Thứ Hai, 4 tháng 1, 2021

Một số quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin hiện nay

     Từ khi phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, chủ nghĩa Mác đã trở thành lý luận khoa học, cách mạng, chỉ ra con đường đấu tranh cho mục tiêu giải phóng giai cấp vô sản. Trên thực tế, chủ nghĩa Mác-Lênin đã được các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Thế nhưng, các thế lực thù địch vẫn làm ngơ trước thực tại đó, chúng đưa ra những luận điệu vô căn cứ để tấn công, xuyên tạc nhằm thủ tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin. Vậy, bộ mặt thật của những người đó là gì? Trước sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; sự đổi mới, thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại, cộng với những biểu hiện tiêu cực trong quá trình đổi mới đất nước, một số người đã dao động, giảm lòng tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Với cái gọi là “kiến nghị tâm huyết” với Đảng, Nhà nước, một số người nhân danh “cấp tiến” đề xuất giải pháp nhằm “thay máu cho hệ tư tưởng” và “sửa lại chủ nghĩa Mác-Lênin” cho hợp thời và sát với thực tế Việt Nam. Có kẻ còn “sám hối” rằng, cả đời mình đã tin theo một học thuyết sai lầm, đi theo một con đường không đúng nên “rơi vào tình cảnh éo le, bế tắc”, “cùng đường”; nay nhận thức lại, “thấy chủ nghĩa tư bản là lời giải đáp đầy đủ cho mọi vấn đề đặt ra trong cuộc sống của loài người”. Vì vậy, phải “giã từ chủ nghĩa xã hội” để đi theo chủ nghĩa tư bản. Gần đây, trên một số hội thảo quốc tế, người ta bàn nhiều về tương lai của học thuyết Mác. Phần đông các học giả đều thừa nhận giá trị khoa học, cách mạng và sự cần thiết phải có học thuyết Mác trong thế giới hiện đại. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, “chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là của quá khứ”, “chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX; không phù hợp với thời đại ngày nay”, hay “chủ nghĩa Mác-Lênin đã chết cùng với sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu”. Trắng trợn hơn, họ còn xuyên tạc: “Các Mác và V.I.Lênin là những nhà xã hội duy tâm, siêu hình và không tưởng”, học thuyết Mác chỉ là “sự sao chép sống sượng” chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, kinh tế chính trị học Anh và triết học cổ điển Đức; là “sản phẩm lai tạo”, “hỗn hợp” mang tính chủ quan, áp đặt, “được nặn ra từ những cái đầu thiển cận của C.Mác và Ph.Ăngghen”.

Riêng ở Việt Nam, lợi dụng các cuộc hội thảo khoa học, một số người đã đưa ra nhiều lý lẽ để phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã chọn; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Điều hết sức nguy hiểm là các quan điểm sai trái này bằng nhiều hình thức đã được tán phát, lan truyền rất nhanh; gây hoang mang, hoài nghi cho nhiều người, để lại những hậu quả không thể xem thường trong xã hội ta. Bằng cách này, họ muốn “chuyển lửa về quê nhà”, tạo nên sự “diễn biến bên trong”, trước hết là diễn biến về nhận thức, tư tưởng; từ đó dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” theo quỹ đạo chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chúng ta không hề ngạc nhiên trước những quan điểm xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì kể từ khi chủ nghĩa Mác ra đời cho đến nay, những “điệp khúc” này đã được “tua” nhiều lần; chỉ có điều nó được thể hiện bởi các “ngữ điệu” khác nhau qua các kiểu loại kẻ thù “lớn nhỏ” của Các Mác. Vì sao họ lại chống chủ nghĩa Mác một cách điên cuồng và quyết liệt như vậy? Chắc hẳn là họ ý thức rất rõ sức sống mãnh liệt cũng như sự nguy hiểm của chủ nghĩa Mác đối với sự tồn tại, phát triển và lợi ích của họ, nhất là khi chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành hệ tư tưởng thống trị của giai cấp công nhân, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam. Hẳn là họ hiểu rằng, chừng nào còn chủ nghĩa Mác-Lênin thì chừng ấy còn có Đảng Cộng sản, còn có phong trào công nhân và cuộc đấu tranh của giai cấp này tất yếu sẽ tiêu diệt họ; chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tất yếu sẽ được xây dựng thành công. Kể từ năm 1930, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII (năm 1991) đến nay, Đảng và nhân dân ta luôn khẳng định: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Ngay sau đó, các thế lực thù địch luôn có những bài viết xuyên tạc, vu khống, bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chúng không chỉ phê phán, phủ nhận các luận điểm, mà còn xuất phát từ cội nguồn, lịch sử hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phê phán. Vậy họ là ai, bộ mặt thật của những người này thế nào? Câu trả lời sẽ từ sự phân tích bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở nước Đức, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập. Vào thời điểm đó, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản phát triển rất mạnh mẽ, ưu thế của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được khẳng định và cách mạng tư sản đã giành thắng lợi. Thế nhưng, ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái” và những lời hứa của giai cấp tư sản trong quá trình cách mạng, lúc này chỉ còn lại là “chiếc bánh vẽ”. Thành quả và lợi ích của cuộc cách mạng tư sản đã bị giai cấp tư sản chiếm đoạt mà không hề đếm xỉa đến lợi ích của những người bạn đồng minh là giai cấp vô sản. Bị lừa dối và phản bội, giai cấp vô sản đã thức tỉnh và họ hiểu rằng, kẻ thù của mình không phải là “máy móc” mà chính là giai cấp tư sản. Vì vậy, họ đã liên hợp lại, kiên quyết đứng lên đấu tranh đòi lại quyền sống cho mình. Cuộc đấu tranh “một mất một còn” của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ngày càng quyết liệt. Sống trong thời đại ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen tận mắt chứng kiến các biến cố lịch sử và phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân - những người “đào huyệt” chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Các ông đã xây dựng lý luận khoa học, cách mạng để trang bị cho giai cấp công nhân. Tất cả những điều nêu trên chỉ diễn ra trong thập kỷ thứ ba và thứ tư của thế kỷ XIX, khi mà C.Mác và Ph.Ăngghen đang ở độ tuổi xung mãn; khi những điều kiện khách quan đã phát triển và đạt độ chín muồi, tác động trực tiếp, cho phép các ông tiếp thu, kế thừa và xây dựng học thuyết khoa học, cách mạng. Đó cũng là điều giải thích rõ: Tại sao các bậc tiền bối của Các Mác và Ph.Ăngghen lại không thể phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và họ không thể xây dựng nên học thuyết khoa học, cách mạng cho giai cấp vô sản, mặc dù họ chỉ hơn C.Mác 10 đến 15 tuổi. Như vậy, chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử, từ các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan đã phát triển chín muồi chứ không phải “được nặn ra từ những cái đầu thiển cận, mang nặng tính chủ quan, áp đặt; cũng không phải là “sự ba hoa của kẻ làm trò ảo thuật”, mà là sự chứng minh bởi lịch sử của khoa học hiện đại. Để xây dựng học thuyết của mình, Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tinh hoa trí tuệ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. V.I.Lênin viết: “Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chứng tỏ hết sức rõ rằng chủ nghĩa Mác không có gì giống “chủ nghĩa bè phái” hiểu theo nghĩa một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới”. Người còn chỉ rõ, học thuyết của Các Mác “ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội”. Về điều này, bản thân Các Mác, từ năm 1846, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, đã nói rõ. 40 năm sau, tức là vào năm 1886, trong tác phẩm: “L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ph.Ăngghen đã giải đáp tường tận nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác, nói rõ đó là sự kế thừa những giá trị của các bậc tiền bối và đã độc lập nêu ra các quan điểm của mình như thế nào. Đồng thời, coi đó là “việc làm danh dự” rất cần thiết để “trả món nợ lương tâm” mà 40 năm trước Các Mác đã trình bày trong “Hệ tư tưởng Đức”, nhưng thời đó, tác phẩm chưa được xuất bản. Gọi là đọc chủ nghĩa Mác, hiểu chủ nghĩa Mác mà lại không rõ những chi tiết này, để rồi coi chủ nghĩa Mác là “học thuyết đẻ non”, “là sản phẩm sống sượng”, là “sự sao chép học thuyết của Aristốt, Ric¸cđô; Xanhximông, Hêghen, Phoiơbắc” thì rõ ràng đó là sự xuyên tạc trắng trợn.

 

Lòng dân và bước đột phá về dân chủ

Mai Năm Mới (ST)

Ngày này cách đây 75 năm về trước (5/1/1946-5/1/2021), để cổ vũ, động viên toàn dân làm tròn nghĩa vụ và quyền lợi của người dân một nước độc lập trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 – bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu. Trong đó, Người khẳng định: “Ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình… Ngày mai, dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình, và gánh vác việc nước… Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”[1].

75 năm sau, nhìn lại sự kiện này, có thể thấy:

1. Trong bối cảnh các thế lực Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng), Việt Cách (Việt Nam Cách mạng đồng minh hội) và các tổ chức đảng phái tay sai thân Nhật… chống phá điên cuồng; khi nền kinh tế của đất nước nghèo nàn, kiệt quệ, nạn đói đe doạ nghiêm trọng, với hơn 90% dân số mù chữ, kho bạc gần như trống rỗng và nhất là nạn ngoại xâm đang đe dọa vận mệnh nền dân chủ cộng hòa non trẻ (miền Nam là quân Pháp và quân Anh, miền Bắc là quân Tưởng và quân Mỹ) khi đó, thì quyết định cùng những nỗ lực vượt bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng để tổ chức cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu lần đầu tiên ở Việt Nam chính là nhằm thực thi quyền dân chủ của người dân một nước độc lập. 

Việc Chính phủ lâm thời do Người đứng đầu đã ban hành Sắc lệnh số 14/SL ngày 8/9/1945, gồm 7 điều quy định rõ thời hạn tổ chức Tổng tuyển cử; đối tượng được tham gia bầu cử và ứng cử; lập Uỷ ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 34/SL ngày 20/9/1945 về thành lập Uỷ ban dự thảo về Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; Sắc lệnh số 39/SL ngày 26/9/1945 về thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử gồm 9 người; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/10/1945 quy định rõ thể lệ Tổng tuyển cử phải được thực hiện theo đường lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bí mật; Sắc lệnh số 71/SL ngày 2/12/1945 bổ khuyết điều 11 chương V của SL/51 nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những người ứng cử vào Quốc hội… có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở pháp lý “cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”.

2. Nhấn mạnh rằng: “Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”[2], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tính dân chủ của nhà nước Việt Nam mới; quyền lợi và nghĩa vụ công dân của mỗi người dân Việt Nam với vị thế là người chủ, làm chủ đất nước – có quyền quyết định, lựa chọn những người thay mặt mình gánh vác việc nước.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, khi tham gia bầu cử Quốc hội khóa I nghĩa là “nhân dân dùng lá phiếu mà chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn”[3]; đồng thời “tỏ rõ cái tư cách xứng đáng của những người công dân nước Việt Nam và ý chí đoàn kết không chia rẽ” để bầu ra cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước nhà. Vì thế, Người yêu cầu mỗi người phải có trách nhiệm với lá phiếu cử tri của mình trên tinh thần “những ai muốn làm quan cách mạng thì không nên bầu. Ngày mai không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện quyền dân chủ ấy”[4] để lựa chọn những người tài, đức gánh vác công việc quốc gia.

3. Ngày 6/1/1946, vượt lên hoàn cảnh, đi qua mọi khó khó khăn, tại 71 tỉnh thành trong cả nước, đã có 89% tổng số cử tri đi bỏ phiếu; phổ biến là 80%. Nhiều nơi đạt 95%, trừ một số nơi phải bầu bổ sung, còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Quốc hội khoá I – Quốc hội ra đời từ sự hy sinh, phấn đấu và đoàn kết của toàn dân, bao gồm đầy đủ các tầng lớp, các giới, các đảng phái chính trị, với đầy đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các nhà tư sản, người buôn bán ở cả 3 miền Bắc – Trung – Nam; gồm 403 đại biểu (trong đó, Bắc Bộ có 152 đại biểu, Trung Bộ có 108 đại biểu, Nam Bộ có 73 đại biểu và 70 đại biểu không thông qua bầu cử là đại diện của Việt Quốc, Việt Cách) thực sự là hình ảnh tượng trưng cho khối toàn dân đoàn kết; minh chứng hùng hồn cho việc thực hiện tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực tế thành công của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên này cho thấy, toàn dân Việt Nam đã thực sự được “hưởng một phần độc lập, tự do” bằng lá phiếu cử tri của mình; đã khẳng định với thế giới quyền công dân của mình. Trong cuộc Tổng tuyển cử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm tròn nghĩa vụ công dân và Người cũng giải thích rõ lý do vì sao Người không thể không thực hiện quyền công dân, không qua bầu cử mà trở thành người lãnh đạo nhà nước khi được hỏi “Thế sao Cụ không tự chỉ định Cụ ra làm Chủ tịch Việt Nam, Cụ còn phải ra ứng cử lôi thôi?” rằng: “Vì tôi không muốn làm Vua Lui thập tứ”[5]. Điều này không chỉ thể hiện tính dân chủ, bình đẳng của cuộc Tổng tuyển cử mà còn khẳng định cách thức vận hành, tổ chức, thực thi dân chủ và thực hiện quyền dân chủ của người dân Việt Nam trong chính thể dân chủ cộng hòa.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam đã được hiện thực hóa trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, để thành lập Chính phủ chính thức (kỳ họp thứ nhất ngày 3/2/1946), thông qua Hiến pháp 1946 (kỳ họp thứ hai, ngày 9/11/1946), tạo cơ sở pháp lý về mặt đối nội và đối ngoại cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

75 năm trôi qua, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 14 nhiệm kỳ và đang chuẩn bị bầu Quốc hội khóa XV vào tháng 5/2021, song ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm quý báu về cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự. Có thể khẳng định rằng, sự kiện lịch sử trọng đại này là một minh chứng sinh động về lòng tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam (khi đó là Đảng Cộng sản Đông Dương) vào vị trí, vai trò, sức mạnh của nhân dân trong cuộc đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ đất nước; là sức mạnh của lòng dân tin Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là dấu ấn đột phá về dân chủ và thực thi dân chủ ở Việt Nam.

5. Cùng với thời gian, việc thực thi dân chủ, đảm bảo quyền công dân ở Việt Nam nói chung, về bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nói riêng ngày càng được đảm bảo. Nó khác xa những luận điệu bịa đặt, vu khống của những người giả danh dân chủ, đòi dân chủ, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ; khác xa những luận điệu xuyên tạc rằng, tổ chức bầu cử dưới chế độ một đảng thông qua hội đồng bầu cử các cấp chẳng qua chỉ là “cánh tay nối dài của Đảng” và “bầu cử kiểu đó” là không khách quan, không dân chủ, tiêu cực, áp đặt…

Việc thực hiện nghiêm túc trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của mỗi người dân Việt Nam trong 14 kỳ bầu cử Quốc hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khác hoàn toàn những điều vu cáo của các thế lực phản động đăng trên mạng xã hội rằng: Chế độ Đảng độc quyền ở Việt Nam là “không có dân cử, dân bầu, chỉ có Đảng cử, Đảng bầu” và đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng mất dân chủ trong bầu cử. Nó cũng khác hoàn toàn về bản chất với những chiêu bài kêu gọi “tự ứng cử đại biểu Quốc hội” hay vu cáo “hiệp thương là nhằm loại bỏ những người tự ứng cử”… để chống phá các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp của các đối tượng, phần tử chống đối ở trong và ngoài nước./.


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.166

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.153

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.166

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.168

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.146

Thủ tướng phát lệnh khởi công Dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành

 Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành là 1 trong 16 dự án cảng hàng không đáng chú ý nhất thế giới, được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát lệnh khởi công sáng nay (5/1).

Với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 là hơn 109.000 tỷ đồng, Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành (tỉnh Đồng Nai) là dự án đặc biệt cấp quốc gia.

Được xây dựng với mục tiêu là cảng hàng không quốc tế cấp 4F tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Na, Dự án gồm 1 đường cất hạ cánh, 1 nhà ga hành khách cùng các hạng mục phụ trợ đồng bộ với công suất 25 triệu hành khách/năm trên diện tích sàn 373.000 m2; 1,2 triệu tấn hàng hóa/năm. Thời gian thực hiện Dự án là từ 2020 đến 2025.

Dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành được chia thành 4 dự án thành phần. Dự án thành phần 1 - các công trình trụ sở cơ quan quản lý nhà nước được Thủ tướng giao các cơ quan quản lý nhà nước liên quan (Hải quan, Công an, Công an cửa khẩu, Cảng vụ, Kiểm dịch y tế) bố trí nguồn vốn thực hiện. Trường hợp không có khả năng bố trí vốn, các cơ quan quản lý nhà nước lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức PPP, loại hợp đồng BTL hoặc BLT.

Dự án thành phần 2 - các công trình phục vụ quản lý bay, chủ đầu tư được Thủ tướng giao cho Tổng Công ty Quản lý bay Việt Nam làm chủ đầu tư.

Dự án thành phần 3 - các công trình thiết yếu trong cảng, bao gồm: nhà ga hành khách, hạ tầng hàng không, hệ thống cấp nước, xử lý nước thải; nhà ga hàng hóa số 1, nhà để xe; hệ thống giao thông kết nối tuyến số 1 và số 2… sẽ do TCT Cảng hàng không Việt Nam (ACV) làm chủ đầu tư.

Dự án thành phần 4 - các công trình khác sẽ thực hiện bởi các nhà đầu tư, chủ đầu tư do Bộ GTVT chủ trì lựa chọn.

Ngày 5/1/2021, dự án khởi công dự án thành phần 3 và triển khai các hạng mục rà phá bom mìn, xây dựng tường rào, san lấp mặt bằng. Dự kiến giải ngân khoảng 6.000 tỷ đồng trong năm 2021.

Nghiên cứu đề xuất tăng lương tối thiểu vùng năm 2021

 Thủ tướng chỉ đạo, Hội đồng tiền lương Quốc gia nghiên cứu, kiến nghị về việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng 2021 và việc tăng lương tối thiểu bắt đầu từ ngày 1/7 hàng năm.

Trong tuần đầu tháng 1, Văn phòng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 1/TP-VPCP của Thủ tướng Chính phủ về kết luận Hội nghị trực tuyến đánh giá việc thực hiện Quy chế về mối quan hệ cộng tác giữa Chính phủ với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và vấn đề việc làm, mức sống, điều kiện làm việc của công nhân lao động.

Theo kết luận của Thủ tướng Chính phủ qua báo cáo, trong năm qua, nước ta đã thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trước bối cảnh quốc tế cũng như trong nước có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức.

Đặc biệt, có những yếu tố bất lợi chưa từng có như đại dịch Covid-19 xuất hiện và bùng phát làm ảnh hưởng đến rất nặng nề các lĩnh vực, dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng.

Ở trong nước, đại dịch Covid-19 đã tác động, ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm, giảm sâu thu nhập…

Cũng trong thời gian qua, giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tích cực phối hợp, hoàn thành tốt các nhiệm vụ mỗi bên. Nhiều vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn được Chính phủ quan tâm giải quyết kịp thời…

Bên cạnh những thành tựu đạt được, vấn đề việc làm bền vững, nâng cao mức sống và cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân lao động còn gặp một số khó khăn.

Cụ thể, năng suất lao động còn thấp, trình độ lao tay nghề còn thấp nên việc làm khó bền vững và thu nhập chưa cao. Lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa xứng với thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình.

Ngoài ra, việc làm và đời sống vật chất, tinh thần của công nhân tuy đã được cải thiện song vẫn còn không ít khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước…

Trước thực tế đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phát triển thị trường lao động, hướng đến việc làm bền vững. Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực nhất là nhân lực chất lượng cao….

Thủ tướng giao cho Bộ LĐ-TB&XH chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi, vi phạm trong lĩnh vực lao động việc làm, tiền lương, bảo hiểm và thực hiện các chính sách đối với người lao động.

Đồng thời, Bộ LĐ-TB&XH cũng được giao việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan đánh giá tình hình kinh tế - xã hội làm căn cứ để đề xuất, báo cáo Chính phủ trước Quý II năm 2021; Hội đồng Tiền lương quốc gia nghiên cứu, kiến nghị về việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng 2021 và việc tăng lương tối thiểu bắt đầu từ ngày 1/7 hàng năm của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ LĐ-TB&XH nghiên cứu, rà soát, xây dựng Thông tư hướng dẫn xác định danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thay thế Công văn số 2753/LĐTBXH-BHLĐ ngày 1/8/1995, hướng dẫn cụ thể một số trường hợp do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề xuất.

TỰ HÀO VIỆT NAM

 


Là người con của dân tộc Việt Nam, tôi nhận thấy năm 2020 là năm rất thành công của Việt Nam chúng ta trên mọi phương diện. Nhiều nước, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Anh... chỉ vì Covid-19 mà toàn xã hội đã lao đao, sản xuất thì đình trệ, nhiều người mất việc làm... Mỹ phát triển âm tới hơn 32,9%. Còn đối với Việt Nam chúng ta, mặc dù bị thảm họa kép: vừa bị Covid-19, vừa bị bão, lũ hoàng hoành (bão trồng bão, lũ trồng lũ), với những quyết sách đúng, chủ động của Chính quyền các cấp, cộng với sự đồng lòng của mọi người dân, chúng ta đã phòng chống Covid-19 thành công, phòng chống bão - lũ - lụt thành công, giảm thiểu thiệt hại cho người dân, tập trung khắc phục hậu quả của thiên tai bước đầu cũng rất thành công, được nhiều nước và các tổ chức có uy tín trên thế giới đánh giá rất cao, là một trong 16 nước trên thế giới có tăng trưởng dương. Những thành tựu ấy, trong điều kiện năm 2020

BẦU CỬ QUỐC HỘI ĐẦU TIÊN

 


Cách đây 75 năm, ngày 06 tháng 01 năm 1946, người dân Việt Nam lần đầu tiên trong đời được đi bầu cử Đại biểu của mình tham gia Quốc hội của Nhà nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Lần đầu tiên trong đời của một công dân đất Việt được thể hiện quyền lợi và trách nhiệm của mình, thật tự hào và hãnh diện; chứng minh hùng hồn rằng người dân Việt Nam đã thực sự thoát khỏi gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp, thoát khỏi ách nô lệ, lầm than, tôi tớ; Việt Nam chúng ta đã là một nước hoàn toàn độc lập, tự do, dân chủ, do người Việt Nam quản lý, điều hành xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân. Để có được sự kiện lịch sử trên, phải có đường hướng đúng và các bước đi phù hợp, khoa học, hiệu quả, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, ủng hộ và thực hiện.

CÓ MỘT VIỆT NAM

 


Năm 2020, nhiều người đã gọi là một năm thảm họa trên toàn thế giới, nó không phân biệt nơi nào giầu sang hay nghèo hèn, không phân biệt quốc gia phát triển hay chưa phát triển, thạm họa đó là dịch Covid-19 đã đưa nền kinh tế thế giới trong năm phát triển -4%, đã lâu trên thế giới mới gặp một thảm họa gê gớm như vậy. Còn đối với Việt Nam, một đất nước mới vượt qua giai đoạn phát triển thấp, dịch Covid-19 cũng không buông tha, nhiều nơi đã sảy ra dịch bệnh, Covid xuất hiện ở cả thành phố, nông thôn, bệnh viện, nhà máy, xí nghiệp, nhà hàng... có thời gian Chính phủ đã quyết định giãn cách xã hội trong toàn quốc để phòng chống dịch bệnh, học sinh, sinh viên nghỉ học, sản xuất đình trệ nhiều nhà máy phải đóng cửa, người làm nghề du lịch thất nghiệp... khó khăn trồng chất khó khăn. Với tinh thần “chống dịch, như chống giặc” của Chính phủ (sẵn sàng hy sinh tăng trưởng, để bảo vệ tính mạng của người dân), cộng với sự đồng lòng của các tổ chức và mọi người dân, nước ta đã chống dịch bệnh rất chủ động, quyết liệt ở các cấp, các ngành và bước đầu rất thành công.

Covid-19 chưa qua, bão lũ lại tiếp tục hoành hành ở miền Trung, nhân dân miền Trung lại căng mình chống bão lũ lịch sử (bão này chưa qua, bão khác đã đến; đợt lũ này chưa qua, đợt lũ khác đã đến); khó khăn bộn bề, gây tổn thất rất lớn về người và tài sản, nhiều gia đình bị lũ cuốn trôi mất hết tài sản... Nhưng với tinh thần trách nhiệm “Cả nước vì miền Trung”, Chính phủ sâu sát, các cấp, các ngành vào cuộc đồng bộ, cùng với sự chia sẻ, chung tay góp sức của cả nước, nhân dân miền Trung từng bước ổn định lại cuộc sống, trẻ em đã được cắp sách đến trường.

Năm 2020, nước ta gặp phải thiên tai, dịch bệnh nặng nề, nhưng với ý trí, nghị lực của người Việt Nam, nền kinh tế nước ta vẫn phát triển mặc dù là thấp, nhưng so với thế giới, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia thành công nhất trong phát triển kinh tế - xã hội. Khó khăn vẫn còn đang ở phía trước, nhưng “Tự hào lắm Việt Nam ơi” !

HÀ NỘI - ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG

 


          Có người hỏi tôi rằng, Chiến dịch Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không như thế nào ? tôi đã trả lời: Hiện nay trong sách, báo, phim ảnh... nói rất nhiều. Nhưng có thể hiểu ngắn gọn lại là Chiến dịch phòng không chống chiến tranh phá hoại Miền Bắc của Mỹ, chủ yếu diễn ra trên địa bàn Hà Nội và khu vực lân cận; vì nó diễn ra trên không và có ý nghĩa rất lớn giống như Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 chống Thực dân Pháp, đây là trận đánh then chốt, then chốt quyết định, kết quả của trận chiến đó đã làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh do Mỹ phát động chống lại nước ta. Thực tế Chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không của chúng ta đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh ký kết hiệp định Pa ri lập lại hòa bình cho Việt Nam, rút hết quân về nước, là điều kiện cần thiết để chúng ta tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thống nhất đất nước 1975. Chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không là đỉnh cao của bản lĩnh trí tuệ Việt Nam (một đất nước nhỏ chống lại một thế lực có kinh tế, quân sự, ngoại giao đứng đầu thế giới). Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta./.

QUÂN ĐỘI CỦA DÂN, VÌ DÂN

 


Lịch sử thế giới cho thấy, rất ít quân đội của một nước lại là quân đội của dân, do dân, vì dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang là quân đội mẫu mực của dân, vì dân. Bản chất truyền thống, cao đẹp, gắn bó máu thịt giữa quân đội và nhân dân, đã được phản ánh bằng những việc làm cụ thể, những hình ảnh cao đẹp, rất rõ nét, sâu đậm trong thời gian vừa qua, như: Cùng với các lực lượng chức năng xung kích trong phòng chống dịch Covid-19; xóa đói, giảm nghèo; chữa bệnh cho nhân dân vùng xa, vùng sâu; đem cái chữ đến các em nhỏ ở từng thôn, bản vùng núi cao, khó khăn. Là lực lượng xung kính trong phòng chống lụt bão trên đất liền; cứu hộ, cứu nạn trên biển; giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai... Những phẩm chất tuyệt vời ấy, nhân dân biết, nhân dân hiểu, nhân dân tin tưởng; khác xa với các quan điểm của mội số người cơ hội về chính trị, bất đồng chính kiến, cố tình bới lông tìm vết... bằng mọi hình thức, thủ đoạn, kể cả xấu nhất để làm giảm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân, thậm trí cố tình chia rẽ tình đoàn kết máu thịt vốn tự nhiên đã có giữa Nhân dân với Quân đội nhân dân Việt Nam.

NHỚ NGÀY 19.12.1946

 


Sau khi chúng ta giành được độc lập, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Thực dân Pháp, ngày 19 tháng 12 năm 1946: “... ai có súng cầm súng, ai có gươm cầm gương, không có súng, có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc... không kể già trẻ, gái, trai...” tinh thần đó đã sáng mãi và lan tỏa đến hôm nay, trong điều kiện mới, cuộc chiến chống lại tụt hậu xa hơn về kinh tế. Thời gian gần đây với sự đồng lòng của nhân dân cả nước, nước ta đã và đang chiến thắng dịch Covid-19, được xã hội trong nước và cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá rất cao. Chúng ta ai cũng muốn xây dựng đất nước ngày càng hùng cường, thịnh vượng, đời sống của nhân dân ngày càng cao, đây là mục tiêu và nguyện vọng vô cùng chính đáng của mỗi người dân yêu nước. Cuộc cách mạng 4.0 đã và đang xuất hiện, đây là thời cơ, vận hội rất lớn, đưa nước ta vượt lên, đi tắt, đón đầu, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, nơi đó người dân có thu nhập rất cao. Muốn là được và làm thành công, mọi người dân Việt Nam hãy phát huy sự cần cù, thông minh, sáng tạo vốn có trong mỗi con người, đoàn kết vượt qua khó khăn, thách thức, cùng nhau thực hiện thành công cuộc cách mạng 4.0 trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.

NHÂN NGUỒN SỨC MẠNH CỦA DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ MỚI

 


Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng và truyền thống ấy, tinh thần ấy luôn được củng cố, đắp bồi trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người". Vì thế, để làm tròn nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam cần phải tập hợp, quy tụ, vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân lại trong một tổ chức, một hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất, rộng rãi để thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phòng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 19/5/1941 Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh được thành lập (gọi tắt là Việt Minh). Chương trình cứu nước của Việt Minh đó là: "Chủ trương lien hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương, đặng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, làm cho nước Việt Nam và cả xứ Đông Dương được hoàn toàn độc lập"; thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1) Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; 2) Làm cho dân Việt Nam sung sướng, tự do. Điều lệ của Việt Minh cũng chỉ ra: "Tôn chỉ-liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật, Pháp làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Từ đó có thể thấy Việt Minh là bước phát triển cao hơn, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân hơn so với các hình thức mặt trận trước đó như Hội Phản đế đồng minh, Hội Phản đế lien minh, Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế… Sức mạnh nội sinh từ khối toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử, đánh đổ các xiềng xích thực dân, tạo nên một nước Việt Nam độc lập.

Cùng với dòng lịch sử, bài học về tinh thần đoàn kết, nguyên tắc đoàn kết và việc tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững nguyên tắc, không lơ là cảnh giác cách mạng, nhưng chân thành, cởi mở trong hợp tác và liên kết quốc tế vẫn còn nguyên giá trị trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay./.

NHÌN TỪ THÀNH CÔNG CỦA ĐẠI HỘI THI ĐUA YÊU NƯỚC TOÀN QUỐC LẦN THỨ X

 


 

Với chủ đề "Đoàn kết, sang tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X diễn ra trong 2 ngày 9 và ngày 10/12/2020.

Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai đoạn 2015-2020; đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai đoạn 2020-2025; tôn vinh các tập thể, cá nhân anh hùng, chiến sí thi đua, các gương điển hình tiên tiến tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước 5 năm qua. Từ đó, khơi dậy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo động lực mới nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Đồng thời, Đại hội đã phát động phong trào thi đua trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và tiếp tục đẩy mạnh 4 phong trào thi đua trọng tâm do Thủ tướng Chính phủ kêu gọi: "Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới"; "Cả nước chung tay vì người nghèo-không để ai bị bỏ lại phía sau"; "Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển"; "Cán bộ công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở", gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Đại hội đã thành công tốt đẹp, như lời khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay". Qua Đại hội đã tạo nên một hào khí mới trong thời đại ngày nay, muốn làm được đòi hỏi toàn dân tộc Việt Nam phải cùng chung sức, đồng lòng, ra sức thi đua, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình và phồn thịnh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh./.

YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÁN BỘ TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI HIỆN NAY

            Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực còn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường; nước ta đang bước vào giai đoạn mới với những cơ hội và thách thức đan xen nhau. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen, tác động tổng hợp và phức tạp. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra. Những biểu hiện xa rời mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền những nội dung xấu, độc, nói xấu chế độ Nhà nước, nói xấu Đảng hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

            Tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu rất cấp thiết đối với công tác cán bộ. Đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đó là những người “có đức, có tài, có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng; hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; không dao động trước mọi biến cố phức tạp, có đủ năng lực thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.

            Để thực hiện được mục tiêu: xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghệp hoá, hiện đại hoá; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ trong quân đội cần tuân thủ những nguyên tắc, những vấn đề có tính quy luật, trên cơ sở vận dụng tổng hợp các chủ trương, biện pháp, cách thức, với nhiều khâu, nhiều bước một cách hợp lý, có hiệu quả trong từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.

            Đó là mục tiêu xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đòi hỏi mỗi cán bộ phải rèn luyện, tu dưỡng bản thân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

 

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH, PHÒNG CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRƯỚC ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng (Ðại hội XIII) sắp diễn ra, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị tăng cường đưa thông tin bịa đặt, xuyên tạc chống phá Ðảng, Nhà nước, đặc biệt tập trung tuyên truyền, tung tin bịa đặt về công tác chuẩn bị nhân sự. Tại HNTW14 vừa qua, BCHTƯ Ðảng mới chỉ tiến hành việc bỏ phiếu giới thiệu nhân sự BCT, BBT, thế nhưng ngay sau khi HNTW14 kết thúc, trên một số trang mạng ở nước ngoài đã xuất hiện không ít thông tin bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt về công tác nhân sự. Có người tung tin rằng: Bộ Chính trị đã ra thông báo về "tứ trụ" nhân sự Ðại hội XIII; rồi HNTW14 đã quyết định ông A làm Tổng Bí thư; ông B làm Chủ tịch nước…

Thậm chí ngay từ đầu tháng 12-2020, một số trang Facebook, YouTube,… trên mạng đã đưa ra cái gọi là "danh sách Bộ Chính trị, Ban Bí thư" và cả chân dung Tổng Bí thư sau Ðại hội XIII. Bên cạnh việc công khai đưa các tin, bài, ý kiến phỏng vấn... xuyên tạc, chống phá Ðảng, Nhà nước, đánh vào tâm lý tò mò, hiếu kỳ của một số người, các đối tượng này còn tạo dựng một số trang chuyên bàn về Ðại hội. Theo đó, thông tin được cập nhật hằng ngày, nhưng thực chất hầu hết là thông tin bị bóp méo, xuyên tạc, gán ghép, suy diễn, quy chụp rất vô căn cứ. Các hình ảnh, video đăng tải trên các trang này được cắt ghép một cách có dụng ý, thường gắn với những câu từ, phát ngôn giật gân, kích động và hoàn toàn sai sự thật. Ðặc biệt, càng gần đến Ðại hội XIII, các đối tượng càng tăng cường tần suất đưa tin, bài, dựng nhiều video, phóng sự truyền hình, tổ chức giao lưu trực tuyến với một số đối tượng chuyên chống phá Việt Nam ở nước ngoài. Họ áp dụng chiến thuật "mưa dầm thấm lâu" để từ những điều không có thật song được lặp đi lặp lại nhiều ngày, nhiều lần, nhiều người cùng nói khiến người tiếp cận dễ tin theo, nghe theo. Bằng cách thức ấy, tin giả nhiều khi nghiễm nhiên trở thành là tin thật hoặc trở nên thực thực, hư hư với những ai còn suy nghĩ đơn giản theo kiểu không có lửa làm sao có khói... Lợi dụng việc một số cán bộ tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Ðảng, pháp luật Nhà nước bị xử lý, chúng xuyên tạc rằng trong nội bộ Ðảng đang phát sinh mâu thuẫn, giăng bẫy để triệt hạ lẫn nhau. Kèm theo những bài viết là video xấu độc được cắt ghép công phu, dựng lên những câu chuyện như thật khiến cho người đọc, người xem dễ nảy sinh suy diễn lệch lạc. Mục đích là cố tình tạo ra sự nghi kỵ, chia rẽ mất đoàn kết nội bộ, hạ thấp uy tín của cán bộ lãnh đạo cấp cao, làm giảm niềm tin của nhân dân với Ðảng.

Liên quan đến công tác chuẩn bị Ðại hội XIII, Ðảng ta đặc biệt chú trọng lựa chọn, xây dựng một đội ngũ lãnh đạo, đủ đức, đủ tài. Công tác lựa chọn, giới thiệu nhân sự vào các chức danh lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, BCT, BBT, BCHTW khóa XIII trình Ðại hội của Ðảng đã và đang được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khách quan, minh bạch. Mặc dù đặt vấn đề từ rất sớm và đã bàn ở nhiều hội nghị trước đây nhưng công tác nhân sự được Ðảng ta tiếp tục bàn bạc, xem xét thảo luận tại HNTW14 và HNTW15. Ðiều này đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định trong phát biểu khai mạc HNTW14 vừa qua: "Căn cứ vào tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới và thực tế đội ngũ cán bộ hiện có, Tiểu ban nhân sự và BCT đã họp nhiều lần, xem xét một cách dân chủ, khách quan, toàn diện; rà soát chặt chẽ, kỹ lưỡng, bổ sung, hoàn chỉnh các phương án nhân sự theo đúng phương hướng, quy trình công tác nhân sự đã đề ra… Việc chuẩn bị nhân sự BCT, BBT khóa XIII là công việc tiếp nối của công tác quy hoạch cán bộ, rất hệ trọng và liên quan đến thành công của Ðại hội XIII và sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới".

Có thể khẳng định công tác chuẩn bị nhân sự cho Ðại hội XIII đã được thực hiện hết sức nghiêm túc, bài bản và khoa học, đúng như tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước là tiến hành từng bước, từng việc, chắc chắn, thận trọng, chặt chẽ, đúng quy trình, bảo đảm dân chủ, khách quan nhưng phải thật sự đúng người, đúng việc, chú trọng cơ cấu, tiêu chuẩn và bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy, những chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch thời gian qua đã ít nhiều gây ra một số tác động tiêu cực. Một số người dân do nhẹ dạ, mất cảnh giác, thiếu thông tin đã nghe theo loại thông tin xấu độc, chưa được kiểm chứng dẫn đến nảy sinh tiêu cực, suy thoái, cơ hội. Ðáng trách trong đó còn có một số cán bộ, đảng viên thiếu cảnh giác, tỉnh táo trước thông tin bịa đặt, xuyên tạc, không nỗ lực tham gia tuyên truyền, định hướng thông tin trong nhân dân, thậm chí có người còn a dua, đưa ra bình luận, nhận định vô trách nhiệm, khiến thông tin càng thêm nhiễu loạn, phức tạp, gây hoang mang dư luận. Vì vậy, hơn lúc nào hết, công tác tư tưởng, đấu tranh phòng chống, ngăn chặn, xử lý thông tin sai sự thật cần tiếp tục được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức cũng như tạo sự lan tỏa rộng rãi trong toàn xã hội.

Ðể phòng, chống hiệu quả những thông tin xấu độc chống phá trước thềm Ðại hội XIII của Ðảng, chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Trong đó, công tác tuyên truyền cần được tổ chức chặt chẽ, nâng cao tính thuyết phục để đông đảo quần chúng nhận diện rõ âm mưu của các thế lực thù địch, phản động và tác hại của thông tin xuyên tạc, bịa đặt. Với mỗi cá nhân, cần luôn đề cao tinh thần cảnh giác, tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin, nhất là từ mạng xã hội, tiếp nhận có kiểm chứng để kịp thời phát hiện và chính kiến trước những thông tin xấu độc, xuyên tạc, bịa đặt. Từ đó nâng cao "sức đề kháng", tăng khả năng "miễn dịch", tránh rơi vào bẫy tin giả hoặc a dua, tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động. Sự đoàn kết nhất trí một lòng của toàn Ðảng, toàn dân sẽ là sức mạnh để chiến thắng mọi kẻ thù.

N.H.V

 

 

 

 

“NHẬN ĐỊNH NHÂN SỰ” – MƯU CŨ TRÊN ÁO MỚI

“Ai sẽ là Tổng Bí thư khóa 13”; “Danh sách tỷ lệ ủng hộ vào Bộ Chính trị nhiệm kỳ tới“… là những từ khóa được tìm kiếm trên mạng xã hội ngay sau khi Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XII diễn ra, kèm theo đó là những thuyết âm mưu…

Chỉ ít giờ sau khi Hội nghị Trung ương 14 diễn ra, mạng xã hội đã ầm ĩ những bài chia sẻ, clip rêu rao “Bộ Chính trị ra thông cáo về tứ trụ nhân sự Đại hội XIII”; “Danh sách tỷ lệ ủng hộ vào Bộ Chính trị nhiệm kỳ tới”; “Chân dung Tổng Bí thư khóa XIII”;… thu hút tới hàng trăm nghìn lượt theo dõi, chia sẻ. Họ “giật tít – câu khách” kính thích, đánh vào sự tò mò của nhiều người, từ đó đưa ra phân tích nhận định, thông tin lệch lạc, hòng tạo nhận thức sai trái công tác cán bộ, nhân sự là có sự “an bài”, “sắp xếp”, “thỏa hiệp”; cuối cùng là rêu rao, xuyên tạc bầu cử trong Đảng, chế độ là mất dân chủ, độc đảng, độc đoán, chuyên quyền, toàn trị. Râu ông nọ cắm hàm bà kia đến độ, khi thì họ lu loa “nhóm quyền lực thực sự trong Bộ Chính trị nằm trong tay ông Nguyễn Phú Trọng”, khi lại khăng khăng “quyền lực trong tay Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc”, thậm chí có khi lập lờ ví Bộ Công an là một bộ “siêu trường, siêu trọng” rồi ám chỉ đây là “thế lực chính trị” khuynh đảo…

Lấy vỏ bọc bên ngoài là dân chủ, họ quy kết cách làm nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không có sự cạnh tranh công khai, minh bạch. Tất cả các quy định, thủ tục lựa chọn nhân sự chỉ để hợp thức hóa việc lựa chọn người theo phe cánh. Họ phân tích theo hướng tiêu cực “tranh giành quyền lực”, “đấu đá nội bộ”, dự đoán, sắp xếp vị trí theo kiểu “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông”, phân tích, suy diễn theo chiều hướng tiêu cực, đấu đá, mất đoàn kết nội bộ, gây rối loạn thông tin, hoang mang trong dư luận xã hội.

Thông tin xuyên tạc được các đối tượng chống phá phát tán, cần hết sức tỉnh táo

Để đạt được mục đích, họ còn nghĩ ra đủ chiêu trò, còn đưa ra thuyết âm mưu người này triệt hạ người kia để giữ được vị trí này, vị trí khác. Thậm chí, tới mức làm giả bức ảnh hồ sơ bệnh án tâm thần về một vị lãnh đạo địa phương với tên tuổi, địa chỉ rất rõ ràng. Nhưng sự thật là những kẻ bất lương đã tìm trên mạng một bức ảnh chụp hồ sơ bệnh án thật, dùng phần mềm để chỉnh sửa tên. Với những hành động này, các phần tử xấu muốn tạo nên sự nhiễu loạn thông tin, thật giả lẫn lộn để người dân có những suy nghĩ tiêu cực, thiếu khách quan.

Thực tế cho thấy, công tác lựa chọn nhân sự, cán bộ, bầu cử của Đảng được thực hiện trên một quy trình chặt chẽ, công phu, tỉ mỉ, trách nhiệm, được thực hiện trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự thật nằm trong những cái đầu tỉnh táo, cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước các chiêu trò, luận điệu xuyên tạc, kích động để không mắc mưu để rồi ngập chân trong thứ “ma trận” mà các đối tượng cố tình tự vẽ lên tình hình chính trị nội bộ với gam màu xám, an ninh chính trị “đấu đá, lâm nguy”.

 

NỰC CƯỜI LUẬN ĐIỆU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI”

------------------------------

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

 

Lời mở đầu trên đây trong Bình Ngô đại cáo cách nay hơn 6 thế kỷ, cho thấy sự khởi thủy tính nhân bản, nhân văn, chính trị của Quân đội ta. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước gắn liền với giữ nước, sau 1117 năm chống ách đô hộ phong kiến phương Bắc, từ đại thủy chiến Bạch Đằng năm 938, Ngô Vương đã xây dựng quân đội tự chủ, tự lực, tự cường, hình thành tư tưởng quân sự với binh pháp đánh vào nhân tâm, kết hợp giữa sức mạnh của tinh thần và sức mạnh của mưu trí, dựa vào lòng dân và thế hiểm trở của địa hình. Trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, Nguyên – Mông, Minh, Thanh, quân đội của Đại Việt đều xuất thân từ nhân dân, thời bình thì vừa luyện binh sĩ, vừa trực tiếp tham gia sản xuất, gắn bó với cuộc sống đời thường (sử gọi là chính sách “Ngụ binh ư nông”).

 

Quân sĩ, tướng lĩnh, triều đình và muôn dân đều một ý chí giữ gìn nền tự chủ dân tộc và cuộc sống an lành cho người dân, sức mạnh của quân đội bao gồm binh hùng, tướng giỏi, nhưng điều quan trọng là được muôn dân giúp sức, dân trở thành nguồn đầu quân, người tiếp tế lương thực, thực phẩm, là tai mắt cho quân đội, che chở, bao bọc, bảo vệ quân đội, còn quân đội là điểm tựa cho lòng dân. Trong kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, sức mạnh của Đại Việt nằm trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, anh em hòa mục, trên dưới một lòng, nhân dân giúp sức.

 

Thời chống giặc Minh, “bốn phương manh lệ” cùng nhất tề hướng theo cờ nghĩa Lam Sơn. Thời chống quân Thanh, chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân đã sung vào đội quân của Quang Trung đến hàng vạn người.

 

Tiếp nối truyền thống quân và dân là một, Đảng cộng sản Việt Nam đã sớm thành lập, lãnh đạo xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam đi từ không tới có, từ ít thành đông, từ đơn sơ đến chính qui, từng bước hiện đại. Điểm khác biệt căn bản giữa quân đội ta với quân đội các nước chính là ở tính Nhân dân, tính Đảng, tính dân tộc.

 

Quân đội Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ tự coi mình là đội quân chuyên nghiệp, đánh thuê, mà luôn xác định đây là lực lượng nòng cốt trong thế trận quốc phòng toàn dân, hồn cốt của chiến tranh nhân dân. Vì thế, bản chất chính nghĩa của Quân đội Nhân dân Việt Nam được Đảng, Nhân dân và từng cán bộ, chiến sĩ thẩm thấu, hành động, Quân đội có nghĩa vụ “giữ lấy nước”; Nhân dân có bổn phận chăm lo, che chở, đùm bọc cho Quân đội; Đảng, Nhà nước có trách nhiệm lãnh đạo, quan tâm xây dựng Quân đội ngày càng trong sạch, vững mạnh. Quân đội cùng với Công an là hai thanh bảo kiếm của Đảng, Nhà nước, chế độ, là đôi cánh bảo vệ hòa bình và cuộc sống an lành cho Nhân dân.

 

Tách rời Đảng, Nhà nước, thiếu sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, Quân đội sẽ chỉ còn là đội quân lính chiến chuyên nghiệp, mất đi động lực tinh thần phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân.

 

Quân đội Liên Xô và quân đội các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu hùng mạnh là thế, nhưng chỉ vì xem nhẹ tính tư tưởng chính trị, tách biệt với Đảng và Nhân dân, ngoảnh mặt với chế độ, nên tự đánh rơi thanh bảo kiếm, mất nhuệ khí chiến đấu, đứng nhìn thành quả cách mạng bị tan vỡ theo màu “dân chủ”, “dân túy”. Đảng cộng sản Liên Xô tan rã, mất vị thế cầm quyền chính là vì xem nhẹ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với quân đội, nên nỗi “cơ đồ đắm biển sâu”.

 

Cách nay 76 năm, từ sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với 34 chiến sĩ, trang bị vũ khí rất thô sơ, nhưng đội quân đó đã sớm thổi luồng sinh khí chính trị vào Nhân dân, bắt được hơi thở của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trận thắng đầu tiên trong lịch sử quân sự Việt Nam diễn ra ở Phay Khắt, Nà Ngần tuy khiêm tốn, không lừng lẫy như những đại chiến dịch sau này trong lịch sử vệ quốc của dân tộc ta, song đó là chiến thắng của niềm tin chính trị, rằng tinh thần quả cảm và động cơ chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì Nhân dân mới là vũ khí vô địch, sức mạnh của quân đội từ đó tới nay vẫn thuộc về tính Nhân dân, được soi rọi bởi tính Đảng, vì Đảng không có lợi ích tối cao nào vượt lên trên lợi ích Tổ quốc, Nhân dân.

 

Đảng thành lập Quân đội, thành lập Công an không phải chỉ bảo vệ sự tồn tại của Đảng, không phải chỉ vì lợi ích cục bộ của một nhóm, Đảng thành lập, lãnh đạo, rèn luyện Quân đội và Công an trước hết, sau cùng chính là vì nền độc lập dân tộc, cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của Nhân dân. Theo đó, cán bộ, chiến sĩ Quân đội được mang danh dự “Bộ đội Cụ Hồ”, được Cụ Hồ trao lá cờ Quyết chiến quyết thắng. Quân với Dân như cá với nước, đó không chỉ là câu khẩu hiệu đơn thuần, đó là triết lý nhân sinh của dân tộc Việt Nam luôn phải thường trực hai nhiệm vụ dựng nước đi đôi với giữ nước.

 

Một quân đội dù đông đến mấy, dù có nhiều vũ khí hiện đại đến mấy, nhưng nếu tách khỏi Nhân dân thì quân đội đó thiếu động lực tinh thần, một quân đội nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng, quân đội đó chắc chắn mất phương hướng, tàu không có lái, mất la bàn thì cũng chỉ là khối khắt vô tri vô giác. Chủ trương, đường lối quân sự của Đảng ta được chắt lọc từ tinh hoa nghệ thuật giữ nước của tổ tiên, được vận dụng sáng tạo vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, muốn lấy yếu chống mạnh, lấy ít đánh nhiều, thì chỉ có thể dựa vào sức mạnh của tư tưởng chính trị, sức mạnh của lòng nhân ái và sự hy sinh vô điều kiện cho Tổ quốc.

 

Đảng ta, Bác Hồ, Nhân dân ta đã hun đúc nên khí phách Quân đội anh hùng mang đầy đủ các nhân tố hòa quyện trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Có nhà thơ từng đúc kết “ôm đất nước những người áo vải”, Quân đội của ta được sinh ra trong một dân tộc mà “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “trẻ con cũng hóa những anh hùng”, biết bao người chiến sĩ cộng sản đã bất tử trong tranh đấu giành độc lập, nên tính Đảng trong Quân đội cũng chính là tính Nhân dân. Trong chiến tranh vệ quốc, có những chiến công hiển hách, song cũng có những chiến bại đau xót, nhưng lòng Dân chưa bao giờ nghi ngờ ý chí và sức mạnh của Quân đội ta.

 

Kẻ thù có thể dùng trăm phương ngàn kế để mua chuộc, chia rẽ cá nhân, thậm chí một nhóm người, trong quân đội có thể còn có người tha hóa, làm ảnh hưởng thanh danh của Quân đội, nhưng trong lịch sử 76 năm có Đảng lãnh đạo, Quân đội Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ phản bội Tổ quốc, phản bội Nhân dân. Sự thất bại của lính lê dương trong kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược, sự thảm bại không lý giải được của đội quân tay sai Ngụy quyền Sài Gòn cùng lính Mỹ và đồng minh là minh chứng cho tinh thần bất diệt “Không có gì quí hơn độc lập tự do” của dân tộc Việt Nam, trong đó có chất thép của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Các cuộc cách mạng màu, cách mạng đường phố đã và còn tiếp tục diễn ra đâu đó, các thế lực thù địch luôn tìm cách gieo họa cho đất nước Việt Nam bằng những chiêu trò dân chủ giả hiệu, trước hết bắt đầu từ đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội.

 

 Những ai yêu nước, yêu chế độ hãy cảnh giác cao độ với những luận điệu đen tối như vậy, bởi chế độ chính trị ở Việt Nam đã được xây đắp trên nền lịch sử hàng ngàn năm, được bồi đắp qua gần 91 năm có Đảng lãnh đạo, biết bao xương máu của chiến sĩ cộng sản, của người dân để hun đúc chất thép bách chiến bách thắng của Quân đội, Công an, tất cả vì tương lai tươi sáng dân tộc.

 

Những kẻ chính trị đầu lưỡi, “anh hùng bàn phím” cũng chỉ vì thù hận giai cấp, đố kỵ chế độ hoặc ham hố lợi ích vật chất mà cam tâm tung bụi làm vẩn đục bầu sinh khí chính trị của đất nước. Càng sát đến Đại hội XIII của Đảng, các luận điệu xuyên tạc càng “nở rộ” như nấm độc, chắc chắn lòng Dân đủ sức kháng thể với những loại vi rút chính trị; xem ra, ta còn phải chung sức đồng lòng vừa chống vi rút Cô – rô – na, vừa chống “vi rút dân chủ”.  

 

 

GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN MẶT TRẬN TƯ TƯỞNG VĂN HÓA TRONG QUÂN ĐỘI

Với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin các thế lực thù địch triệt để sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền các thông tin xấu, độc và các luận điệu sai trái, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta, nhất là tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng (chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh). Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội tác động đến đội ngũ cán bộ chiến sĩ trong quân đội, chúng ta cần tập trung thực hiện một số giải pháp như sau:

Một là, tăng cường giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân của Đảng cho mọi cán bộ, chiến sĩ.

Đây là nội dung rất quan trọng, nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, củng cố niềm tin cho bộ đội vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh (TSVM) là vấn đề then chốt trong việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở xây dựng sức mạnh tổng hợp của quân đội. Bởi tổ chức đảng là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết của đơn vị. 

Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì trong quân đội.

Cùng vào việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng, tăng cường CTĐ, CTCT; để nắm chắc quân đội, khâu then chốt là Đảng phải nắm chắc đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì ở đơn vị. Bởi họ là người trực tiếp giáo dục, quản lí, chỉ huy, tổ chức đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là một trong những yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định đảm bảo Đảng nắm chắc quân đội trong mọi tình huống.

Bốn là, coi trọng xây dựng môi trường văn hoá ở các đơn vị quân đội trong sạch, lành mạnh; xây dựng đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng.

Môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển nhân cách của cán bộ, chiến sĩ một cách toàn diện; góp phần nâng cao trình độ trí tuệ, đạo đức, tình cảm, tâm hồn, thẩm mỹ, pháp luật, ý thức chính trị; là điều kiện hết sức thuận lợi để nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; đồng thời còn góp phần xây dựng các tổ chức trong quân đội vững mạnh, từng đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình.

 Năm là, kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận, vạch trần bản chất phản động chính trị, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”.

Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”, kẻ thù rất coi trọng phá hoại ta trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận. Mục tiêu của kẻ thù phá hoại ta trên lĩnh vực này là phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

 

 

NHẬN DIỆN VỚI CÁC PHẦN TỬ CƠ HỘI, BẤT MÃN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

 Hiện nay ở Việt Nam, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị được sự cổ vũ, hà hơi, tiếp sức của các thế lực xấu, đang đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị để phục vụ ý đồ làm rối loạn tư tưởng xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín, vị thế và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đến mục tiêu, lý tưởng ĐLDT và CNXH.

Vì thế, việc nhận diện các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để có biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Không nhận diện đúng, không phân biệt rõ hiện tượng và bản chất thì không thể có giải pháp đấu tranh đúng đắn, hiệu quả.

Xem xét một cách tổng quát, biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã được Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ ra. Đó là những người có quan điểm, thái độ chính trị thiếu nhất quán, không kiên định, vững vàng; khi cách mạng phát triển thuận lợi thì tỏ ra tích cực, hăng hái; khi cách mạng gặp khó khăn thì dao động, thoái chí, thỏa hiệp, thậm chí phản bội, đầu hàng, quay lại chống phá cách mạng.

Các phần tử này thường núp dưới danh nghĩa đổi mới, cải cách, dân chủ, nhân quyền để mưu đồ lợi ích riêng. Cơ hội chính trị và bất mãn chính trị là hai khái niệm biểu hiện tư tưởng chính trị khác nhau, đều nguy hại, song có quan hệ chặt chẽ với nhau; cơ hội chính trị mang trong nó cả yếu tố bất mãn chính trị; bất mãn chính trị có thể chuyển hóa thành cơ hội chính trị. Các phần tử này đều có xu hướng câu kết với các thế lực thù địch, hoặc bị các thế lực thù địch tìm mọi cách lôi kéo, hỗ trợ, tiếp sức, câu kết nhằm biến thành kẻ phản bội, phản động, đứng hẳn về phía đối lập, chống lại sự nghiệp cách mạng. Có thể khái quát một số dạng cơ hội, bất mãn chính trị ở nước ta, đó là:

- Những người có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng, dễ dao động, thiếu niềm tin, luôn hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do bản chất cơ hội, lập trường mơ hồ, thiếu kiên định, cho nên khi cách mạng gặp khó khăn, bất lợi thì hoang mang, thỏa hiệp, phụ họa theo nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù địch, quay lại chống phá cách mạng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Những người lợi dụng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng. Họ thường che giấu mặt thật, ít bày tỏ quan điểm, chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, “dĩ hòa vi quý”, chỉ làm việc có lợi cho bản thân; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ không trong sáng. Họ lợi dụng chủ trương, chính sách, móc ngoặc với người có chức, có quyền để trục lợi, tiến thân. Họ lợi dụng thiếu sót, sơ hở của chính sách để công kích, chống phá, gây mất đoàn kết nội bộ, làm mất uy tín của Đảng, bôi nhọ, nói xấu chính quyền. Họ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc với tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

- Những người suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, hoặc bị kỷ luật, không kiếm được lợi lộc sinh bất mãn, bị các thế lực thù địch tác động, lôi kéo, mua chuộc. Hầu hết những phần tử này có tham vọng chính trị, chức quyền và khi tham vọng không được đáp ứng thì họ bất mãn. Họ lợi dụng xu thế dân chủ hóa, mạng xã hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch ở nước ngoài dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, ráo riết tập hợp lực lượng, từng bước công khai hóa tổ chức chính trị đối lập dưới hình thức hội, nhóm để thực hiện mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

- Những người thực dụng về kinh tế và muốn thể hiện mình trước tổ chức, tập thể. Họ sẵn sàng rẽ theo bất cứ con đường nào miễn là có lợi ích kinh tế lớn hơn; thường tự coi là người có học, hiểu biết, tỏ ra nổi trội, muốn đưa ra “phát kiến” mới, rồi lôi kéo, tổ chức, gây thanh thế. Khi mục đích kinh tế không đạt được, do các nguyên nhân khác nhau mà “phát kiến” không được chấp nhận, hoặc mối quan hệ kinh tế không trong sáng bị phát hiện, ngăn chặn, các phần tử này lập tức thể hiện thái độ chống đối Đảng, chế độ; phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh...

Cần chú ý là các thế lực xấu, thù địch đã và đang ra sức lợi dụng, sử dụng các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị làm lực lượng xung kích, tiên phong để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Và sự chống phá diễn ra trên mọi lĩnh vực, tiến hành một cách kiên trì, có nội dung, phương thức, lộ trình, ngày càng trở nên tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm.

Đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị là yêu cầu khách quan, thường xuyên, là vấn đề cấp bách, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, tới sinh mệnh của Đảng. Để đấu tranh với những người cơ hội và bất mãn chính trị có hiệu quả, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, các cấp, các ngành cần đồng thời vào cuộc thực hiện quyết liệt, đồng bộ và toàn diện các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cơ chế, chính sách, pháp luật với quyết tâm cao, nhất là của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp.