Thứ Năm, 5 tháng 11, 2020

Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh

I. KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH

Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hoà, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế; quê quán xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Năm 1937, Đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở huyện Phú Vang và Phú Lộctỉnh Thừa Thiên - Huế. Tháng 5/1938, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương; sau đó được tổ chức phân công phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh.

Từ tháng 8/1945 đến tháng 10/1948, Đồng chí giữ các chức vụ từ trung đội trưởng đến chính trị viên Trung đoàn 301. Từ tháng 11/1948 đến tháng 12/1950 là Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8 và Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ năm 1951 đến năm 1954 là Tham mưu phó, Quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

Từ tháng 5/1955 đến tháng 7/1963, Đồng chí đảm nhiệm các chức vụ Cục phó Cục Tác chiến và Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 8/1963, Đồng chí được bổ nhiệm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 2/1964 đến năm 1968, Đồng chí được giao giữ chức vụ Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Từ năm 1969 đến năm 1974, Đồng chí là Tư lệnh Quân khu 9. Từ năm 1974 đến năm 1975 là Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

Tháng 5/1976, Đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9. Tháng 6/1978, được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam. Tháng 6/1981, được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.

Đồng chí được phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng năm 1974; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980, Đại tướng năm 1984.

Tháng 12/1986, Đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 2/1987, là Phó Bí thư Đảng ủy quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Ngày 23/9/1992, Quốc hội khóa IX đã bầu đồng chí làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến tháng 12/1997.

Đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.

Ngày 22/4/2019, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh qua đời tại nhà công vụ trong Trạm khách Bộ Quốc phòng (T66), số 5 Hoàng Diệu, Hà Nội.

Với 99 năm tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, đồng chí Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta. Đồng chí được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

II. NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ ĐẤT NƯỚC

1. Đồng chí Lê Đức Anh - người cộng sản kiên cường, suốt đời cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của Nhân dân

Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến người dân nô lệ mất nước sống cơ cực dưới chế độ thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong đồng chí Lê Đức Anh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng. Từ khi còn nhỏ, dịch đậu mùa đã làm một bên mắt bị mờ và một bên chân bị yếu cho đến tận sau này, nhưng ý chí và nghị lực mạnh mẽ đã thôi thúc Đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng và đi suốt các cuộc chiến tranh của dân tộc.

Năm 16 tuổi, Đồng chí được giác ngộ và năm 17 tuổi chính thức tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương, bắt đầu từ việc đọc sách, báo, tuyên truyền cho dân chúng, tham gia đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ ở làng quê. Năm 18 tuổi, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Cuối năm 1938, đầu năm 1939, thực dân Pháp thẳng tay khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng; nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt. Tháng 10/1939, thực dân Pháp tiến hành khủng bố ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên huyện Phú Vang bị bắt. Để bảo toàn lực lượng theo chủ trương của tổ chức cộng sản, Đồng chí đã bí mật rời quê hương vào Đà Lạt hoạt động và sớm tìm đến với tổ chức cách mạng.

Đầu năm 1942, Đồng chí rời Đà Lạt xuống đồn điền cao su Lộc Ninh, tiếp tục làm thuê kiếm sống. Tại đây, chứng kiến cuộc sống cơ cực của những phu cao su, Đồng chí đã thực hiện tổ chức, củng cố đời sống vật chất, tinh thần và hâm nóng, thắp sáng trong họ lòng tự tôn dân tộc. Sau đó, Đồng chí đã tìm cách bắt liên lạc với tổ chức và tiến hành giác ngộ, vận động, gây dựng và phát triển phong trào của phu cao su. Khi phong trào phát triển nhanh và vững ở đồn điền cao su Lộc Ninh, Đồng chí đã gây dựng phong trào phát triển rộng đến các đồn điền lân cận, như: Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch.

Đồng chí đã trực tiếp giác ngộ hàng trăm phu cao su Lộc Ninh, tuyển chọn và kết nạp được bốn người, thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên do Đồng chí làm Bí thư Chi bộ. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Chi bộ Lộc Ninh khẩn trương gây dựng, phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và Nhân dân vùng Hớn Quản. Ngày 23/8/1945, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo công nhân cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp khởi nghĩa thành công, sau đó kéo quân về hợp điểm giành chính quyền ở tỉnh lỵ đêm 24 rạng sáng 25/8/1945.

Trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, tại Hớn Quản, Đội võ trang do đồng chí Lê Đức Anh thành lập và chỉ huy có quân số hơn 100 người với cung nỏ khoác vai, bao tên đeo ngang hông mà Nhân dân trong vùng quen gọi là “Đội quân áo nâu”.

Những năm đầu hoạt động cách mạng sôi nổi với bao khó khăn, thử thách, đã tôi rèn đồng chí Lê Đức Anh trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên cường, để suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì hạnh phúc của Nhân dân.

2. Đồng chí Lê Đức Anh - người chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả

a) Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

- Đồng chí Lê Đức Anh tham gia thành lập, phát triển và chỉ huy các đội võ trang, hoạt động ở vùng Lộc Ninh, Hớn Quản, Bến Cát. Các đội võ trang ra đời và chiến đấu trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, gian khổ, nhưng cán bộ, chiến sĩ đều kiên gan chịu đựng, đồng lòng quyết chí chống giặc, giữ quê hương. Là Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Quận ủy Hớn Quản và Chính trị viên Chi đội 1, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Ban Chỉ huy và cán bộ các ngành tăng cường giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua khó khăn, gian khổ. Chi đội 1 do Đồng chí làm Chính trị viên nổi tiếng đánh giặc giỏi và có kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu "Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau; không được đi khi chưa múc đầy ang nước; không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ" đã trở thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1. Ngày 14/6/1948, Chi đội 1 được quyết định đổi thành Trung đoàn 301 - phiên hiệu cấp trung đoàn đầu tiên ở Nam Bộ, đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục được giao làm Chính trị viên.

- Cuối năm 1948, thấy được tố chất và khả năng tham mưu quân sự của đồng chí Lê Đức Anh, Xứ ủy Nam Kỳ điều đồng chí về làm Tham mưu trưởng Khu 7 - một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội Pháp và tay sai. Từ đây, Đồng chí chuyển từ một cán bộ chính trị sang làm cán bộ quân sự, chuyên lo xây dựng lực lượng, tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh và Cơ quan Tham mưu, lực lượng vũ trang Khu 7 đã tổ chức nhiều trận đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.

- Cuối năm 1949, đầu năm 1950, quân Pháp liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn - Gia Định. Đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất với Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn: Mở một chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm tiêu diệt sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh; tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta. Đề xuất trên đã được Bộ Tư lệnh đồng ý và giao Đồng chí làm Tham mưu trưởng Chiến dịch. Sau một tháng chuẩn bị, chiến dịch Bến Cát đã diễn ra từ ngày 25 đến ngày 27/1/1950; ta đã loại khỏi chiến đấu gần 100 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, làm gián đoạn giao thông của địch. Chiến dịch Bến Cát và chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh (7 - 26/12/1949) là hai chiến dịch tiến công đầu tiên của lực lượng vũ trang Nam Bộ, làm thay đổi cục diện chiến trường - từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch, sang chủ động tổ chức những trận tiến công có quy mô chiến dịch.

- Cuối năm 1952, đầu năm 1953, đồng chí Lê Đức Anh vinh dự cùng đồng chí Lê Duẩn ra Chiến khu Việt Bắc để báo cáo với Bác Hồ và Bộ Tổng Tư lệnh về kinh nghiệm chiến đấu. Nghe đồng chí Lê Đức Anh báo cáo, Bác Hồ rất vui, khen ngợi bộ đội và Nhân dân Nam Bộ đánh giặc giỏi. Sau khi tham dự lớp học chính trị do Trung ương tổ chức tại Chiến khu Việt Bắc, đồng chí Lê Đức Anh lên đường trở về miền Nam tiếp tục chiến đấu.   

b) Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

- Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí Lê Đức Anh công tác ở Bộ Tổng Tham mưu với cương vị Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực, rồi Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là thời gian Đồng chí được tìm hiểu, học hỏi về các ngành, các công việc của công tác tham mưu chiến lược, nâng cao hiểu biết thực tế và phương pháp luận khoa học khi tiến hành công tác tham mưu quân sự; đồng thời tiếp tục được bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị. Cũng trong thời gian này, Đồng chí cùng với đoàn cán bộ Quân đội sang Liên Xô để tìm hiểu về phương pháp tác chiến của quân đội các nước Liên Xô, Đức, Pháp và Mỹ.

- Cuối tháng 12/1963, nhận nhiệm vụ cấp trên giao, đồng chí Lê Đức Anh bí mật lên đường vào chiến trường miền Nam trên con tàu “Không số”, mang theo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng về xây dựng lực lượng cách mạng và hoạt động vũ trang. Những ngày đầu trở lại chiến trường miền Nam, tại Bộ Chỉ huy Miền, với cương vị Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đề xuất quan trọng và trực tiếp soạn thảo, triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang. Đồng thời, Đồng chí đã cùng Cơ quan Tham mưu tích cực tiến hành công tác chuẩn bị cho chiến dịch tiến công Bình Giã. Trong hơn một tháng chiến đấu tiến công, từ đêm ngày 2/12/1964 đến ngày 3/1/1965, chiến dịch Bình Giã đã giành thắng lợi to lớn, mục tiêu cơ bản của chiến dịch đặt ra đều thực hiện được.

- Bước vào mùa khô năm 1966 - 1967, Mỹ và tay sai mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mà đỉnh cao là cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (phía Bắc tỉnh Tây Ninh) nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta, bịt chặt biên giới Việt Nam - Campuchia, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Để vừa bảo toàn lực lượng, bám trụ trên địa bàn tác chiến không có dân, vừa đánh tiêu hao, tiêu diệt địch, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã đề xuất: Di chuyển những người và tổ chức thật cần thiết thuộc Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền đến nơi an toàn; lực lượng còn lại tổ chức thành các “huyện căn cứ”, các “xã căn cứ” để đánh địch tại chỗ, phát huy cao độ ưu thế của du kích chiến, kết hợp với các đơn vị chủ lực cơ động đánh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch. Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền nhất trí đề xuất này và giao đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng đánh địch tại chỗ. Sau gần hai tháng chiến đấu (22/2/1967 - 15/4/1967), ta đã loại khỏi chiến đấu hơn 14.000 tên và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ - ngụy. Nói về nghệ thuật chiến dịch, đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh trong chiến dịch này chính là đã tạo ra “thế trận chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân” để đánh địch. Thực tiễn, phương pháp tác chiến này đã phát huy hiệu quả và giành thắng lợi to lớn.

- Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đồng chí được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng Tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành. Quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá thấu đáo tình hình, Đồng chí đã có những đề xuất quan trọng về chuyển hướng tiến công. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý nghĩa quan trọng, làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.

- Đầu năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh được cấp trên giao nhiệm vụ Tư lệnh Quân khu 9. Trong điều kiện cách mạng miền Nam đang trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách, trên địa bàn Quân khu 9, địch đã bình định lấn chiếm vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng phía Nam tỉnh Cà Mau, lực lượng và phong trào cách mạng giảm sút nghiêm trọng. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Chín Hòa) cùng đồng chí Võ Văn Kiệt (bí danh Tám Thuận) - Bí thư Khu ủy và các đồng chí trong Khu ủy, Bộ Tư lệnh đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức củng cố lực lượng, khôi phục lại thế và lực của Quân khu 9. Sau những nỗ lực vượt bậc và được sự chi viện to lớn của miền Bắc, lực lượng và phong trào cách mạng của Quân khu 9 đã nhanh chóng được khôi phục. Đến năm 1971 - 1972, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã liên tiếp nổ súng tiến công, đẩy lùi quân địch vào sát thị xã, thị trấn, bước đầu đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.

- Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết (27/1/1973), ngụy quyền Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Trước tình hình đó, mặc dù chưa có chủ trương của trên về tiến công quân sự, song dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp quân đoàn của địch đánh vào Chương Thiện, lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn cùng với kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng.

Với những thành tích trong chỉ huy chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pa-ri năm 1973 trên địa bàn Quân khu 9 và những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1964 - 1974, ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.

- Năm 1974, được giao đảm nhiệm cương vị Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến mùa khô 1974 - 1975; chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị chủ lực của Miền huấn luyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới, nhất là tập huấn cho bộ đội cách đánh công kiên. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, Đồng chí cùng Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ huy các đơn vị liên tiếp tiến công địch trong các chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, Đồng Xoài... tiến tới tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch ở Phước Long, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng, giải phóng tỉnh Phước Long với hơn 50 vạn dân. Chiến thắng Đồng Xoài - Phước Long có ý nghĩa là "Trận trinh sát chiến lược", làm sáng tỏ hơn những cơ sở để Trung ương Đảng hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 khi thời cơ lớn đã mở ra.

- Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, xác định các hướng, mũi tiến công, giao nhiệm vụ, hiệp đồng cụ thể, rõ ràng cho từng bộ phận; chỉ huy cánh quân đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch tác chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc.

c) Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước

- Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, tháng 5/1976, đồng chí Lê Đức Anh được phân công về làm Tư lệnh Quân khu 9 (gồm Khu 9 và Khu 8 cũ). Trên cương vị được giao, Đồng chí đã chỉ đạo Quân khu tập trung giải quyết cùng lúc nhiều việc lớn, nhanh chóng tạo được sự ổn định, bảo đảm cho đời sống và các hoạt động trong toàn Quân khu đi vào nền nếp khi đất nước chuyển giai đoạn từ chiến tranh sang hòa bình. Đồng chí đã đề xuất và được Đảng ủy Quân khu quyết định giữ lại một sư đoàn thường trực, còn hai sư đoàn tổ chức đi làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; như vậy được coi như đã giảm quân số thường trực nhưng vẫn giữ được quân số tại ngũ. Vì thế, khi quân Pôn Pốt xâm lấn biên giới Tây Nam, Quân khu 9 đã chủ động đối phó, không bị rơi vào tình trạng bỏ trống địa bàn.

- Khi tập đoàn phản động Pôn Pốt gây chiến tranh xâm lược toàn tuyến biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh được điều động về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam. Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, đồng chí Lê Đức Anh đã tích cực chỉ đạo Quân khu 7 giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ngay trên địa bàn Quân khu.

- Sau khi các lực lượng của ta đánh tan quân Pôn Pốt xâm lược trên tuyến biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đề xuất thể hiện tầm nhìn và tư duy chiến lược về việc giúp bạn hồi sinh đất nước. Việc đầu tiên Đồng chí đề xuất và được tập thể lãnh đạo nhất trí là bộ đội và chuyên gia của ta phải tập trung cứu đói, cứu đau cho dân; nhanh chóng khôi phục lại xã hội Campuchia; khôi phục lại sản xuất; vận động binh lính Pôn Pốt bỏ hàng ngũ, trở về với gia đình; giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng để bạn tự đảm đương công việc của mình. Đồng chí đã chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đánh bại các cuộc phản kích và truy quét, làm tan rã một bộ phận lớn tàn quân Pôn Pốt, giữ vững thành quả cách mạng; đồng thời giúp bạn xây dựng công trình phòng thủ biên giới mang tên “K5”, dài 800 ki-lô-mét.

- Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia - một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp, mang tính đặc thù, với biết bao gian nan thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục, động viên bộ đội và chuyên gia vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả. Dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam cùng quân và dân Campuchia đã thực hiện thắng lợi ba mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia được xác định trong Nghị quyết số 39 ngày 15/2/1983 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đó là: 1. Tiếp tục làm cho quân Pôn Pốt tan rã, suy tàn hơn nữa; 2. Tiếp tục xây dựng thực lực cách mạng Campuchia mạnh hơn cả về số lượng và chất lượng, đủ sức đảm nhiệm cuộc đấu tranh thắng lợi với mọi kẻ thù, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước; 3. Bảo đảm đoàn kết liên minh chiến lược, chiến đấu Campuchia - Việt Nam trên một thế vững chắc hơn và mạnh hơn[1].

Sau này, đánh giá sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Campuchia, Thủ tướng Chính phủ Campuchia Hun Sen nói: "Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết. Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, Chính phủ Phnom Pênh sẽ không tồn tại"[2]

Với thành tích xuất sắc trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước, đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng tháng 1/1980 và lên Đại tướng tháng 12/1984. 

3. Đồng chí Lê Đức Anh - nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, với nhiều dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

- Ngày 7/12/1986, đồng chí Lê Đức Anh nhận quyết định giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đến ngày 16/2/1987, Bộ Chính trị và Hội đồng Nhà nước đã quyết định bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngay sau khi nhận chức, Đồng chí đã có những đề xuất xác đáng với Bộ Chính trị về giải quyết vấn đề biên giới, và từ vấn đề biên giới để định ra chiến lược và sách lược của công tác đối ngoại.

+ Đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng trong xúc tiến bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Cuối tháng 7/1991, với tư cách là phái viên của Bộ Chính trị, Đồng chí sang thăm Trung Quốc để trao đổi những vấn đề cụ thể việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Sau chuyến đi này của đồng chí Lê Đức Anh, từ ngày 5 đến ngày 10/11/1991, là chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu, theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng. Đây là mốc đánh dấu chính thức bình thường hóa và mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, khép lại nhiều năm đối đầu căng thẳng.

+ Đồng chí Lê Đức Anh đã chú trọng việc điều chỉnh bố trí chiến lược quốc phòng. Theo đó, Quân đoàn 3 được điều lên đứng chân ở Tây Nguyên, kịp thời đẩy lùi hoạt động của bọn phản động, tạo môi trường ổn định cho Tây Nguyên phát triển kinh tế; đội hình bố trí lực lượng của các quân, binh chủng được điều chỉnh thích hợp; tăng cường phòng thủ biển, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa.

+ Đồng chí đã đề xuất với Đảng, Nhà nước và trực tiếp chỉ đạo giải quyết nhiều vấn đề lớn, quan trọng về quân sự, quốc phòng như: Thực hiện giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng trong tình hình nền kinh tế bị khủng hoảng; tiến hành các chính sách cụ thể để cải thiện đời sống bộ đội, giải quyết việc làm cho quân nhân xuất ngũ, thực hiện chính sách hậu phương quân đội; chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh Nhân dân trong tình hình mới... 

+ Đồng chí đặc biệt quan tâm và có tầm nhìn chiến lược về phòng thủ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ngày 6/11/1987, Đồng chí ký Mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa; đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, trước mắt đưa ngay các lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ để khai thác và sẵn sàng bảo vệ đảo[3]. Ngày 7/5/1988, phát biểu tại cuộc mít tinh kỷ niệm 33 năm Ngày truyền thống Quân chủng Hải quân (7/5/1955 - 7/5/1988) được tổ chức tại đảo Trường Sa Lớn, Đồng chí nhấn mạnh: “Chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của các cán bộ, chiến sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”[4]. Ngày 29/5/1989, Mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, các bãi đá ngầm (khu DK1) của Việt Nam; trên cơ sở đó, từ tháng 6/1989 đến tháng 11/1990, Quân chủng Hải quân đã khắc phục mọi khó khăn, thực hiện sự tiếp tục có mặt của Việt Nam trên thềm lục địa 60.000 km2 thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với Luật Biển quốc tế năm 1982[5].

- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991), Đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX (9/1992), Đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều công lao, cống hiến to lớn với nhiều dấu ấn nổi bật cả về đối nội và đối ngoại.

+ Về đối nội:

Chủ tịch nước Lê Đức Anh và các đồng chí trong Bộ Chính trị đã dồn hết tâm lực cho công việc với quyết tâm và cố gắng cao nhất, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phát huy mọi động lực mới, khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống Nhân dân.

Cùng với việc phấn đấu hoàn thành các công việc về công tác xây dựng pháp luật, công tác cán bộ, công tác tiếp dân, công tác thi đua - khen thưởng..., Chủ tịch nước Lê Đức Anh thường tận dụng quỹ thời gian của mình đến các địa phương để nắm bắt tình hình thực tế ở cơ sở, nhìn rõ những thuận lợi cần khai thác, những khó khăn cần tháo gỡ. Đặc biệt sau khi đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý, Đồng chí đã ký Lệnh số 36L/CTN, ngày 10/9/1994 công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng. Cũng kể từ đó, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa và nhận phụng dưỡng suốt đời các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước, thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.

+ Về đối ngoại:

Thấu suốt đường lối đối ngoại của Đảng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại của đất nước, nổi bật là việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ và thúc đẩy Việt Nam gia nhập ASEAN. Bằng những nỗ lực của hai bên, sáng 12/7/1995 (theo giờ Việt Nam), hai nước tuyên bố bình thường hóa quan hệ. Tháng 10/1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh sang New York dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc; đồng chí trở thành Nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam đặt chân tới Mỹ. Cùng với xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp cho tiến trình thúc đẩy để Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995.

Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao các bộ, ngành để mở rộng quan hệ với các nước. Sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ, hàng loạt các quốc gia tìm đến Việt Nam để tìm hiểu và hợp tác, đầu tư về kinh tế và khoa học công nghệ. Cũng trong nhiệm kỳ này, thay mặt Nhà nước và Nhân dân ta, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đi dự một số hội nghị quốc tế quan trọng; thăm chính thức và làm việc với 13 nước trên thế giới; đón tiếp 26 nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức và nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam; tiếp nhận 90 đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài tại Việt Nam và cử 57 đại sứ của nước ta tại các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; ký quyết định phê chuẩn 1 Hiến chương, 26 Công ước, 5 Hiệp ước, 35 Hiệp định, 3 Nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế; trình Quốc hội phê chuẩn 1 Công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước quốc tế về Luật biển); ủy quyền đàm phán và ký kết một số điều ước quốc tế khác.

4. Đồng chí Lê Đức Anh - một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi, thẳng thắn, chân thành, giàu tình yêu thương con người

- Là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở tầm chiến lược, nhưng đồng chí Lê Đức Anh luôn xông xáo, không ngại hiểm nguy, luôn có mặt ở những nơi khó khăn để chỉ đạo cách giải quyết. Trong chiến đấu và trong công việc, Đồng chí rất quyết đoán, thẳng thắn và nghiêm khắc, nhưng trong sinh hoạt đời thường, Đồng chí thương yêu, quan tâm, chăm lo và sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi với cán bộ, chiến sĩ. Là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, khi đến thăm đơn vị quân đội, Đồng chí nói chuyện rất thân mật, gần gũi với các chiến sĩ trẻ. Đồng chí luôn động viên, giúp đỡ các cựu chiến binh khắc phục khó khăn; quan tâm chỉ đạo giải quyết tốt các chế độ chính sách.

- Giản dị, tiết kiệm, ghét thói khoa trương hình thức là đức tính vốn có của đồng chí Lê Đức Anh. Nhiều chuyến đi chỉ mình Đồng chí và trợ lý, không muốn những nghi lễ đón tiếp linh đình. Để nắm bắt tình hình thực tế, nhìn rõ những thuận lợi, khó khăn, Đồng chí luôn lắng nghe để nắm bắt tâm tư, tình cảm của Nhân dân; bởi thế khi làm việc với lãnh đạo các địa phương, đơn vị, những ý kiến chỉ đạo của Đồng chí rất sát đáng và phù hợp với thực tiễn. Đồng chí thường xuyên nhắc nhở lãnh đạo địa phương: “Chúng ta làm làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân[6]; theo đó, cấp ủy, chính quyền địa phương phải có giải pháp thiết thực để bảo đảm các điều kiện phát triển sản xuất, bảo đảm quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.

- Thoát ly và tham gia hoạt động cách mạng từ thời niên thiếu, nhưng Đồng chí luôn nhớ về quê hương với một tình cảm rất sâu đậm. Mỗi lần về quê, Đồng chí thường đi thăm bà con lối xóm, ân cần thăm hỏi cuộc sống, tình hình lao động sản xuất; động viên bà con, họ hàng, con cháu quê nhà chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy tinh thần thi đua yêu nước, tích cực lao động sản xuất để phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.

- Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều cống hiến cho Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân; nhưng cũng suốt cuộc đời, Đồng chí sống giản dị và vô cùng thanh bạch. Sống liêm khiết, giản dị đã trở thành thói quen và nếp sống của Đồng chí ở bất kỳ hoàn cảnh, môi trường nào.

***

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, với bao khó khăn, thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và Nhân dân; đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như Cố Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định, là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta[7],.

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân những cống hiến to lớn của Đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc; tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng của đồng chí; nêu cao ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, đoàn kết xây dựng quê hương, đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu của chúng ta.

 BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT NAM


 Cách mạng Tháng Mười Nga - mốc mới trong lịch sử của nhân loại

Đêm 7/11/1917 (25/10 theo lịch Nga cũ), quân khởi nghĩa tấn công vào Cung điện Mùa Đông ở Petrograd, mở đầu cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. 

Cách đây 103 năm, vào đúng ngày 7/11/1917, cuộc tiến công Cung điện mùa Đông ở Petrograd bắt đầu và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bolshevik Nga đứng đầu là lãnh tụ Vladimir Iliych Lenin đã giành thắng lợi ở Petrograd và nhanh chóng lan tỏa ra toàn nước Nga.

Cuộc khởi nghĩa vũ trang lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản đã lập nên Nhà nước Liên Xô - nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

Vào ngày này, người dân thế giới lại cùng nhau nhớ về một bước đột phá mạnh mẽ của nhân loại, bước đột phá của những người đã phá bỏ gông cùm của nền quân chủ chuyên chế và sự áp bức của chủ nghĩa tư bản.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đánh dấu mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại, đã tạo ra nhà nước của người lao động, thể hiện giấc mơ của toàn nhân loại.

Cách mạng tháng Mười Nga đã "làm rung chuyển thế giới," phá tan một mảng lớn trong hệ thống chủ nghĩa tư bản, đế quốc, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại.

Lần đầu tiên trong lịch sử, những người lao động đã đứng lên giành lấy chính quyền về tay mình để xây dựng một xã hội hoàn toàn mới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự ra đời của Nhà nước Liên Xô do lãnh tụ Lenin sáng lập đã làm thay đổi căn bản số phận dân tộc Nga, đưa nước Nga từ một nước phong kiến, tư bản lạc hậu, nghèo đói trở thành một cường quốc kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học, kỹ thuật, văn hoá, giáo dục... hàng đầu thế giới; đưa quần chúng công-nông từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; vai trò, vị thế của nước Nga trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

Không những vậy, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã tiếp sức cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Từ thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, một làn sóng cách mạng vô sản ở châu Âu đã bùng lên mạnh mẽ, tạo ra một cao trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, làm rung chuyển nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước. Một hệ thống xã hội chủ nghĩa đã ra đời, đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát triển của thế giới hiện đại.

Cách mạng tháng Mười Nga còn tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị-xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc; đã thức tỉnh, cổ vũ các dân tộc thuộc địa bị áp bức và các nước phụ thuộc vùng dậy đấu tranh vì độc lập tự do, đem lại niềm tin và niềm hy vọng về khả năng tự giải phóng.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, những thành tựu và chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ II cũng đã thức tỉnh và cổ vũ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội ở chính ngay các nước tư bản phát triển, buộc chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc cũng phải có những điều chỉnh để thích nghi, tồn tại.

Với những ý nghĩa to lớn và sâu sắc như vậy, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga thực sự đã sáng tạo ra một kỷ nguyên mới của nước Nga, đồng thời đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại. Nó đã vượt khỏi không gian và thời gian, trở thành biểu tượng vĩ đại của thời đại.

Hơn một thế kỷ đã trôi qua, những tinh hoa, giá trị thời đại của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vẫn luôn tỏa sáng, là nguồn động lực lớn thôi thúc và khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân tiến bộ toàn thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Khi đánh giá về vai trò, ý nghĩa của Cách mạng tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như Mặt Trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”; “Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và của cả loài người”./.

Kết quả bầu Tổng thống Mỹ tác động tới quan hệ Việt - Mỹ như thế nào?

 

Trả lời câu hỏi này, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Dương Hoài Nam bày tỏ tin tưởng, vị Tổng thống Mỹ nào cũng sẽ ủng hộ tiến trình phát triển toàn diện, sâu sắc quan hệ Việt - Mỹ.

Phó phát ngôn Dương Hoài Nam là người chủ trì cuộc họp báo tại Bộ Ngoại giao chiều 5/11.

Tại họp báo, ông Nam nhận được đề nghị bình luận về diễn biến cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Kết quả cuộc bầu cử sẽ ảnh hưởng thế nào đến quan hệ Việt - Mỹ thời gian tới?

Trả lời câu hỏi, ông Dương Hoài Nam khẳng định, trước hết, bầu cử Tổng thống Mỹ là công việc nội bộ của nước  Mỹ và chỉ người dân Mỹ mới có quyền quyết định.

Về tác động của cuộc bầu cử với quan hệ Việt - Mỹ, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh, sau 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã có bước tiến dài với sự phát triển toàn diện, thực chất, ngày càng đi vào chiều sâu. Đây là nền tảng vững chắc để ngày càng thúc đẩy mối quan hệ giữa 2 nước phát triển vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

Người phát ngôn bày tỏ tin tưởng rằng, bất cứ Tổng thống Mỹ nào cũng ủng hộ tiến trình này.

Ông Dương Hoài Nam cũng nêu rõ, Việt Nam coi Mỹ là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau, hợp tác cùng có lợi.

“Việt Nam mong muốn Mỹ cùng mở rộng, củng cố mối quan hệ 2 nước phát triển thực chất, hiệu quả và bền vững. Việt Nam hoan nghênh vai trò và sáng kiến của Mỹ, góp phần duy trì hoà bình, an ninh, hợp tác và phát triển của khu vực, trong đó có việc ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN, hài hoà với các cơ chế hợp tác khu vực, phù hợp luật pháp quốc tế” - Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao nói.

Theo Dantri.com

Việt Nam nói về dự thảo Trung Quốc cho hải cảnh 'dùng vũ lực'

 

   Bộ Ngoại giao cho rằng các nước cần đối xử công bằng, nhân đạo với ngư dân, khi bình luận về thông tin Trung Quốc ra dự thảo cho phép hải cảnh dùng vũ lực với tàu cá nước ngoài.

"Hội thảo ASEAN - Trung Quốc về thúc đẩy hợp tác, đối xử công bằng và nhân đạo với ngư dân vừa diễn ra ngày 4/11. Đây cũng là hướng mà chúng tôi muốn chuyển thông điệp với các nước trong khu vực và ASEAN, về tìm cách bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của ngư dân Việt Nam và các nước đánh cá trong vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia mình", phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Dương Hoài Nam nói trong cuộc họp báo chiều 5/11.

Tuyên bố được ông Dương Hoài Nam đưa ra khi được yêu cầu bình luận về dự thảo của quốc hội Trung Quốc, cho phép hải cảnh nước này sử dụng vũ khí với tàu nước ngoài.

"Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam luôn ủng hộ giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982", ông Nam nói thêm.

Tàu hải cảnh Trung Quốc trong một chuyến áp sát Senkaku/Điếu Ngư. Ảnh: JCG.

Tàu hải cảnh Trung Quốc trong một chuyến áp sát nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông. Ảnh: JCG.

Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, tức quốc hội Trung Quốc, hôm 4/11 lần đầu tiên công bố dự thảo về trách nhiệm của hải cảnh, trong đó quy định lực lượng này có quyền dùng vũ lực xua đuổi tàu nước ngoài xâm nhập lãnh hải Trung Quốc và thẩm vấn các thuyền viên. Dự thảo cũng cho phép lực lượng hải cảnh sử dụng vũ khí nhằm vào các tàu không tuân thủ quy định về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Trung Quốc.

Trung Quốc gần đây thực hiện một loạt hoạt động gây hấn ở Biển Đông trong bối cảnh các nước tập trung đối phó với Covid-19. Bắc Kinh điều tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, sau đó bám sát tàu khoan của Malaysia. Tàu hải cảnh Trung Quốc cũng đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam. Bắc Kinh còn đơn phương tuyên bố thành lập các đơn vị hành chính ở Biển Đông, đặt tên cho các thực thể và cấm đánh bắt cá.

Trung Quốc năm nay 21 lần điều tàu hải cảnh áp sát nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư để thách thức tuyên bố chủ quyền của Nhật Bản. Tàu hải cảnh Trung Quốc từng hiện diện trong khu vực này suốt 111 ngày, đánh dấu đợt áp sát liên tục lâu nhất từ khi Nhật Bản quốc hữu hóa một số đảo thuộc Senkaku/Điếu Ngư từ tháng 9/2012.

QUAN TÂM CUỘC SỐNG NGƯỜI NGHÈO, ĐỐI TƯỢNG YẾU THẾ

 Mới đây, tại cuộc họp của Thường trực Chính phủ họp về chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho người bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ, tình thế cấp bách hiện nay đòi hỏi chúng ta trước mắt phải lo cho cuộc sống nhân dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế, người làm bán thời gian, người mất việc làm, thu nhập để bảo đảm đời sống ở mức cơ bản tối thiểu, do đó cần quyết định gói hỗ trợ cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội.

Những quyết sách kịp thời, phù hợp sẽ làm ấm lòng biết bao gia đình nghèo, hoàn cảnh khó khăn. Theo dự kiến, hỗ trợ thêm (ngoài mức trợ cấp thường xuyên) 500.000 đồng/người/tháng, từ tháng 4 đến tháng 6-2020 cho các đối tượng là người có công với cách mạng đang hưởng trợ cấp ưu đãi hằng tháng, đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng… Cùng trong thời gian này hỗ trợ một triệu đồng/hộ/tháng cho các đối tượng là hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia (trong danh sách đến ngày 31-12-2019); hỗ trợ 1,8 triệu đồng/người/tháng với các đối tượng là người lao động bị tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ không lương tại các doanh nghiệp; hỗ trợ một triệu đồng/người/tháng cho các đối tượng là người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động nhưng chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, lao động không có giao kết hợp đồng lao động, mất việc làm; hỗ trợ một triệu đồng/hộ/tháng cho đối tượng là hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm tạm ngừng kinh doanh… Bên cạnh đó, người sử dụng lao động được vay Ngân hàng Chính sách xã hội với lãi suất 0%, thời hạn vay không quá 12 tháng, mức vay tối đa theo 50% mức lương tối thiểu vùng/tháng/người để trả lương cho người lao động bị ngừng việc trong ba tháng và có trách nhiệm trả số tiền lương ngừng việc còn lại cho người lao động…

Việc hỗ trợ cần thực hiện trên các nguyên tắc chủ yếu: Hỗ trợ đối tượng bị giảm sâu thu nhập, mất, thiếu việc làm, không bảo đảm mức sống tối thiểu do tác động trực tiếp bởi dịch Covid-19 gây ra; Nhà nước và doanh nghiệp cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc bảo đảm cuộc sống cho người lao động; đồng thời việc hỗ trợ bảo đảm đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không để lợi dụng, trục lợi chính sách, phát sinh tiêu cực, khiếu kiện, khiếu nại. Có thể thấy, gói hỗ trợ an sinh xã hội lần này là bước đi thật sự cần thiết, mang tính thời sự cao. Qua đây thể hiện rõ thông điệp lớn của Đảng và Nhà nước ta vì một xã hội đoàn kết, tương thân, tương ái, vì mục tiêu cao cả “không một ai bị bỏ lại phía sau”. Khi Nghị quyết của Chính phủ được ban hành, cần sớm có những cách làm thiết thực, hiệu quả, rút ngắn thời gian, thủ tục hưởng trợ cấp để người lao động, gia đình có hoàn cảnh khó khăn có thể tiếp nhận nhanh nhất các khoản hỗ trợ từ Chính phủ và các địa phương để chủ động vượt khó, ổn định cuộc sống.

Bên cạnh hỗ trợ, giúp đỡ về tài chính, vấn đề quan trọng khác cần được quan tâm là đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, thông tin, nâng cao nhận thức tự giác phòng tránh dịch bệnh đối với những hộ nghèo, hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn, người khuyết tật. Do đó, các cấp, các ngành, đoàn thể chính trị - xã hội ở mỗi khu dân cư, tổ dân phố cần tiếp tục thực hiện các biện pháp phù hợp để từng người dân hiểu và tự giác thực hiện, tránh tâm lý hoang mang trong cộng đồng. Tích cực vận động cán bộ, hội viên ở các tổ chức đoàn thể nêu cao tinh thần đoàn kết, “tương thân tương ái”, khuyến khích lan tỏa hơn nữa những sáng kiến hay, cách làm tốt ngay tại cơ sở như may khẩu trang, hỗ trợ lương thực, hướng dẫn cách khử trùng, kỹ năng rửa tay bằng xà-phòng,... Mỗi cá nhân, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, cần phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, có trách nhiệm bảo vệ sức khỏe bản thân, cũng như của cộng đồng, chung tay cùng hệ thống chính trị quyết tâm chiến thắng đại dịch, sớm ổn định cuộc sống.

Theo báo lao động

BẢN CHẤT ƯU VIỆT CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - HIỆN THỰC KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN, KHÔNG THỂ BÁC BỎ

 Việt Nam sẽ vượt qua bóng tối của dịch bệnh COVID-19 bằng ánh sáng chân lý, hệ giá trị tư tưởng và lựa chọn của riêng mình. Trong bóng tối, nhân loại có thể nhìn thấy rõ hơn những điểm sáng. Điểm sáng của chủ nghĩa xã hội hiện thực vốn vẫn sáng và tiếp tục tỏa sáng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đó là nguyên tắc được Đảng ta quán triệt và kiên định trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều vấn đề nhưng trung tâm là học thuyết về phát triển và giải phóng con người mang giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc.

Vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn nêu cao phương châm lấy con người trung tâm của quá trình phát triển, con người là chủ thể, là mục tiêu, và động lực của quá trình phát triển. Chính vì vậy, cần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển. Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta được cụ thể hóa bằng rất nhiều các chính sách của Nhà nước trong những năm qua.

Quan điểm phát triển lấy con người làm trung tâm được hiện thực hóa qua sự cải thiện liên tục về chỉ số phát triển con người Việt Nam. UNDP đánh giá chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 1,36%, đưa Việt Nam trở thành nước có tỉ lệ tăng HDI nhanh nhất trên thế giới. Với chỉ số HDI là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118/189 quốc gia và vùng lãnh thổ về phát triển con người và chỉ thiếu 0,007 điểm để được xếp vào nhóm các nước có HDI cao.

Chỉ số HDI được cải thiện mạnh nhưng Việt Nam không phải đánh đổi nhiều về bất bình đẳng xã hội. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ở Việt Nam chiếm 88,5% dân số, thuộc nhóm đứng đầu thế giới, trong đó, ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ và hỗ trợ một phần cho trên 60% số người tham gia bảo hiểm y tế.Tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn dưới 4%, 13% dân số thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế giới và đang tiếp tục gia tăng nhanh chóng tăng với mức tăng hơn 20% trong thập kỷ qua.

Con người được làm chủ, được phát huy sức sáng tạo, được thụ hưởng thành quả từ lao động. Kinh tế thị trường - sản phẩm của văn minh nhân loại được vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam như một công cụ để thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã tạo ra một hệ thống thị trường đầy đủ, đồng bộ, phát triển đa dạng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất đến các thị trường cung cấp các loại hàng hóa cho tiêu dùng. Hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, đã tạo lực hấp dẫn, thu hút lượng vốn đầu tư lớn trong nước và nước ngoài. Doanh nghiệp, người dân được tự do kinh doanh, được làm những gì pháp luật không cấm.

Khu vực tư nhân Việt Nam đang dần lớn mạnh, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế và là lực lượng quan trọng trong thực hiện trách nhiệm xã hội. Quan hệ kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng. Cho đến nay, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có độ mở của kinh tế lớn hàng đầu thế giới. So với quy mô GDP, vị thế chính trị, văn hóa, ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế lớn mạnh hơn rất nhiều.

Thời gian vừa qua, trong khi các nước đã chỉ trích nhau, đổ lỗi cho nhau, thậm chí miệt thị nhau, giới chính trị gia, các đảng phái, người dân ở nhiều nước còn lừng chừng, tranh luận về quyền con người, quyền công dân, quyền tự do đi lại, giao tiếp xã hội để phản ứng lại các đề xuất chính sách hạn chế đi lại, giãn cách xã hội, hay thực hiện các biện pháp phòng hộ cá nhân tại nơi công cộng của Chính phủ, virus Corona đã âm thầm lan nhanh, lan rộng rồi bùng phát tại nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là ở châu Âu, châu Mỹ.

Hậu quả của phản ứng chính sách có phần chậm trễ của các quốc gia này đã thấy rõ, thể hiện ở sự gia tăng vô cùng nhanh chóng số ca nhiễm bệnh và số người tử vong. Trong khi đó, Việt Nam được báo chí quốc tế nhắc đến như một hình mẫu của kiểm soát hiệu quả dịch bệnh do Covid-19 gây ra. Cho đến nay, Việt Nam nằm trong số ít nước có số người nhiễm thấp, tốc độ lây lan chậm và chưa có ca nhiễm bệnh nào tử vong.

Thành công đến từ quản trị hiệu quả khủng hoảng, từ sự chung sức, đồng lòng của người dân, doanh nghiệp, từ sự đoàn kết, thống nhất của toàn bộ hệ thống chính trị. Tất cả những kết quả Việt Nam đạt được trong cuộc chiến chống dịch Covid -19 được biểu hiện sinh động và cụ thể. Có thể gọi không quá, đó là “hiện tượng Việt Nam” trong cuộc chiến đấu chống đại dịch toàn cầu. Sâu xa hơn, không phải chỉ là hiện tượng, không phải ngẫu nhiên, càng không phải do may mắn, những kết quả có được hôm nay là tất yếu - sự tất yếu xuất phát từ bản chất ưu việt của chế độ chính trị Việt Nam, của nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Lấy con người làm trung tâm của quá trình phát triển, đòi hỏi phải bảo đảm các quyền tối thiểu của con người, mà trước hết, ngay lúc này là quyền được sống, quyền được bảo đảm an toàn trước dịch bệnh. Việt Nam đã chủ động lên phương án phòng chống dịch từ rất sớm, từng bước đi, từng quyết sách ứng phó được ban hành bài bản, tích cực, quyết liệt nhưng vô cùng thận trọng, chắc chắn, không tạo ra các cú sốc lớn lên đời sống người dân, đặc biệt tạo ra sự vững tâm và lòng tin của người dân với Đảng, với Chính phủ.

Các khu cách ly tập trung dần được thiết lập để đón nhân dân, trong số đó, có rất nhiều người Việt Nam đang học tập và làm việc ở nước ngoài về quê hương tránh dịch. Cán bộ trong hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang các cấp, từ trung ương đến tận thôn bản căng mình thực thi nhiệm vụ, sát sao, ngày đêm bám sát địa bàn thực hiện nhiệm vụ, nhường chỗ ăn, chỗ nghỉ tốt nhất cho dân.

Rõ ràng, quyền con người ở Việt Nam không phải là bánh vẽ, không phải là khẩu hiệu, là hiện thực trong thời khắc vô cùng gian nan, sinh tử này.

Chi phí sinh hoạt tại các khu cách ly tập trung, chi phí khám chữa cho người có bệnh nền trong các khu cách ly, các khu dân cư bị phong tỏa được nhà nước cung cấp miễn phí cho nhân dân, người dân được tạo điều kiện tốt nhất để vừa cách ly vừa có thể làm việc, thi trả bài, học online ở các trường đại học trên khắp thế giới. Các bệnh nhân dương tính được điều trị miễn phí tại các cơ sở y tế, công tác điều trị được thực hiện hết sức tích cực với mục tiêu không để xảy ra tử vong vì dịch Covid-19.

Chính sách này chỉ có thể được thực hiện ở một chế độ xã hội nhân văn như Việt Nam, bởi lẽ, không chỉ người dân, doanh nghiệp mà nhà nước cũng đang trăm mối bộn bề khi thu ngân sách nhà nước đang chịu những tác động rất tiêu cực từ dịch bệnh toàn cầu.

Chính sách đảm bảo an sinh xã hội đối với người dân, doanh nghiệp chịu tác động của dịch được ban hành khẩn trương thể hiện rõ nét tinh thần của Chính phủ hành động, phục vụ. Theo đó, gói hỗ trợ có giá trị khoảng 62.000 tỷ đồng, áp dụng cho gần 20 triệu đối tượng chính sách và người lao động chịu ảnh hưởng của dịch. Sáu nhóm đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ trực tiếp. Các đối tượng của chính sách bao gồm đối tượng bị giảm sâu thu nhập, mất việc làm, không bảo đảm mức sống tối thiểu, trong đó có nhóm đối tượng người nghèo, cận nghèo, người có công, lao động có hợp đồng bị nghỉ việc không lương, lao động tự do mất việc làm… Mức hỗ trợ bằng tiền mặt trong 3 tháng (tháng 4, 5, 6/2020).

Nhóm đối tượng là doanh nghiệp, người sử dụng lao động được vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội với lãi suất 0%, thời hạn không quá 12 tháng, mức vay tối đa theo 50% mức lương tối thiểu vùng/tháng/người để trả lương cho người lao động bị ngừng việc trong ba tháng. Ngoài ra, nhiều hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp và người lao động đã được đề xuất như được tạm dừng đóng quỹ hưu trí và tử tuất đối với các doanh nghiệp phải giảm 50% lao động do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; doanh nghiệp và người lao động được tạm dừng đóng, miễn đóng bảo hiểm thất nghiệp, miễn giảm các loại thuế, phí… cho người dân, doanh nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước đã chủ động bố trí nguồn hàng tăng cường dự trữ quốc gia, chủ yếu là thực phẩm để hỗ trợ cho người dân ở các vùng khó khăn, bảo đảm không ai bị đói.

Tất nhiên, mọi sự so sánh là khập khiễng nhưng những gì xảy ra trên thực tế cho thấy bản chất ưu việt của chế độ ta là không thể phủ nhận, không thể chối cãi bằng bất cứ luận điệu xuyên tạc nào.

Khi đại dịch toàn cầu bùng phát và ngày càng lan rộng, nhiều nước, ngay cả các nước là đồng minh của nhau đã và đang thực hiện các hành động giành giật, tranh mua các lô khẩu trang, thiết bị y tế, nhưng với Việt Nam, ngay trong thời khắc khó khăn, vẫn hành xử một cách có lương tri, có phẩm giá. Đó là, hỗ trợ thành phố Vũ Hán, hỗ trợ nước bạn Lào, Campuchia, hỗ trợ Hoa Kỳ, các nước châu Âu vật tư, thiết bị y tế phòng chống dịch.

Hành xử đó không chỉ biểu hiện bản chất nhân văn cao đẹp của một chế độ xã hội mà còn thể hiện một tinh thần quốc tế cao cả. Giá trị vật chất có thể không lớn, nhưng hành động đẹp, đúng lúc cần thiết sẽ khẳng định giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội, củng cố lòng tin của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam.

Việt Nam sẽ vượt qua bóng tối của dịch bệnh bằng ánh sáng chân lý, hệ giá trị tư tưởng và lựa chọn của riêng mình. Trong bóng tối, nhân loại có thể nhìn thấy rõ hơn những điểm sáng. Điểm sáng của chủ nghĩa xã hội hiện thực vốn vẫn sáng và tiếp tục tỏa sáng.

Sớm muộn gì, thế giới cũng chiến thắng dịch bệnh, nhưng mức độ tàn phá của dịch bệnh, sinh mạng con người mất đi phụ thuộc rất nhiều vào chính sách ứng phó với khủng hoảng của các quốc gia. Kinh tế rồi sẽ phục hồi, nhưng người đã mất không thể hồi sinh. Ứng phó hiệu quả, nhân văn trước khủng hoảng dịch bệnh có lẽ phụ thuộc vào bản chất nhà nước chứ không phải bất kỳ lý lẽ nào khác.

Theo Internet

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VĨ ĐẠI MỞ RA CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG CHO CÁC DÂN TỘC

Chủ tịch Hồ Chí Minh có những đánh giá, nhận định, khách quan, toàn diện và ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thời đại của cách mạng Tháng Mười Nga, cụ thể là:

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (7/11/1917 - 7/11/1967), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” cho Báo Pravđa (Liên Xô cũ), Người không những khẳng định ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thời đại của cuộc cách mạng này mà còn chỉ ra những vấn đề cơ bản của các mạng xã hội chủ nghĩa.

 


Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Chiến hạm Rạng Đông ở Leningrad, tháng 8-1957. Ảnh:Vietnam+

Một là, về tính chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga

Trong lịch sử loài người đã diễn ra những cuộc cách mạng xã hội khác nhau. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi sự bóc lột, áp bức và bất công, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.

Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản để phân biệt các cuộc cách mạng khác nhau trong lịch sử. Cơ sở để xác định tính chất của một cuộc cách mạng xã hội là từ nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn cơ bản của xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga mang tính chất toàn diện, triệt để, gay go, quyết liệt, phức tạp và lâu dài; mang tính nhân dân, tính quốc tế sâu sắc. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Cách mạng Tháng Mười là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác và học thuyết Lênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng một phần sáu thế giới. Đó là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức do giai cấp công nhân và đội tiền phong của họ là Đảng Bônsêvích lãnh đạo”(1).

Hai là, về mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là cuộc cách mạng thực hiện mục tiêu rất cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại và giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội mới không còn sự phân chia giai cấp và thực hiện các mục tiêu của thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người đánh giá: “Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản từ chỗ chỉ là một ước mơ cao đẹp của loài người, sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại đã trở thành một hiện thực trong xã hội, có sức mạnh vô cùng to lớn lôi cuốn hàng nghìn triệu người vào hành động cách mạng, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(2).

Như vậy, mục tiêu trước mắt của cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga nói riêng là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, để từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới để tiến đến mục tiêu lâu dài đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản văn minh trên phạm vi từng nước và toàn thế giới. Mục đó phản ánh tập trung, sâu sắc tính chất cách mạng triệt để và tính nhân văn, nhân đạo mà các cuộc cách mạng xã hội trước không thể thực hiện được.

 


Lãnh tụ Đảng Bolshevich V. I. Lenin tuyên bố thành lập chính quyền Xô Viết tại Đại hội Xô Viết ngày 7-11-1917 tại điện Smolny, ngay sau khi chiếm Cung điện mùa Đông. Ảnh tư liệu

Ba là, về động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, động lực chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga chính là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức Nga; trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo và quyết định sự thắng lợi của cách mạng, sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính quyền của công - nông - binh, chính quyền Xôviết: “Cách mạng Tháng Mười đã dùng bạo lực cách mạng đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, một xã hội không có người bóc lột người”(3).

Từ bài học của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định liên minh công nông vừa là động lực vừa là yếu tố căn bản, bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng “Thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội”(4).

Xây dựng, củng cố vững chắc khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức sẽ tạo nên một lực lượng cách mạng to lớn, đủ sức để lật đổ giai cấp tư sản. Đồng thời, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa luôn phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng cách mạng; phát huy sức mạnh của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nếu chỉ tuyệt đối hoá hoặc coi nhẹ một lực lượng cách mạng nào, ở trong nước hay quốc tế thì sự nghiệp cách mạng ở nước đó khó có thể thành công. Đặc biệt, trong khối liên minh ấy, theo Người: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(5).

Thứ tư, về nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga

Về nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đó là cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá. Trong đó, Người nhấn mạnh hai nội dung căn bản là chính trị và kinh tế.

Nội dung cách mạng về chính trị: lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản Nga, giành quyền lãnh đạo xã hội về giai cấp công nhân Nga, giải phóng nhân dân lao động khỏi địa vị nô lệ và trở thành người làm chủ xã hội mới “đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính quyền của những người lao động”(6). Cách mạng về chính trị có vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, bởi nó là cơ sở và tiền đề cho việc thực hiện các nội dung cách mạng về kinh tế, tư tưởng, văn hoá. Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, là công cụ thống trị xã hội, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Do vậy, để xoá bỏ xã hội tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội mới, thì giai cấp công nhân thông qua chính đảng của mình lãnh đạo nhân dân lao động làm cuộc cách mạng về chính trị là màn giáo đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không ngừng tăng cường và củng cố nền chuyên chính vô sản. Sau khi đã giành được chính quyền thì nhiệm vụ hàng đầu của giai cấp công nhân là phải tăng cường nền chuyên chính vô sản để hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng”(7).

Nội dung cách mạng về kinh tế: đây là nội dung có ý nghĩa quyết định sự thắng lợi vững chắc của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội muốn chiến thắng phải tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động. Cho nên, giai cấp công nhân phải thực hiện nội dung cách mạng về kinh tế nhằm từng bước xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, thay đổi địa vị kinh tế - xã hội của nhân dân lao động. Chính vì vậy, Người nhấn mạnh: “triệt để xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội để tiến lên chủ nghĩa cộng sản”(8).

Thứ năm, về ý nghĩa lịch sử của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ý nghĩa lịch sử về nhiều mặt, không chỉ vạch mốc thời đại, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Nga và các dân tộc bị nô dịch, phụ thuộc trên thế giới, mà còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở chỗ đã trở thành ngọn cờ hiệu triệu của thời đại mới, thời đại đấu tranh vì những mục tiêu cao cả: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đánh giá tổng quát về ý nghĩa lịch sử của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(9). Với ý nghĩa đó, Người khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và của cả loài người”(10).

Không chỉ trong bài viết “Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” mà trong nhiều bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những sự kiện có ý nghĩa và mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều chịu tác động của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười. Người chỉ rõ: “Kinh nghiệm bản thân của Việt Nam chứng tỏ rằng chính là nhờ Đảng của những người Bônsêvích và của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại mà ở Việt Nam đã có một đảng mácxít lêninnít và Cách mạng Tháng Tám của chúng tôi đã giành được thắng lợi”(11). Theo đó, mười lăm năm sau ngày thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được chính quyền, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Hồ Chí Minh cho rằng: Đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã kiên quyết đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Năm 1945 đã làm Cách mạng Tháng Tám đánh đổ thực dân giải phóng đất nước, xây dựng chính quyền nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ sự đúng đắn của con đường Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra.

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười vào thực tế Việt Nam. Những bài học đó không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn có giá trị lý luận và thực tiễn lâu dài. Người không chỉ căn dặn nhân dân ta mà còn tuyên bố với bạn bè quốc tế rằng: “Kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười, những thành tựu của Liên Xô là ngôi sao chỉ đường cho chúng tôi trong sự nghiệp xây dựng một cuộc đời hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam”(12).

Một quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận mang tính chỉ đạo lâu dài đối với Đảng và nhân dân ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”(13).

Hiện nay, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm 102 năm (7/11/1917 - 7/11/2019) ngày Cách mạng Tháng Mười Nga thành công thì quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng đắn rằng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 33 năm đổi mới có mối liên hệ biện chứng với con đường Cách mạng Tháng Mười. Chính vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định tinh thần đó và bổ sung: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(14), con đường do Cách mạng Tháng Mười khai phá, chỉ lối./.

Chú thích

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), Hồ Chí Minh (1967), “Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.387-388; tr.390; tr.387; tr.391; tr.391; tr.388; tr.391; tr.392; tr.387; 390; tr.397.

(11) Hồ Chí Minh (1957), “Lời phát biểu tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân các nước xã hội chủ nghĩa”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.190;

(12) Hồ Chí Minh (1957), “Bài phát biểu tại khóa họp Tối cao Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.180.

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 69.

Theo http://hochiminh.vn/


Nâng cao "sức đề kháng" của bộ đội và nhân dân trước các thông tin xuyên tạc

Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thông qua thực hiện “diễn biến hòa bình”. Mục tiêu không bao giờ thay đổi của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt, khi chúng ta vừa tiến hành xong đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các thế lực thù địch càng ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá. Chúng coi đây là thời cơ để thực hiện mưu đồ chính trị.

Bóp méo, xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng.

Mục tiêu, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động không mới, chỉ có điều, trong từng thời điểm và tùy vào tình hình cụ thể, chúng điều chỉnh về hình thức, mức độ và tần suất. Một trong những chiêu trò, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động là triệt để lợi dụng chủ trương lấy ý kiến xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng để chống phá. Thông qua mạng xã hội, các trang web và một số báo mạng thiếu thiện chí với Việt Nam, các nhóm phản động ở hải ngoại kết hợp với những phần tử cơ hội chính trị trong nước ra sức tuyên truyền xuyên tạc, tác động nhằm "nắn dòng dư luận", làm chệch hướng mục tiêu cách mạng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta hướng theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

Một đề tài được các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc từ nhiều năm nay, đó là công kích, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Chủ đề này luôn được chúng gia tăng trước các kỳ đại hội, và Đại hội XIII của Đảng không là ngoại lệ. Trước thềm đại hội, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, các thế lực thù địch, phản động móc nối, lôi kéo và sử dụng những phần tử cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất ngay trong nội bộ ta, núp dưới vỏ bọc “đóng góp” vào dự thảo các văn kiện đại hội Đảng để xuyên tạc sự thật, công kích, chống phá ta dưới nhiều hình thức. Đáng lưu ý là những bức “thư ngỏ”, “thư trao đổi”, “thư góp ý”... mang tư tưởng, quan điểm sai trái, lệch lạc, do một số người soạn thảo rồi giao cho một nhân vật đứng tên đưa lên mạng xã hội, gửi tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nếu chỉ lướt qua những bức thư kiểu ấy, chúng ta dễ lầm tưởng đó là những ý kiến tâm huyết, trách nhiệm, mang tính xây dựng.

Nhưng đọc kỹ và soi vào thực tiễn mới thấy, thực chất đó là những luận điệu hết sức nguy hiểm, ngụy biện nhằm phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận con đường xây dựng, đi lên CNXH mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn; cố tình bóp méo lịch sử, xuyên tạc tình hình đất nước; làm lu mờ những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trên các lĩnh vực, đồng thời thổi phồng những tồn tại, hạn chế của Đảng và Nhà nước trong quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước... nhằm mục tiêu hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng.

Các thế lực thù địch đang muốn tạo ra trong nội bộ Việt Nam, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên một “khoảng trống” về tư tưởng chính trị hòng thay dần bằng một hệ tư tưởng mới-tư tưởng dân chủ tư sản. Với cái nhìn chủ quan, phiến diện, một chiều, họ ra sức tô vẽ, ca ngợi xã hội dân chủ tư sản; mặt khác, họ quy kết rằng nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của đất nước là do "bản chất chế độ"; do “mất dân chủ”, "yếu kém về năng lực lãnh đạo" của Đảng Cộng sản. Họ xuyên tạc rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn; lựa chọn con đường xây dựng CNXH là sai lầm của Việt Nam và muốn khắc phục những yếu kém ấy, muốn có nền dân chủ thực sự, muốn đưa đất nước phát triển nhanh hơn thì phải từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; từ bỏ mục tiêu, con đường xây dựng CNXH, từ bỏ vai trò cầm quyền, duy nhất lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng Đại hội XIII là thời cơ để Đảng ta sửa sai, để Việt Nam đổi mới, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng là công việc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của đại hội và việc tổ chức triển khai đưa nghị quyết đại hội đi vào cuộc sống. Đây cũng là nội dung mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội tập trung chống phá. Chẳng hạn, họ lợi dụng việc Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo tinh thần “không có vùng cấm”; xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước để bóp méo, xuyên tạc, cho rằng đó là cuộc “thanh trừng nội bộ”, “trả thù lẫn nhau” giữa các cá nhân, phe nhóm... Từ những thông tin cóp nhặt ngoài luồng, họ “dựng lên” danh sách các nhân sự sẽ giữ các trọng trách: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội; nhân sự trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư... rồi đem ra bình phẩm, phán xét, so sánh... Đặc biệt nguy hiểm hơn, chúng còn dựng chuyện, xuyên tạc, tung tin rằng công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam có sự tranh giành, "đấu đá" nhau và chịu sự can thiệp của thế lực từ bên ngoài...

Tỉnh táo nhận diện, chủ động đấu tranh.

Nội dung quan trọng được Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhấn mạnh và yêu cầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị đại hội đảng các cấp, nhất là Đại hội XIII của Đảng là phải chuẩn bị thật tốt và kỹ càng cả về nội dung dự thảo các văn kiện và công tác nhân sự. Đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần yêu cầu cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể phải nêu cao tinh thần cảnh giác, nâng cao ý thức tự “đề kháng”, năng lực phản bác của nhân dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch nhằm phá hoại đại hội Đảng.

Một trong những vấn đề cốt yếu được Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam xác định đó là phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục củng cố và nâng cao nhận thức về bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đứng vững trên nền tảng tư tưởng ấy, chúng ta mới đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, có cái nhìn khách quan và toàn diện, phân biệt rõ đúng-sai, đủ "sức đề kháng" và có năng lực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh thuyết phục vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng thế giới nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng. Những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là gần 35 năm đổi mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta giành được đã được bạn bè trên thế giới thừa nhận, đã chứng minh bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Đảng ta. Đó cũng là minh chứng hùng hồn khẳng định việc “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động...” là hoàn toàn đúng đắn. Tất cả những gì đã và đang diễn ra là thực tế không một thế lực nào có thể phủ nhận.

Trong chỉ đạo tiến hành các khâu, các bước để tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cùng với chuẩn bị văn kiện, Đảng ta rất coi trọng công tác chuẩn bị nhân sự. Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của trên, hiện nay, 67/67 đảng bộ trực thuộc Trung ương đã tổ chức thành công đại hội nhiệm kỳ 2020-2025. Mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ, tâm huyết, sự sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, các tầng lớp nhân dân trong xây dựng các văn kiện và công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng là chủ trương đúng đắn của Đảng ta. Đây là công việc rất hệ trọng, mang tính quyết định đến vận mệnh, tương lai phát triển của đất nước.

Để đấu tranh, ngăn chặn những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, một trong những yêu cầu hàng đầu mà Đảng ta đặt ra trong công tác nhân sự là phải thực hiện đúng các nguyên tắc, quy trình, trên cơ sở phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu. Đề cập đến vấn đề này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đại hội là dịp để ta sàng lọc cán bộ chứ không chỉ bàn phương hướng. Ai xứng đáng thì làm, không thì thôi, không sợ thiếu cán bộ”. Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng ta về chuẩn bị văn kiện và công tác nhân sự Đại hội XIII là rất dân chủ, rõ ràng, minh bạch.

Phát huy dân chủ, tôn trọng và ghi nhận những ý kiến đóng góp của các tổ chức đảng, đảng viên và các tầng lớp nhân dân là rất cần thiết. Nhưng trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận diện và cương quyết đấu tranh. Trước hết cần có sự nhìn nhận, đánh giá, phân tích kỹ lưỡng, thận trọng, tuyệt đối không để kẻ xấu lợi dụng công việc ý nghĩa này để thực hiện những mục đích cá nhân, mưu đồ đen tối, kích động chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.


Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, từng cán bộ, chiến sĩ và từng người dân, khi tiếp cận với những thông tin, tài liệu tán phát trên mạng cần phải tỉnh táo nhận diện đâu là thông tin tốt, đâu là thông tin xấu, đâu là thông tin có cơ sở, đâu là thông tin xuyên tạc, quy chụp, bịa đặt; tránh bị cuốn theo những giọng điệu xảo trá của các thế lực thù địch mà dẫn tới tư tưởng hoài nghi, hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin với Đảng và chế độ. Các lực lượng chức năng cần chủ động phát hiện, kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những nội dung sai trái, xấu độc trên mạng xã hội, những trang mạng tán phát thông tin, tài liệu xuyên tạc, mạo danh, nặc danh, lợi dụng việc góp ý xây dựng dự thảo các văn kiện đại hội Đảng để công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./