, sự phân phối lại và phân bổ quyền lực dưới sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ”(9).
Cùng với những cơ hội để phát triển dân chủ, công bằng, bình đẳng, cuộc cạnh tranh - đấu tranh giữa “hai con đường”, giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa dường như cũng sắp bước vào một bước ngoặt lịch sử mới. Hãy thử sắp xếp các dữ kiện chính trị, xã hội lớn gắn với các chu kỳ cách mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và Công xã Pa-ri - năm 1871; Cách mạng công nghiệp lần thứ hai với Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917; Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với sự kiện Đông Âu - Liên xô và cải cách, đổi mới… Lô-gíc đó cho phép chúng ta dự báo và kỳ vọng vào những thay đổi của đời sống chính trị, xã hội theo hướng tích cực. Không ai khác, chính giai cấp công nhân với trình độ được tri thức hóa, với tổ chức khoa học và tinh thần cách mạng sẽ vẫn là chủ thể hàng đầu của những cuộc cách mạng trong tương lai.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều rất quan tâm và quyết tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện nội dung văn hóa - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Trên bình diện thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác cùng phát triển trong môi trường dân chủ, công bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu thế ấy tạo điều kiện thuận lợi cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và cả sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Xét cho cùng, mọi tiến bộ xã hội trong lịch sử và gần gũi hơn là những thành quả nhiều mặt của các cuộc cách mạng công nghiệp gần đây cũng chỉ xoay quanh một vấn đề lớn của nhân loại, đó là làm thế nào để kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Hệ giá trị của giai cấp công nhân(10) với những giá trị cơ bản phù hợp với những tiêu chí cơ bản xã hội hiện đại, như lao động, công bằng, bình đẳng, dân chủ và sự phát triển tự do toàn diện cho mỗi người… đang được Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện và cổ vũ hiện thực hóa.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác và những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới đã đưa ra một tiếp cận văn hóa và nhìn nhận rằng: “Chủ nghĩa xã hội là văn minh hóa văn hóa, chứ không chỉ giản đơn là sự vận động của vật chất và phúc lợi vật chất của mọi người… Chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân văn, không chỉ trên nguyên tắc loại trừ mọi hình thức bóc lột, áp bức, bần cùng hóa, bạo lực, mà căn bản là các quan hệ xã hội toàn diện và lối sống hàng ngày xứng đáng với tính người… Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm tính phụ thuộc biện chứng và sâu sắc của sự phát triển tự do từng cá nhân với sự phát triển tự do của mọi người trong xã hội”(11). Quan niệm về chủ nghĩa xã hội đầy tính nhân văn ấy sẽ làm mới, cập nhật và có điều kiện rộng rãi hơn trong quá trình hiện thực hóa.
Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh, có những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển. Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất - giai cấp công nhân, “đang xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp/giai cấp sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, thiết kế, nghệ thuật, văn hóa, giải trí, truyền thông, giáo dục - đào tạo, y tế, pháp luật. Cùng với sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, lao động sáng tạo ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, đặt ra vấn đề nhìn nhận lại vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội hiện đại…”(12). Hệ giá trị của giai cấp công nhân theo đó có thể được bổ sung những giá trị tuy khá đặc thù nhưng gần gũi của các tầng lớp khác như trí thức - nhóm xã hội coi sáng tạo, dân chủ như điều kiện môi trường để lao động và phát triển.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều vấn đề mới, từ quá trình vận động tự thân và việc bị các thế lực lợi dụng vào những mưu đồ phản tiến bộ, phản văn hóa. Tuy nhiên, tiến bộ xã hội có đủ sức mạnh để lựa chọn biện pháp tối ưu để giải quyết. Như GS. K. Sô-áp khẳng định: “Tôi vững tin rằng kỷ nguyên công nghệ mới, nếu được định hình một cách tích cực và có trách nhiệm, sẽ có thể là một chất xúc tác cho một cuộc phục hưng văn hóa mới”(13). Cũng có thể nói như vậy với sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân và chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI./.
Nguồn: Tạp chí Cộng sản.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo - Nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo Hồ Chí Minh
Phong cách là “lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động, như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó”(1). Tư duy, theo Từ điển tiếng Việt, là “giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý”.
Có thể hiểu, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là một trong những nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh; là cơ sở cho việc hình thành những luận điểm, tư tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ Chí Minh, tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo tiền bối và đương thời.
Với Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi, giáo điều, tránh lối cũ, đường mòn và tự mình phải luôn tìm tòi, suy nghĩ. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân và công việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, lạc hậu, tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra(2). Nhờ tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển chung của nhân loại.
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo hình thành rất sớm ở Hồ Chí Minh, ngay từ thuở thiếu thời, lúc Người mới bước vào tuổi thanh niên. Khác với các nhà cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh không lựa chọn sang phương Đông mà quyết định sang phương Tây, cụ thể là nước Pháp để tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là sự lựa chọn hết sức táo bạo trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Cũng với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, nếu như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, Phan Chu Trinh chủ trương giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tán thành Quốc tế Cộng sản, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.
Chính tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác biệt trong cách đi, bước đi, quan điểm, tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với các nhà yêu nước cách mạng tiền bối và cùng thời với Người. Để đưa ra quyết định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng vô sản, trong suốt 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình khảo sát, nghiên cứu các cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học tập, tiếp xúc với đủ hạng người, từ tầng lớp thượng lưu, tinh hoa đến những người lao động nghèo khổ nhất ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ La-tinh. Điều đó giúp Người mở rộng tầm mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuộc sống, tình cảnh, số phận con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa.
Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, trở thành người cộng sản, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh thực sự có bước phát triển mới. Từ đây, độc lập, tự chủ mới thực sự đi đến sáng tạo; trình độ tư duy của Người đã đạt đến tầm mức có thể so sánh, lựa chọn và tổng hợp những cứ liệu từ thực tế Việt Nam và thế giới, những kinh nghiệm từ cuộc sống, những tư tưởng của lớp người đi trước, để từ đó mà đúc kết, hình thành nên những luận điểm, tư tưởng, kết luận mới.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh coi đó là kim chỉ nam cho hành động, là “mặt trời soi sáng”, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có tính phương pháp luận chỉ dẫn hành động. Người coi việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, với người và với mình; là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lê-nin để giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Người không tự hạn chế, tự trói buộc mình và cũng không trói buộc người khác hoặc để người khác trói buộc mình vào từng câu chữ. Tư duy của Hồ Chí Minh là sự thấm nhuần lời chỉ dẫn của Lê-nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(3).
Nhờ có tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo đó, nên trong quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã có khả năng phát triển nhiều luận điểm rất mới mẻ, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chẳng hạn, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản năm 1924, nhấn mạnh, cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống như ở phương Tây. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là toàn thể nhân loại; do vậy, phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(4). Nguyễn Ái Quốc cũng đã sớm nhận ra vai trò chủ động, tích cực của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nếu như Lê-nin và Quốc tế Cộng sản đều cho rằng, cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi thì Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm ngược lại, khi cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng và đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh chính trị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ trương tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng toàn dân tộc cũng như giải quyết vấn đề độc lập dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam. Tuy nhiên, do trái với quan điểm, chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chịu nhiều sự phê phán, chỉ trích nặng nề, phải “sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”(5). Thực tế đã chứng minh rằng, chủ trương, cách giải quyết vấn đề dân tộc của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập Đảng là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu thế phát triển của thời đại, thể hiện nhãn quan chính trị, tầm nhìn vượt trước của Người trong bối cảnh nhận thức chung lúc bấy giờ.
Vậy tại sao Hồ Chí Minh lại có phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo như vậy? Có thể lý giải bằng những nguyên nhân sau:
Một là, mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh đều lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát. Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Lịch sử Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, nền độc lập của dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ ít có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc như dân tộc Việt Nam. Chính điều đó đã hình thành nên trong tính cách, đặc trưng của con người Việt Nam lòng yêu nước nồng nàn, chủ nghĩa dân tộc, khát khao hòa bình, độc lập, tự do cháy bỏng. Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân bị áp bức, bóc lột bởi chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Trong xã hội Việt Nam đan xen, tồn tại nhiều mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân xâm lược; do vậy, nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là yêu cầu cấp bách nhất. Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người là mục tiêu lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, mọi suy nghĩ, hành động của Người đều hướng tới mục tiêu đó.
Hai là, Hồ Chí Minh không ngừng học tập, nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trong và ngoài nước. Không phải ngẫu nhiên mà Người có được tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Ngoài yếu tố thiên bẩm thuộc về tư duy, tố chất, ngay từ nhỏ đến lúc cuối đời, Hồ Chí Minh luôn không ngừng nghỉ học tập, nghiên cứu để bổ sung tri thức, năng lực tư duy và hiểu biết cho mình; lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ, kiến thức văn hóa. Người nghiên cứu rất kỹ tiểu sử, tư tưởng của các nhà cách mạng tiền bối của dân tộc cũng như tư tưởng của các nhà văn hóa, chính trị ở phương Đông và phương Tây; không ngừng đọc, suy ngẫm, chiêm nghiệm, so sánh, lựa chọn, tiếp thu những cái hay, cái tốt của những vĩ nhân đó để bổ sung kiến thức văn hóa cho bản thân. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã trở thành một con người có trí tuệ uyên bác, mẫn tiệp, vượt thời đại.
Ba là, quá trình hoạt động thực tiễn sinh động, phong phú ở nhiều quốc gia, trải qua nhiều vị trí công tác, thăng trầm trong quá trình hoạt động cách mạng là những yếu tố quan trọng hình thành tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là người hoạt động cách mạng từ rất sớm, ở nhiều nước, trên nhiều lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác khác nhau và cũng hiếm có nhà cách mạng nào trên thế giới ở thời điểm đó đi và làm nhiều nghề khác nhau như Nguyễn Ái Quốc. Dấu chân Người đã in đậm trên những nẻo đường ở khắp châu Âu, châu Á, châu Phi, đến Mỹ La-tinh. Mỗi công việc, địa bàn hoạt động đều đem đến cho Nguyễn Ái Quốc những trải nghiệm phong phú, cảm nhận và chiêm nghiệm, đánh giá khác nhau.
Nhưng quan trọng hơn là dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến mấy, Người cũng luôn hoạt động tích cực, sôi nổi, xông xáo. Đặc biệt, sau khi trở thành người cộng sản, hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế Cộng sản, rồi cuối năm 1924 về Quảng Châu, Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã tranh thủ mọi thời gian, tận dụng mọi cơ hội trong các diễn đàn, hội nghị để nói lên tiếng nói của nhân dân các thuộc địa nói chung và của nhân dân Đông Dương và Việt Nam nói riêng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; ra sức đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản… Môi trường hoạt động đa dạng, phong phú, được tiếp xúc với nhiều người, nhiều giới, giúp Nguyễn Ái Quốc mở mang tầm mắt, học hỏi, tiếp thu được nhiều điều hay cũng như nhận ra những hạn chế, bất cập, bất công ở những nơi Người từng sống và hoạt động.
Học tập phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh
Yêu cầu, bối cảnh trong tình hình mới
Một là, Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, tiến bước mạnh mẽ dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thực hiện khát vọng dân tộc, tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Là nước đi sau, Việt Nam được thừa hưởng nhiều thành tựu, bài học kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước đi trước, nhưng cũng phải đối mặt với không ít nguy cơ, thách thức gay gắt trong môi trường cạnh tranh toàn cầu. Bối cảnh ấy đặt Việt Nam trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn. Để hiện thực hóa khát vọng dân tộc, tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, sớm trở thành “nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, thu nhập trung bình cao” vào năm 2025, từng bước trở thành nước “có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao” vào năm 2030, tiến lên “trở thành nước phát triển, có thu nhập cao” vào năm 2045(6), cần thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp, trong đó một đột phá chiến lược là vấn đề con người, chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là trình độ, phẩm chất, năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược - lực lượng giữ vai trò quyết định sự thành bại của mục tiêu, chiến lược phát triển đất nước. Rõ ràng, chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành đất nước; các quyết sách chính trị, chủ trương, đường lối được đề ra, triển khai, tổ chức thực hiện như thế nào, hiệu quả ra sao chủ yếu phụ thuộc vào phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ở cấp chiến lược.
Hai là, thực trạng yếu kém về trình độ, năng lực, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay đặt ra yêu cầu cấp bách. Nhiều cán bộ, đảng viên không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ, yếu về lý thuyết, xa rời thực tiễn, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ, nói không đi đôi với làm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc bệnh máy móc, rập khuôn, giáo điều trong công việc cũng như trong chỉ đạo, điều hành. Thực tế thời gian qua cho thấy, chất lượng nhiều chủ trương, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa sát hợp thực tiễn; quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện ở không ít địa phương, cơ quan, đơn vị còn rập khuôn, máy móc, xơ cứng, thiếu tính sáng tạo…Tình trạng trên đã gây bức xúc, bất bình trong dư luận và nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và niềm tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ba là, ý nghĩa và giá trị của phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Trong hệ thống di sản mà Người để lại cho dân tộc và nhân loại, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo chính là những chỉ dẫn và phương châm chỉ đạo hành động vô cùng quý giá cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, cho các thế hệ cả hôm nay và mai sau. Đó là phong cách tư duy vừa cụ thể, vừa toàn diện, vừa cách mạng lại vừa khoa học. Phong cách đó xuất phát từ cơ sở quan trọng nhất là thực tế cuộc sống, coi thực tế là tiêu chí, thước đo cho mọi suy nghĩ, chủ trương, quyết sách và hành động. Phong cách đó hình thành dựa trên quan điểm, lập trường, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Ngày nay, khi cuộc sống xã hội biến đổi từng ngày, đất nước ngày càng phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ra sức hiện thực hóa khát vọng phát triển, thì phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh lại càng cần được học tập, vận dụng trong công việc và cuộc sống.
Học tập phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần xây dựng ý thức không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ, năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo theo phong cách Hồ Chí Minh. Đây là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công việc và thực tế cuộc sống đang đặt ra. Xây dựng ý thức tự giác học tập là con đường ngắn nhất đi đến thành công và đó cũng là phương pháp, cách thức mà Hồ Chí Minh đã theo đuổi trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
Mỗi người cần ý thức được rằng, học và làm theo phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác là góp phần nâng cao năng lực, trình độ; là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trước vận mệnh lịch sử và quốc gia - dân tộc; là góp phần hiện thực hóa tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước; nhằm xử lý, giải quyết tốt nhất, hiệu quả nhất yêu cầu của công việc, tránh bệnh rập khuôn, máy móc, giáo điều. Đó cũng là quá trình rèn luyện, phấn đấu, hoàn thiện bản thân của mỗi người, từ đó lan tỏa, tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện cho được khát vọng sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước, tâm nguyện của Bác Hồ.
Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đến mỗi cán bộ, đảng viên về giá trị, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác nói riêng. Việc giáo dục, tuyên truyền cần được tổ chức thường xuyên, liên tục với nội dung phong phú, sinh động, cách thức, biện pháp đa dạng, gần gũi, bình dị, phù hợp với trình độ nhận thức của những đối tượng khác nhau. Chỉ khi nào mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học và làm theo phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác, thì khi đó, phong cách ấy mới trở thành ý thức tự giác thường trực trong mỗi tập thể và cá nhân.
Cần sử dụng nhiều kênh, hình thức, công cụ khác nhau để tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân, như qua sách, báo, tạp chí, phát thanh - truyền hình; qua học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết; qua hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt chuyên đề, các cuộc thi, khảo sát thực tế, tìm hiểu tư tưởng và cuộc đời hoạt động của Người. Tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, vào đối tượng, thời điểm cụ thể mà có hình thức giáo dục, tuyên truyền sinh động, phù hợp, kết hợp các hình thức đó với nhau… Cần nhận thức được rằng, học và làm theo phong cách tư duy của Bác không phải là những điều gì trừu tượng, cao siêu, mà rất cụ thể, thiết thực, ai cũng có thể học tập và noi theo.
Ba là, học và làm theo phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói riêng phải trở thành một nội dung, yêu cầu bắt buộc, là một trong những tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá, bình xét, xếp loại thi đua - khen thưởng, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm; là nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Học và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác nói chung, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Người nói riêng phải là nghĩa vụ, bổn phận bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ, quy chế cụ thể./.
Nguồn: Tạp chí cộng sản
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, trước hết, mỗi tổ chức đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc thiêng liêng: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sinh thời, V.I. Lê-nin nhấn mạnh: “Tự phê bình là một việc tuyệt đối cần thiết cho hết thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống. Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn”(2). Người chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho đến nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách khắc phục”(3).
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải tiêu biểu cho đạo đức và văn hóa, vì vậy, Người đặc biệt coi trọng xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; thường xuyên yêu cầu Đảng phải tự xây dựng, chỉnh đốn nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh: Khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng vẫn đứng trước những thách thức, khó khăn hết sức to lớn. Để phòng, chống căn bệnh quan liêu cũng như nguy cơ thoái hóa, biến chất, Đảng phải quán triệt nguyên tắc: Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ, Đảng cầm quyền để dân làm chủ và đảng viên của Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Người yêu cầu Đảng phải tuân thủ các nguyên tắc sinh hoạt và tổ chức của một đảng kiểu mới, như tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; giữ vững kỷ luật và đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình... để Đảng trở thành “một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”(4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(5) và Người nhấn mạnh: “Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(6). Theo đó, Đảng tiếp tục làm tròn sứ mệnh tiên phong của mình, nhất định mỗi tổ chức đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình, coi đó như là việc “rửa mặt hằng ngày”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, “các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa”(7). Việc tự phê bình và phê bình tại mỗi tổ chức cơ sở đảng phải tránh tình trạng “dĩ hòa vi quý”; đồng thời, tránh tâm lý sợ “phê bình cấp trên sẽ bị trù dập, phê bình đồng nghiệp sẽ bị mất lòng, phê bình cấp dưới sẽ bị mất phiếu” - đó là kiểu phê bình chiếu lệ, một chiều, mang tính hình thức, thực chất là nói cho qua chuyện hoặc nói để lấy lòng nhau. Tự phê bình và phê bình là rất cần thiết, quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên, lâu dài, nhưng phải “đúng lúc, đúng cách” và “phải biết tôn trọng lẫn nhau”. Người chỉ rõ: Tự phê bình là “nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình”(8), là sẵn sàng thừa nhận trước mọi người những khuyết điểm, hạn chế của mình để bản thân cũng như mọi người tìm cách sửa chữa, khắc phục. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, củng cố và tăng cường đoàn kết nội bộ. Đó cũng chính là cách mỗi người tự đánh giá để vừa thấy được “cái hay”, “cái dở” của mình, vừa tạo điều kiện cho những người xung quanh đóng góp ý kiến, giúp bản thân sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Còn phê bình là “nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình”(9); là tham gia góp ý kiến và nêu cách thức để sửa chữa khuyết điểm cho đồng chí mình. Từ đó, cổ vũ đồng chí mình phát huy những ưu điểm, những cách làm hay, những việc làm tốt, đồng thời giúp nhau tìm ra biện pháp khắc phục khuyết điểm, hạn chế, sai lầm để cùng nhau ngày càng tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình chỉ phát huy được tác dụng khi được thực hiện nghiêm túc, với tinh thần “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”(10).
Trong quá trình tiến hành tự phê bình và phê bình, cần phải khách quan, trung thực, công tâm và công khai, “không đặt điều”, “không thêm bớt”. Khi góp ý, phải thẳng thắn, chân thành, có tình, có lý, làm cho người được góp ý “tâm phục, khẩu phục”. Người làm nhiệm vụ phê bình phải lựa chọn phương pháp thích hợp, tế nhị trong lời nói, tránh động cơ vụ lợi, ích kỷ, hẹp hòi, hoặc vì thành kiến cá nhân, không thừa nhận thành tích của nhau nên lợi dụng phê bình để đả kích, cường điệu hóa khuyết điểm, nhằm hạ uy tín, “hạ bệ” lẫn nhau, gây mất đoàn kết nội bộ. Đặc biệt, không được lợi dụng tự phê bình và phê bình để mỉa mai, khích bác, “đâm thọc”, gây khó chịu, khó tiếp thu, gây ra tự ái hoặc hiểu nhầm cho người bị phê bình; nhất là tránh tình trạng: “Ai hợp với mình thì người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất”(11). Người được phê bình cần phải có thái độ thành khẩn, cầu thị, vui lòng sửa đổi; không vì được góp ý về khuyết điểm của mình mà nản chí hoặc oán ghét người phê bình mình, rồi im lặng mà không sửa đổi với thái độ không thật thà, không đúng mực. Thái độ khi tiếp thu phê bình là phải biết lắng nghe, thể hiện sự tiếp thu một cách thiện chí và nêu quyết tâm sửa chữa, tránh tình trạng nhận khuyết điểm một cách qua loa, thiếu ý thức và không quyết tâm sửa chữa. Trong trường hợp có ý kiến góp ý với mình chưa đúng, thì phải bình tĩnh, mềm dẻo và khiêm tốn để trình bày, giải thích.
Trong thực hiện tự phê bình và phê bình, phải có thái độ kiên quyết, “ráo riết, triệt để”, đúng mức, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Nếu làm hời hợt, quanh co, chiếu lệ, sai - đúng không rõ ràng sẽ tạo môi trường cho khuyết điểm tồn tại và phát triển nặng thêm. Phải có thái độ khen chê đúng mức thì mới giúp người có khuyết điểm sửa chữa; đồng thời, giúp người khác thấy đó mà đề phòng, tránh gặp khuyết điểm tương tự. Khuyết điểm sớm được sửa chữa sẽ dễ hơn khi để trở thành căn bệnh trầm kha. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người mắc khuyết điểm hôm nay, ngày mai chưa chắc đã mắc khuyết điểm. Người hôm nay chưa mắc khuyết điểm chưa chắc ngày mai sẽ không mắc khuyết điểm. Với ý nghĩa đó, việc tự phê bình và phê bình được tiến hành kiên quyết, triệt để trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau chính là một “cuộc đấu tranh” trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, “cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(12). Trong một tổ chức, sự đoàn kết và thống nhất trong ý chí và hành động chỉ có được khi mỗi thành viên tự phê bình và phê bình đều cùng phải thật thà, thành tâm, không giấu giếm khuyết điểm của mình, của đồng chí mình; phải tự giác nhận và vạch ra khuyết điểm của mình cũng như của đồng chí mình trước tất cả mọi người. Mọi người đều phải xuất phát từ động cơ trong sáng, đúng đắn: giúp đỡ lẫn nhau, vì sự tiến bộ của mỗi người và sự phát triển vững mạnh của tổ chức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bảo đảm công khai, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên, gắn với sửa chữa, biểu dương, khen thưởng thì mới phát huy được tác dụng. Trong đó, bảo đảm công khai, dân chủ là một trong những yếu tố quan trọng, làm cho việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình vừa nghiêm túc, vừa đạt hiệu quả cao. Trong thực hiện tự phê bình và phê bình, cần tránh một số lý do: sợ mất thành tích của tập thể, của lãnh đạo mà che giấu khuyết điểm, hoặc bao che, chạy tội cho đồng chí mình. “Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết “cũng la lết quả dưa”. Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình”(13). Theo đó, ý thức tự giác của mỗi đảng viên trong tự phê bình và phê bình là yếu tố góp phần quan trọng tạo nên niềm tin cho quần chúng nhân dân, sự đoàn kết thống nhất và sức mạnh của Đảng. Sự kết hợp chặt chẽ giữa ý thức tự giác với nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh của Đảng là đòi hỏi đối với mọi đảng viên trong tự phê bình và phê bình cũng như trong sinh hoạt Đảng nói chung. Việc coi thường nguyên tắc kỷ luật của Đảng, không có ý thức tự giác trong sinh hoạt Đảng sẽ làm suy yếu và tan rã Đảng.
Đoàn kết là sức mạnh của Đảng, còn kỷ luật của Đảng cùng với ý thức tự giác chấp hành kỷ luật của mọi đảng viên là điều kiện, nhân tố quan trọng để giữ vững sự đoàn kết, cũng như sự thống nhất về ý chí và hành động, nâng cao khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết chặt chẽ và kỷ luật nghiêm minh, hai điều đó không thể tách rời nhau trong sinh hoạt Đảng. Người cho rằng: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”(14). Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên. Tất cả mọi đảng viên đều phải tự giác tuân thủ kỷ luật đó, không phân biệt đảng viên giữ vị trí quản lý, lãnh đạo hay đảng viên thường, đảng viên ở cơ sở hay đảng viên trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, Người khẳng định: “Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác. Các đồng chí chúng ta cần phải ra sức giữ gìn kỷ luật sắt của Đảng”(15). Trước khi trở thành đảng viên, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên đã là một công dân tốt, một đoàn viên tốt, một quần chúng tiêu biểu, tự giác chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; khi là đảng viên thì phải chấp hành nghiêm mọi sự phân công của Đảng, tự giác phục tùng kỷ luật của Đảng, gương mẫu thực hiện và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là mọi đảng viên phải chấp hành nghị quyết và tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc sinh hoạt và tổ chức của Đảng, trong đó có nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Mỗi đảng viên phải gương mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của các cơ quan chính quyền, bởi tự phê bình và phê bình của đảng viên không chỉ gắn chặt với kỷ luật của Đảng mà còn liên quan mật thiết đến trật tự, kỷ cương của toàn xã hội.
Để thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình để trong các hoạt động của mỗi tổ chức, ý thức tự phê bình và phê bình luôn được đề cao; qua đó, không chỉ giúp nhau sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, mà quan trọng hơn, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống để góp phần củng cố vững chắc niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ. “Luôn luôn dùng và khéo dùng phê bình và tự phê bình”(16), giúp cho đồng chí mình nhận ra những sai lầm, khuyết điểm để có biện pháp tích cực sửa chữa, “thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên”(17). Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là những người gương mẫu, đi đầu trong tự phê bình và phê bình, luôn có thái độ nghiêm túc trong kiểm điểm, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của mình, của các cấp ủy viên và các đảng viên để đều cùng kịp thời sửa chữa khuyết điểm, khắc phục hạn chế, phát huy ưu điểm, đồng thời, làm gương về tự phê bình và phê bình. Mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên chủ động, tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng cũng như trong các hoạt động khác; cấp ủy các cấp quan tâm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, đảng viên để động viên tinh thần tự giác trong tự phê bình và phê bình. Chỉ có nghiêm túc tự phê bình và phê bình mới giúp cho cán bộ, đảng viên tránh được những sai lầm, khuyết điểm không đáng có, mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đày tớ thật trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh.
Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới
Thời gian qua, tự phê bình và phê bình trong Đảng ta được tiến hành thường xuyên và nghiêm túc. Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2011, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đã tạo được những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị. Đến nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” được coi là giải pháp trọng tâm nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng việc thực hiện tự phê bình và phê bình vẫn còn nhiều hạn chế. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình tuy đã có chuyển biến, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn là khâu yếu trong sinh hoạt đảng; chưa trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở một số nơi bị buông lỏng trong thực hiện, chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát. Ở nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, tự phê bình và phê bình chủ yếu được thực hiện vào dịp kiểm điểm cuối năm, chưa trở thành việc làm thường xuyên, hằng ngày. Nhiều đảng viên, nhất là các đảng viên trẻ, đảng viên mới kết nạp ít thể hiện quan điểm, chính kiến. Nội dung, hình thức tự phê bình và phê bình nhiều khi chưa đúng thực chất, thường vòng vo, né tránh, thậm chí ở một số nơi còn có sự nể nang, hoặc “dĩ hòa vi quý”, làm cho uy tín, sức chiến đấu của tổ chức đảng bị giảm sút, vừa làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân, vừa làm sai lệch trong nhận xét, đánh giá cán bộ, dẫn đến những hệ luỵ, sai phạm khác trong công tác cán bộ và trong xây dựng tổ chức đảng. Cũng từ những hạn chế đó, một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa chủ động phát hiện, phòng ngừa và hạn chế các vụ việc tiêu cực, sai phạm của đảng viên”(18). Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng và trúng tình hình, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ rõ: Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước... Thực trạng đó làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Nghị quyết nhấn mạnh: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”(19). Do đó, cần phát huy vai trò và hiệu quả của nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng, coi đó như một “thang thuốc đặc trị” các căn bệnh nguy hiểm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Để thấm nhuần và thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong Đảng nhằm góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, trong đó có vấn đề tự phê bình và phê bình. Cần thấy rằng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng hiện nay là giải pháp quan trọng, nhằm góp phần rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vai trò, ý nghĩa của tự phê bình và phê bình để tự giác, thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện. Xây dựng và thực hiện tốt các quy định về phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên.
Thực tế hiện nay cho thấy, một bộ phận cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng chưa nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò, mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê bình và phê bình nên chưa chú trọng, nghiêm chỉnh, tự giác thực hiện. Không ít đảng viên, tổ chức đảng không tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình mà tìm mọi cách để giấu giếm, bao che, đỗ lỗi khuyết điểm cho hoàn cảnh khách quan; một số cán bộ, đảng viên chưa mạnh dạn nói thẳng, nói thật, phê bình, góp ý cho cấp trên; vẫn còn tình trạng lợi dụng tự phê bình và phê bình để đả kích, nói xấu, chỉ trích, phê phán lẫn nhau, vì mục đích cá nhân, làm cho người bị phê bình không nhận ra được sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa. Bên cạnh đó, một số cấp ủy chưa chú trọng đến việc bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên về công tác sinh hoạt, phát triển Đảng nên ảnh hưởng nhiều đến năng lực điều hành, tổ chức sinh hoạt đảng, đặc biệt là công tác tự phê bình và phê bình. Do đó, cần làm tốt công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vai trò, ý nghĩa của tự phê bình và phê bình để tự giác, thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện.
Từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu gương trong tự phê bình và phê bình, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đề ra bốn nhóm giải pháp cần tập trung thực hiện, trong đó nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên được đưa lên hàng đầu. Đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII tiếp tục khẳng định giải pháp hàng đầu là công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên.
Để thực sự nêu gương trong tự phê bình và phê bình, đòi hỏi mỗi tổ chức đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp, người đứng đầu cần tự giác, trung thực, tự phê bình thật nghiêm túc, khách quan, có lý, có tình, mang tính xây dựng cao. Tập trung kiểm điểm về trách nhiệm đối với công việc và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình; về phẩm chất cá nhân trên tất cả các mặt, từ nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, đến quan hệ với quần chúng... Qua đó, thấy rõ ưu điểm để phát huy, nhận ra khuyết điểm để sửa chữa; đồng thời, coi trọng sự giáo dục, sự giúp đỡ chân thành của đồng chí, đồng nghiệp, học tập lẫn nhau. Phải thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”; khi có bệnh thì phải kiên quyết “trị bệnh cứu người”, không được có tư tưởng dễ dãi, bao che, hoặc tranh công, đổ tội. Và chỉ có thực sự nêu gương tự phê bình và phê bình thì mới có thể củng cố được lòng tin, tinh thần đoàn kết trong tổ chức, tập hợp lực lượng để thực hiện tốt nhiệm vụ.
Cần tập trung kiểm điểm, đánh giá, làm rõ trách nhiệm cá nhân, sự gương mẫu trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm. Cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế. Xây dựng quy định nêu gương trong tự phê bình và phê bình; khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Cùng với đó, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu phải là tấm gương sáng về tự phê bình và phê bình để cấp dưới làm theo. Trong tự phê bình và phê bình phải thực sự cầu thị, tự giác, trung thực, chân thành, công tâm, không hữu khuynh, né tránh, chạy theo chủ nghĩa thành tích; khi có khuyết điểm phải nhận khuyết điểm và có kế hoạch sửa chữa. Trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, thẳng thắn đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái, lợi dụng phê bình với động cơ xấu.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với việc thực hiện tự phê bình và phê bình. Kiểm tra, giám sát là một nguyên tắc, khâu quan trọng trong quy trình lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó có nguyên tắc tự phê bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất giữa nghị quyết và sự chấp hành, lời nói và việc làm, giúp cho các cấp lãnh đạo của Đảng khắc phục được tình trạng chủ quan, duy ý chí, mơ hồ trong quá trình lãnh đạo.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm góp phần quan trọng vào việc phát hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót trong thực hiện tự phê bình và phê bình. Bên cạnh việc tăng cường thực hiện kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm, phải chủ động kiểm tra, giám sát về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Coi trọng kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực. Kiện toàn hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp; hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên. Tăng cường cán bộ có năng lực, trình độ, cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát là giải pháp rất hữu hiệu trong việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên; phòng, chống bệnh quan liêu, tình trạng chia rẽ, bè phái, vô kỷ luật trong nội bộ Đảng; bảo đảm nguyên tắc tự phê bình và phê bình được tuân thủ nghiêm túc.
Thứ tư, củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đối với một đảng cầm quyền, có hai nguy cơ lớn nhất cần phải đề phòng: một là, đề ra đường lối sai lầm; hai là, mắc bệnh quan liêu, xa dân. Đảng ta là đảng cầm quyền, vì vậy, nhiều cán bộ, đảng viên của Đảng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị, tham gia vào các hoạt động của bộ máy chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Do đó, vấn đề đặt ra là mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn ghi tạc chân lý “dân là gốc”, gắn bó với nhân dân, nghe dân nói, hiểu dân, tin dân và nhất là phải hết lòng vì nhân dân. Bác Hồ nói: “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”(20). Theo đó, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vận động quần chúng nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền. Đặc biệt, nguyên tắc tự phê bình và phê bình chỉ thực sự phát huy tác dụng và hiệu quả khi được kết hợp chặt chẽ với sự tham gia của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng. Các tổ chức đảng phải định kỳ lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của từng cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị mình; qua đó làm cơ sở quan trọng trong đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên cũng như trong thực hiện tự phê bình và phê bình.
Thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình sẽ góp phần củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, được nhân dân tin tưởng và bảo vệ, không kẻ thù nào có thể phủ nhận được vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Nguồn; Tạp chí cộng sản