Thứ Ba, 2 tháng 8, 2022

PHÁ HOẠI UY TÍN CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TÚY


 Vào năm 1890, thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy” được sử dụng rộng rãi tại Mỹ trong phong trào thúc đẩy người dân nông thôn và đảng Dân chủ chống lại những người đảng Cộng hòa thường sống tập trung ở đô thị. Cho đến những năm gần đây, có thể thấy chủ nghĩa dân túy đang dần trỗi dậy và được các thế lực phản cách mạng lợi dụng triệt để trong chống lại chính quyền ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.

Một trong những nguyên nhân làm cho xu hướng dân túy phát triển mạnh là do thiếu sự gần gũi tạo ra một khoảng cách lớn giữa lợi ích, ngôn ngữ giũa quần chúng nhân dân và người lãnh đạo.

Hiện nay, lợi dụng triệt để sự nhân bản thông tin của các kênh không chính thống, như báo, mạng xã hội… các thế lực thù địch đang ra sức tìm kiếm, thu thập những việc làm sai trái của một số cán bộ hoặc cố tình bóp méo sự thật để thực hiện cái gọi là “tiếng nói của người dân” hay “đứng về phía nhân dân”. Chúng ta không khó để tiếp cận những bài viết, video, comment được đăng tải trên internet hoặc các trang mạng xã hội về các nội dung như một một đối tượng chống đối cảnh sát làm nhiệm vụ, việc giải tỏa, ngăn chặn lấn chiếm vỉa hè…Tất nhiên là các thông tin đã được chỉnh sủa hoặc cố tình dàn dựng sao cho người chấp pháp, người lãnh đạo có lỗi nhất.  Bên cạnh đó, có một số người luôn khẳng định chúng tôi đứng về phía nhân dân, đây là tiếng nói của dân… Tất cả tạo ra sự phẫn nộ và điễn biến tâm lý trong nhân dân.Làm cho uy tín của nhà nước, uy tín của những cơ quan hành pháp, của những cán bộ lãnh đạo giảm sút. Như vậy, rõ ràng là những mục đích chính trị ban đầu của các thế lực thù địch đã được thực hiện. Tiếp theo đó sẽ là những thủ đoạn của các tổ chức chống phá nhằm vào con đường cách mạng của nước ta.

Đấu tranh ngăn ngừa và chống chủ nghĩa dân túy xâm nhập là một quá trình bền bỉ, dài lâu, gắn bó mật thiết với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, là một phần rất quan trọng của đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng. Phải kiên trì làm công tác tư tưởng, đề cao sự phòng ngừa. Điều này đòi hỏi sự tất yếu và cấp bách phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng các cấp, sự vào cuộc của báo chí, truyền thông và sự tham gia tích cực của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

 

 

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN QUÂN ĐỘI TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG

 

Ngày 08/02/1952, Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc đầu tiên trong quân đội được thành lập tại Trung đoàn 246, Sư đoàn 346, Quân khu 1, đánh dấu sự ra đời của tổ chức đoàn trong Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.

Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam và hướng dẫn của Trung ương Đoàn, tổ chức đoàn trong quân đội ngày càng vững mạnh, trở thành hạt nhân chính trị của phong trào thanh niên, là nòng cốt trong tổ chức, tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, phát huy vai trò của thanh niên quân đội (TNQĐ) trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.

Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “...Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên.

Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai đó”(1), các thế hệ cán bộ, đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) quân đội đã không ngừng phấn đấu, trưởng thành lớn mạnh, phát huy vai trò xung kích cách mạng, có nhiều cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN)

Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, TNQĐ với ý chí quyết tâm và tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm đã dấy lên nhiều phong trào thi đua: “Giết giặc lập công”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, "Nhằm thẳng quân thù mà bắn"... kịp thời cổ vũ, động viên tuổi trẻ vững chắc tay súng, chiến đấu anh dũng, vượt mọi khó khăn, gian khổ, lập nhiều chiến công oanh liệt.

Trong thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, trên mọi mặt trận đã có hàng vạn dũng sĩ và chiến sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng, hàng triệu ĐVTN ưu tú đã anh dũng hy sinh, cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân cho sự nghiệp cách mạng.

Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, quán triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên; dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam và hướng dẫn của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; của cấp ủy đảng, chính ủy (chính trị viên), người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp, công tác đoàn và phong trào TNQĐ có sự phát triển vững chắc, luôn khẳng định là lá cờ đầu trong công tác đoàn và phong trào thanh niên cả nước.

Phong trào "Phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" đánh dấu sự phát triển của công tác đoàn và phong trào TNQĐ với các chương trình, mô hình mới, được tổ chức sâu rộng trên mọi lĩnh vực hoạt động của quân đội, được cụ thể hóa thành các phong trào cụ thể ở các cấp trong toàn quân như xây dựng "Chi đoàn văn hóa" với 3 yêu cầu: "Đẹp người-Đẹp doanh trại-Đẹp tình quân dân"; phong trào "3 đỉnh cao quyết thắng", "Lý tưởng đẹp-Trách nhiệm cao; Học tập tốt-Hành động giỏi; Đoàn kết tốt-Kỷ luật nghiêm”... đã tạo ra môi trường và động lực mới cho TNQĐ thi đua học tập, rèn luyện, cống hiến, trưởng thành.

Các phong trào TNQĐ: “Thi đua rèn đức luyện tài, xung kích, sáng tạo, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ"; “Vươn tới những đỉnh cao”; “Tiến quân vào khoa học và công nghệ”; “Rèn đức, luyện tài, xung kích, sáng tạo, quyết thắng”; “Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”; chương trình “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”; “10.000 địa chỉ nghĩa tình”; “1.000 đội Thiếu niên Tiền phong được đỡ đầu”; “Xuân biên cương, Tết hải đảo”; “Tháng Thanh niên”; “Chiến dịch thanh niên tình nguyện hè”... được triển khai sâu rộng bằng nhiều hoạt động phong phú, sinh động, phát huy tốt vai trò của tổ chức đoàn và tuổi trẻ toàn quân xung kích vươn lên trong thực hiện nhiệm vụ; qua đó xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, nhiều tấm gương tiêu biểu, xuất sắc trên các lĩnh vực sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), huấn luyện, học tập, nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, rèn luyện kỷ luật, xây dựng chính quy; giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn đóng quân.

Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tuổi trẻ quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng; SSCĐ, hy sinh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước; xung kích, đi đầu trong phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, nhất là cùng toàn dân và các lực lượng tích cực tham gia phòng, chống đại dịch Covid-19...

Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh vì sự bình yên của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Có thể khẳng định, càng trong khó khăn, gian khổ thì càng có nhiều sự cống hiến, hy sinh của tuổi trẻ toàn quân; qua đó tô thắm hình ảnh TNQĐ và hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.

Cùng với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, hệ thống tổ chức đoàn và đội ngũ cán bộ đoàn, cán bộ đảm nhiệm công tác thanh niên và lực lượng ĐVTN trong quân đội thường xuyên đ¬ược quan tâm, chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dư¬ỡng, rèn luyện, củng cố phát triển cả về số lượng và chất lượng, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong quân đội; góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”.

Đến nay đã có hàng triệu đoàn viên ưu tú được bồi dưỡng, giới thiệu kết nạp vào Đảng; hàng chục vạn ĐVTN trở thành sĩ quan quân đội, cán bộ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể và chính quyền các địa phương.

Hoạt động học tập, giao lưu sĩ quan trẻ của TNQĐ với thanh niên, sĩ quan trẻ quân đội các nước và tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình ở Phái bộ Liên hợp quốc được tổ chức thường xuyên và hiệu quả, qua đó tuyên truyền, quảng bá hình ảnh và truyền thống tốt đẹp về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam tới bạn bè quốc tế; đồng thời vun đắp mối quan hệ hữu nghị đoàn kết, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, góp phần củng cố, nâng cao vị thế, uy tín của quân đội và đất nước trên trường quốc tế.

Từ phong trào thi đua của Đoàn trong những năm qua, hàng vạn lượt tổ chức đoàn và ĐVTN đạt danh hiệu “Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác”; hàng nghìn gương mặt thanh niên điển hình, tiên tiến xuất sắc trên các lĩnh vực từ cơ sở đến toàn quân được tuyên dương; hằng năm, TNQĐ đều được bình chọn trong số những Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu.

Ghi nhận những cống hiến lớn lao đó, TNQĐ đã được Đảng, Nhà nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Lao động hạng Ba; nhiều năm liền được Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tặng Cờ Đơn vị xuất sắc trong công tác đoàn và phong trào thanh niên, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác...

Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, ngày càng cao; TNQĐ có nhiệm vụ rất nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Phát huy truyền thống 70 năm qua, thời gian tới, cán bộ, ĐVTN quân đội cần tiếp tục nỗ lực vươn lên, xung kích, sáng tạo thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, thường xuyên quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, chỉ đạo của Tổng cục Chính trị và của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về công tác thanh niên.

Bám sát mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội để xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi các chương trình hoạt động, phù hợp với tình hình thực tiễn của đơn vị và tâm tư,¬ nguyện vọng của cán bộ, ĐVTN. TNQĐ phải luôn là lực lư¬ợng xung kích, đi đầu trong các phong trào thi đua, SSCĐ, huấn luyện, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật..., góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”.

Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho TNQĐ về mục tiêu, lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống vẻ vang của Đảng, dân tộc, quân đội và của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, xây dựng niềm tin và bồi dưỡng kinh nghiệm chiến đấu, có kiến thức tổng hợp và chuyên sâu; năng động, sáng tạo, tự lực, tự rèn, thích ứng nhanh với thực tiễn; có phẩm chất đạo đức, lối sống trung thực, lành mạnh, đoàn kết; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, xây dựng người TNQĐ thực sự tiêu biểu cho phẩm chất, bản lĩnh, trí tuệ của thanh niên Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.

Ba là, tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng để cán bộ, ĐVTN được rèn luyện trong thực tiễn, xung kích trên các lĩnh vực, các mặt công tác, nhất là việc mới, việc khó. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực.

Luôn đi đầu trong học tập, làm chủ khoa học, công nghệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, tiên phong trong lĩnh vực chuyển đổi số và xây dựng Chính phủ điện tử. Chủ động đấu tranh với biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các tác động tiêu cực, tệ nạn xã hội, các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, nhận thức sâu sắc công tác xây dựng Đoàn là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước, nên cần tiếp tục chú trọng xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng thời quan tâm hơn nữa đến hoạt động của tổ chức đoàn, chăm lo giải quyết những nguyện vọng chính đáng của thanh niên, có cơ chế phù hợp, tạo điều kiện về thời gian, vật chất và kinh phí cho tổ chức đoàn hoạt động; tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đoàn để bổ sung nguồn cán bộ trẻ cho quân đội.

Năm là, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp hoạt động với thanh niên các địa phương trên địa bàn đóng quân, làm tốt công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, góp phần xây dựng mối quan hệ đoàn kết “máu thịt” quân dân và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc.

Đồng thời, tích cực tham gia thực hiện tốt công tác đối ngoại quân sự, đảm bảo đúng đường lối và các quy định về công tác đối ngoại của Đảng, Bộ Quốc phòng; qua đó, củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với TNQĐ các nước và bạn bè quốc tế.

Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, các thế hệ TNQĐ luôn phát huy bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng của QĐND Việt Nam và truyền thống vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; xứng đáng là bộ phận ưu tú của thanh niên cả nước, tiêu biểu cho hình mẫu người thanh niên Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh “Trung thành, dũng cảm; tâm trong, trí sáng; đoàn kết, kỷ luật; chủ động, sáng tạo; xung kích, quyết thắng”. Mỗi cán bộ, ĐVTN quân đội không ngừng học tập, rèn luyện, nỗ lực vươn lên, quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân.

 

 

THỰC CHẤT QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG “XÃ HỘI DÂN SỰ” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY


Bằng nhiều chiêu bài, các thế lực thù địch và thành phần “ngụy dân chủ” thường không ngừng rêu rao về cái gọi là ranh giới giữa “xã hội dân sự” với nhà nước, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”. Theo đó, họ “thổi lên tận mây xanh”, tuyệt đối hóa, coi “xã hội dân sự” là mô hình xã hội nhân đạo nhất, tốt đẹp nhất, dân chủ nhất và ngược lại, nhà nước là cơ quan bảo thủ, chuyên chế và cưỡng bức. Theo đó, họ “kêu gọi” Đảng Cộng sản Việt Nam phải thúc đẩy “xã hội dân sự” chứ không nên và càng không thể lãnh đạo xây dựng được Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân.

Mục đích của những luận điệu kêu gọi thúc đẩy “xã hội dân sự” không ngoài nhằm làm suy yếu vai trò tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, qua đó tạo môi trường xã hội cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với Đảng, núp dưới danh nghĩa “xã hội dân sự”. “Xã hội dân sự” còn là cái “cớ” để các thế lực chống phá đòi dân chủ hóa bất chấp pháp luật, đòi Nhà nước phải bảo đảm tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực; cổ súy cho sự “vượt ngưỡng” và thái quá trong tự do cá nhân; đưa ra tự do ngôn luận và nhân quyền để đòi lập hội, nhóm bất chấp quy định, kêu gọi biểu tình, kích động trái phép. Bên cạnh đó, họ lợi dụng vấn đề viện trợ, quan hệ kinh tế, thương mại, ngoại giao để gây sức ép với Đảng và Nhà nước ta về cái gọi là “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, hòng làm thay đổi đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp của chúng ta.

Không phải ngẫu nhiên mà một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài thường rất quan tâm đến những địa bàn trọng điểm về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nước ta. Phát triển các tổ chức “xã hội dân sự” luôn được không ít “đối tác hai mặt” coi như một phương thức để “diễn biến hòa bình” tiến tới “diễn biến không hòa bình” hòng triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta.

 

PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

 Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là một nhà văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá được cả thế giới công nhận và ngưỡng mộ. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở Việt Nam. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói và việc làm của Người trong quan hệ với đồng chí, đồng bào, với bạn bè quốc tế... trên các cương vị khác nhau khi là nhà báo, lúc là nhà văn, nhà thơ, hay trên cương vị Chủ tịch nước, ở Người đều toả ra ánh hào quang văn hoá, đó là kết tinh của những giá trị văn hoá tốt đẹp nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.

Mang trong mình truyền thống văn hoá Phương Đông, lại được tiếp thu những tinh hoa  văn hoá của nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, với phẩm chất thiên tài, Hồ Chí Minh đưa ra cách hiểu văn hoá rất rộng, rất sâu sắc và khái quát cao, song cũng rất cụ thể và dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Mặc dù đã có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về văn hoá khác nhau, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá rất gần với cách hiểu mà 40 năm sau (1982) UNESCO mới nêu lên. Trong mục “Đọc sách” ở phần cuối tập “Nhật ký trong tù” (1942-1943), Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Chính văn hoá được hiểu theo nghĩa như vậy mới có thể được đóng vai trò “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội” như Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định.

Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã khái quát được nội dung đầy đủ nhất, rộng nhất, mang đầy đủ nội hàm của phạm trù văn hoá. Theo đó, văn hoá được hiểu là toàn bộ sáng tạo những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần của con người trong quá trình tồn tại sinh sống và phát triển. Nguồn gốc và động lực sâu xa của văn hoá chính là nhu cầu của con người, khác với loài vật, nhu cầu của con người (bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần) luôn luôn thay đổi, con người không bao giờ bằng lòng với những cái mà tự nhiên ban tặng và những gì đã có. Chính điều đó, đã  thúc đẩy con người hoạt động và sáng tạo, cải tạo tự nhiên và xã hội, tạo ra không gian và điều kiện sinh tồn cả vật chất lẫn tinh thần phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu cho mình. Đó cũng chính là quá trình sáng tạo văn hoá của con người. Theo nghĩa đó, ở đâu có con người và hoạt động của con người thì ở đó có văn hoá. Văn hoá là sự phát huy và hiện thực hoá các năng lực bản chất của con người. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hoá đồng thời văn hoá là phương thức sinh tồn, là môi trường sống của con người. Con người không thể tồn tại và phát triển với tính cách là con người được nếu tách khỏi môi trường văn hoá và thực tế lịch sử phát triển của con người luôn gắn liền với lịch sử phát triển của văn hoá. Tư tưởng đó cho chúng ta thấy rằng tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội, yếu tố vật chất quyết định yếu tố tinh thần, theo đúng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Mặt khác, theo quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá, thì văn hoá bao gồm hai lĩnh vực cơ bản đó là, văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Bên cạnh những sản phẩm tinh thần như: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... văn hoá còn bao hàm các sản phẩm vật chất phục vụ cho đời sống con người như các công cụ, các phương tiện đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp...Tuy nhiên, văn hoá vật chất thực ra là vật thể hoá các giá trị tinh thần. Mỗi sản phẩm vật chất đều thể hiện sự tài hoa, lý tưởng thẩm mỹ của con người, của những chủ thể sáng tạo ra chúng.

Như vậy, có thể nói Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm hết sức khoa học và dễ hiểu về văn hoá. Quan niệm đó không những vạch ra những dấu hiệu đặc trưng của văn hoá mà còn bao quát được toàn bộ các hoạt động và các hiện tượng văn hoá trong đời sống con người. Vì vậy, tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá hiện nay vẫn còn nguyên giá trị trong việc nhận thức các hiện tượng văn hoá của đời sống xã hội.

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thì tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn là điểm tựa tinh thần vững chắc, là ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân ta đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.

 

 

 

Vận dụng quan điểm của V.L. Lê-nin về xây dựng tổ chức cơ sở đảng vào thực tiễn Việt Nam

 Theo V.I. Lê-nin, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị. Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự vững mạnh của toàn Đảng. Những quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng là kinh nghiệm quý để Đảng ta vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng

Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục

Tổ chức cơ sở đảng là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở tuân thủ đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, đấu tranh về quan điểm và rèn luyện đảng viên; gắn kết Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện tốt chủ trương của Đảng. Thực hiện tốt công tác xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở là điều kiện tiên quyết để Đảng vững mạnh. Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Đó là:

Thứ nhất, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện đường lối của Đảng ở cơ sở. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I. Lê-nin cho rằng, để sự nghiệp cách mạng thành công “đòi hỏi phải có cho toàn nước Nga một tổ chức thống nhất gồm những người cách mạng, một tổ chức có khả năng đảm nhiệm việc lãnh đạo các tổ chức nghiệp đoàn của công nhân trong phạm vi toàn Nga”(1). Đặc biệt, khi đề cập đến vấn đề xây dựng đảng kiểu mới, V.I. Lê-nin khẳng định cần thành lập tổ chức đảng ở các công xưởng, nhà máy, các địa phương theo chế độ phân cấp rõ ràng. “Ở tất cả các tổ chức, các hội, các hiệp hội, không trừ một loại nào... phải tổ chức những tiểu tổ hay những chi bộ Cộng sản... những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng”(2). Sau khi thành lập, các chi bộ phải thực hiện cổ động, tuyên truyền,... thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với mọi tầng lớp quần chúng lao động. Thông qua thực tiễn ở cơ sở để kiểm nghiệm chủ trương, đường lối và bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, lấy kết quả hoạt động thực tế làm thước đo đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đảng.

Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; liên hệ chặt chẽ với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực hiện lý tưởng của Đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”(3). Trong đó, chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng, vì vậy, V.I. Lê-nin yêu cầu các chi bộ “thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”(4); qua lao động, thực tiễn đấu tranh cách mạng mà thử thách đảng viên để nâng cao uy tín của Đảng, tạo sự gắn bó, tin tưởng của nhân dân với Đảng. Trong bài viết Nhà nước của công nhân và Tuần lễ Đảng, V.I. Lê-nin cho rằng, cần “quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên”(5).

Thứ ba, bảo đảm tính đảng của tổ chức cơ sở đảng. Tính đảng được hiểu là sự thừa nhận một cách tự nguyện và trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng, mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng đã lựa chọn; tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính tổ chức, tính kỷ luật của Đảng; là những chuẩn mực giữa lời nói và hành động trong các hoạt động xã hội. Trong bài viết Về việc phá hoại sự thống nhất, che đậy bằng những lời kêu gào thống nhất, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Ở nơi nào mà đa số công nhân giác ngộ đoàn kết xung quanh những nghị quyết rõ ràng và chính xác, thì ở đó có sự nhất trí về tư tưởng và hành động, ở đó có tính đảng và đảng”(6). Tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên phải nhận thức sâu sắc nghị quyết, thấm nhuần tư tưởng của Đảng, bền bỉ phấn đấu, đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ tư, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức đảng ở cơ sở. Theo V.I. Lê-nin, tập trung dân chủ nghĩa là kết hợp lãnh đạo, quản lý tập trung với tinh thần tích cực sáng tạo của quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước Nga, V.I. Lê-nin luôn nhất quán quan điểm: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(7). Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản cầm quyền, mà trước hết chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt dân chủ và tập trung; tập trung và dân chủ vừa đối lập nhau, vừa liên kết với nhau, mặt này là tiền đề, điều kiện cho mặt kia và ngược lại. Tập trung và dân chủ kết hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể không thể thiếu của nguyên tắc tổ chức đảng vô sản, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, còn tập trung là điều kiện để bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Phủ định hay loại trừ bất cứ mặt nào đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng làm việc với Ban thường vụ Tỉnh ủy Long An về tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 (Trong ảnh: Đồng chí Võ Văn Thưởng thăm Hợp tác xã rau an toàn Phước Thịnh tại xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An)

Hiện nay, toàn Đảng ta có 52.125 tổ chức cơ sở đảng với 5.192.533 đảng viên. Trực thuộc đảng ủy cơ sở có 2.478 đảng bộ bộ phận và 227.328 chi bộ(8) thuộc các loại hình tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp; doanh nghiệp; đơn vị quân đội, công an; đơn vị ở ngoài nước.

Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện rõ qua các kỳ Đại hội. Những năm gần đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở; bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng(9). Đây là hệ thống những văn bản quan trọng, làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.

Tại các cơ sở đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng đề cao. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng thường xuyên đổi mới, tổ chức dưới hình thức trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở đã nhanh chóng tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống. Đơn cử, Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII được truyền hình trực tuyến với 2.700 điểm cầu, hơn 405.000 cán bộ, đảng viên tham dự(10); Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được kết nối với 67 điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và đường truyền mở rộng đến hơn 7.400 điểm cầu cơ sở với gần 1 triệu đảng viên tham gia(11). Công tác tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” dần đi vào nền nếp; cấp ủy cấp trên gương mẫu thực hiện nghiêm túc, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng gợi ý, dự chỉ đạo kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cấp dưới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên với nhiều cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực.

Quán triệt Nghị quyết 18-NQ/TW về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua sắp xếp đã giảm trên 3.000 tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình, trong đó giảm 565 đảng bộ xã, phường, thị trấn và giảm trên 10.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn hệ thống chính trị ở cơ sở, giảm chi ngân sách nhà nước cho hoạt động của các tổ chức đảng(12). Chú trọng nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng. Giai đoạn 2015 - 2020, đã tổ chức trên 3.000 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho trên 325.000 lượt cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách làm công tác đảng.

Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên; nhiều cấp ủy đã hướng dẫn nội dung sinh hoạt đối với từng loại hình chi bộ, ban hành tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề việc chấp hành nền nếp, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Hầu hết các chi bộ đều đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, tập trung nhiều hơn cho sinh hoạt chính trị tư tưởng, công tác đảng, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, từng đối tượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thực chất hơn, sát với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng đội ngũ đảng viên mới cho tổ chức đảng ở cơ sở được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ta đã kết nạp được 880.155 đảng viên, trình độ chuyên môn của đảng viên mới kết nạp được nâng lên, có đến 41,5% đảng viên có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 3% là thạc sĩ và 0,15% là tiến sĩ, cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ với 67,67% là đoàn viên, 43,72% là nữ(13). Đặc biệt, thành công trong việc thí điểm kết nạp 6.652 chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng(14).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận một số yếu kém nhất định trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là khả năng dự báo, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sinh hoạt chi bộ ở một số nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được xem trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; động cơ vào Đảng của một số quần chúng chưa đúng đắn. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút. Việc xét miễn, giảm công tác và sinh hoạt đảng chưa chặt chẽ, việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú còn khó khăn, phức tạp; số đảng viên xin ra khỏi Đảng, bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng lên; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa được tiến hành thường xuyên(15).

Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng

Buổi sinh hoạt chi bộ của Chi bộ 4, xã Đường Hoa, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh được tổ chức trên chính phương tiện khai thác của bà con ngư dân trong những chuyến vươn khơi bám biển

Quán triệt quan điểm “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên”(16), cùng với vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin, hướng tới xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, cần triển khai đồng bộ một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tích cực đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; kịp thời phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực để khuyến khích, tạo động lực cho mọi đảng viên ra sức phấn đấu, học tập, cống hiến vì sự nghiệp chung.

Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với quan tâm chấn chỉnh tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Tiếp tục sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là đổi mới bộ máy bên trong. Rà soát, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số tổ chức cơ sở đảng. Nghiêm túc thực hiện quy chế làm việc cấp cơ sở.

Ba là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh việc nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy ở cơ sở thì cần từng bước thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.

Bốn là, tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy tại chi bộ để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu là việc làm trọng yếu, thường xuyên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng. Chú trọng việc thực hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, khắc phục tình trạng chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng, xem nhẹ tiêu chuẩn, điều kiện. Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên hợp lý cả về lượng và chất, cơ cấu phù hợp với thực tế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, trong lực lượng vũ trang. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, hướng dẫn để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng./.

---------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 6, tr. 193
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 232
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 33
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 233
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 39, tr. 255
(6) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 223
(7) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 185
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
t. II, tr. 185

(9) Kết luận số 18-KL/TW, ngày 22-9-2017, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW, của Ban Bí thư khóa X, “Về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” trong tình hình mới”; Kết luận số 38-KL/TW, ngày 13-11-2018, của Bộ Chính trị Về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 2-2-2008, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”; Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21-1-2019, của Ban Bí thư “Về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”; Chỉ thị số 33-CT/T, ngày 18-3-2019, của Ban Bí thư “Về tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân”...
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 171
(11) Thiên Bình: “Bế mạc Hội nghị trực tuyến học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII”, báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 28-3-2021, https://www.vov.vn/chinh-tri/dang/be-mac-hoi-nghi-truc-tuyen-hoc-tap-quan-triet-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-846389.vov
(12) Hà Ban: “Nhìn lại một nhiệm kỳ công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 14-10-2020, http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Dai-hoi-dang/2020/14293/Nhin-lai-mot-nhiem-ky-cong-tac-xay-dung-to-chuc-co.aspx
(13), (14), (15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 188, 189, 189 – 190
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 229 - 230

Giá trị bền vững của học thuyết sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

 Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác, trong đó có vấn đề về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Bài viết tập trung khẳng định giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, làm rõ những giá trị bền vững của học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trên cơ sở có sự bổ sung, phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Giá trị bền vững của học thuyết sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng

1. Địa vị của giai cấp công nhân trong nền sản xuất xã hội

Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Đối với chúng tôi vấn đề không phải là ở chỗ người vô sản nào đó, thậm chí toàn bộ giai cấp vô sản coi cái gì là mục đích của mình. Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”(1). Đó là cách đặt vấn đề của chủ nghĩa Mác khi nghiên cứu về giai cấp công nhân (GCCN).

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, GCCN vừa là sản phẩm căn bản nhất, vừa là chủ thể trực tiếp nhất của nền sản xuất công nghiệp. Sự ra đời của nền sản xuất công nghiệp đã kéo theo sự ra đời của GCCN, tạo điều kiện, môi trường thúc đẩy toàn bộ GCCN phát triển không ngừng: “Ở khắp nơi, cách mạng công nghiệp đều thúc đẩy giai cấp vô sản phát triển”(2). Với tính chất tập trung của nền sản xuất công nghiệp, GCCN luôn được tuyển từ các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(3).

Là sản phẩm của nền sản xuất công nghiệp, GCCN không ngừng phát triển về số lượng, chất lượng (trình độ) và cơ cấu cùng với sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp cả về quy mô và trình độ hiện đại do sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ. Là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp, GCCN là giai cấp chế tác, cải tiến, điều khiển, điều hành, vận hành, giám sát, kiểm tra quá trình hoạt động của máy móc, kỹ thuật sản xuất hiện đại.

Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nền sản xuất công nghiệp là cơ sở kinh tế khách quan cho sự tồn tại và phát triển của GCCN. Do đó, nền sản xuất công nghiệp còn tồn tại và phát triển thì GCCN cũng còn tồn tại và phát triển.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là với việc ứng dụng công nghệ tin học vào quá trình sản xuất, một số học giả tư sản, mà tiêu biểu là Alvin Toffler, đã đưa ra những lý thuyết khác nhau và cho rằng, xã hội hiện đại đang bước vào thời kỳ “hậu công nghiệp”, “văn minh tin học”, “văn minh trí tuệ”, đi đến phủ nhận sự hiện tồn của sản xuất công nghiệp. Do đó, GCCN với tư cách là sản phẩm của nền sản xuất công nghiệp cũng đương nhiên biến mất cùng với sự biến mất của nền sản xuất công nghiệp. Quan niệm này là hoàn toàn sai trái. Về thực chất, khái niệm “hậu công nghiệp”, “văn minh tin học”, “văn minh trí tuệ” vẫn thuộc phạm trù công nghiệp hiện đại. Bởi lẽ, ngay trong các khái niệm này và trong nền sản xuất hiện đại của thế giới hiện nay vẫn có “công nghiệp phần mềm”, “công nghiệp phần cứng”, “khu công nghiệp”, “chính sách công nghiệp”, “cơ khí vi mạch”, các loại máy móc; các sản phẩm vật chất nuôi sống con người và phát triển xã hội vẫn chủ yếu từ nền sản xuất công nghiệp mà ra. Rõ ràng, các nền văn minh ấy không hề vượt qua, phủ nhận nền sản xuất công nghiệp hiện đại, trái lại nó còn cho chúng ta thấy trình độ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại không ngừng được nâng cao, dẫn đến hình thành kinh tế tri thức.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, cho thấy sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp. Trong cuộc cách mạng này, tài năng, tri thức là những yếu tố quan trọng của sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức, tạo ra nhiều ngành, nhiều loại lao động, nhiều hình thức lao động mới. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 23.000 nghề nghiệp liên quan đến máy móc và phương thức lao động công nghiệp, dự đoán đến giữa thế kỷ XXI sẽ có thêm khoảng 10.000 nghề nghiệp mới, chủ yếu là ở lĩnh vực dịch vụ(4). Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năm 1950, toàn thế giới có 290 triệu công nhân, năm 1970 tăng lên 615 triệu, năm 2010 là trên 800 triệu(5), năm 2014 là trên 1,5 tỷ, năm 2018 ước tính trên 1,7 tỷ(6). Nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển cao (nhóm G7) công nhân chiếm khoảng 70 - 90% trong tổng số lao động của quốc gia(7).

Không chỉ phát triển về số lượng, chất lượng của GCCN cũng ngày càng được nâng cao. Sự tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với siêu tự động hóa, siêu kết nối, trí tuệ nhân tạo đã tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc. Lao động cơ bắp dần lùi vào quá khứ, hệ thống máy móc, tự động làm thay người lao động những công việc nặng nhọc. Toàn bộ quá trình sản xuất là quá trình ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, đòi hỏi người lao động phải sử dụng nhiều hơn sức lao động trí tuệ. Lúc này, tri thức trở thành yếu tố quyết định trong việc nâng cao năng suất lao động. Nhưng điều đó không có nghĩa là GCCN đã chuyển thành tầng lớp trí thức như luận điệu của một số các học giả tư sản đã rêu rao. Bởi những người lao động đó vẫn luôn gắn hoạt động lao động của mình với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, thường xuyên, trực tiếp lao động công nghiệp chứ không phải chủ yếu là nghiên cứu lý thuyết, lý luận như những người trí thức. Không ai khác, họ chính là bộ phận tinh túy nhất của GCCN hiện đại - công nhân trí thức.

Trong kinh tế tri thức, bản thân người công nhân và GCCN hiện đại không ngừng học tập, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, nhất là khoa học - công nghệ, tạo thành xu hướng trí thức hóa công nhân. Đồng thời, việc rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học vào sản xuất trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại đã dẫn đến một thực tế là, các nhà nghiên cứu, sáng chế, các kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp... gia nhập vào hàng ngũ GCCN hiện đại ngày càng đông, tạo thành xu hướng công nhân hóa trí thức. Hai xu hướng này đồng thời cùng diễn ra trong kinh tế tri thức - một giai đoạn phát triển ở trình độ cao của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, đã dẫn đến sự hình thành và phát triển công nhân trí thức.

Những điều trên cũng không nằm ngoài dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự hình thành của đội ngũ này khi các ông cho rằng: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ những người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây”(8). Thực tiễn cho thấy, những nước nào có nền sản xuất công nghiệp phát triển thì ở đó chất lượng đội ngũ công nhân càng cao. Tại các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), 60 - 70% lực lượng lao động là công nhân trí thức(9).

Như vậy, thực tế đã chứng minh quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin về GCCN là hoàn toàn đúng đắn và còn nguyên giá trị. GCCN không biến mất như một số người đã nghĩ. Nó vẫn tồn tại, phát triển và sẽ còn phát triển hơn nữa. Trên thế giới hiện nay, mới có khoảng 40 nước (trong khoảng 200 quốc gia) hoàn thành công nghiệp hóa, còn lại phần lớn các nước chưa hoặc đang tiến hành công nghiệp hóa. Sự phát triển của công nghiệp vẫn sẽ là cơ sở kinh tế khách quan để phát triển GCCN cả về số lượng lẫn chất lượng như sự khẳng định của chủ nghĩa Mác - Lênin.

2. Về mối quan hệ của giai cấp công nhân đối với tư liệu sản xuất trong chủ nghĩa tư bản

Khi xem xét vị trí của GCCN trong quan hệ sản xuất TBCN, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Các ông viết: “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”(10). Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ TBCN nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi GCCN là giai cấp vô sản.

Ngày nay, với sự phát triển của CNTB, diện mạo của GCCN hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Họ không hoàn toàn giống như những mô tả của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thế kỷ XIX. Trong CNTB hiện đại, nhờ có năng suất lao động cao do sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, mức sống chung của xã hội được nâng lên rõ rệt. Cách mạng khoa học - công nghệ không chỉ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn tạo ra cơ sở vật chất hùng hậu để tiếp tục tái đầu tư sản xuất, cải thiện và nâng cao một phần đời sống nhân dân, trong đó có GCCN. Do thu nhập được nâng cao nên một bộ phận công nhân hiện đại không những bảo đảm được các nhu cầu ăn, mặc, chi tiêu cho học tập và các hoạt động xã hội, mà còn có điều kiện mua sắm nhà cửa, sở hữu các phương tiện tiêu dùng hiện đại, đắt tiền và gửi tiết kiệm, mua cổ phiếu... Vin vào những lý do đó, một số học giả cho rằng GCCN hiện nay đã trở thành giai cấp hữu sản, đã được trung lưu hóa và do đó không còn là giai cấp vô sản nữa.

Những luận điệu đó nhằm cố tình xuyên tạc bản chất của GCCN trong CNTB, đồng thời che đậy bản chất CNTB. Việc GCCN có điều kiện sử dụng những phương tiện sinh hoạt tiện nghi, đắt tiền không có nghĩa là họ không còn là giai cấp vô sản, bởi đó chỉ là tư liệu tiêu dùng (hay tư liệu sinh hoạt) chứ không phải là tư liệu sản xuất. Công nhân hiện nay dù có cổ phần, cổ phiếu cũng chẳng làm cho họ trở thành nhà tư bản và giúp họ có thể thay đổi được địa vị làm thuê bởi tỷ trọng cổ phần của công nhân so với giai cấp tư sản vẫn là không đáng kể.

Trong những năm 70 của thế kỷ trước, chính phủ Mỹ thực hiện “kế hoạch phát triển sở hữu cổ phiếu của người lao động làm công” (ESOP), lúc cao nhất gần 40% người lao động làm công Mỹ có cổ phiếu, nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Số lượng ít, phân tán, người lao động hoàn toàn không có tiếng nói gì ảnh hưởng tới hoạt động của các công ty(11).

Như vậy, công nhân không trở thành “nhà tư bản” theo cách tuyên truyền của các lý luận gia tư sản, mà chỉ là “nhà tư bản” đối với chính mình. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp hữu hiệu cột chặt người lao động và bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. Hy vọng thay đổi địa vị người lao động trở thành người chủ thật sự ở các nước TBCN chỉ là ảo tưởng, là hành động tự lừa dối.

Trên thực tế, cũng có một số rất ít công nhân đã trở thành ông chủ thuê mướn nhân công, thành chủ nhà máy với vốn hàng trăm triệu đôla, lúc này họ đã trở thành các nhà tư sản, chứ không còn là công nhân nữa.

CNTB hiện đại vẫn không thay đổi bản chất bóc lột của mình, mà chỉ thay đổi hình thức bóc lột theo hướng tinh vi hơn, khôn khéo hơn với mức độ gay gắt hơn. Sự bóc lột đó không dừng lại ở bóc lột sức lao động chân tay mà cả sức lao động trí óc. Vì vậy, trong quan hệ sản xuất TBCN, mặc dù có những thay đổi nhưng GCCN vẫn chủ yếu là những người làm thuê cho giai cấp tư sản, và bị bóc lột giá trị thặng dư với tỷ suất cao hơn nhiều so với trước đây. Theo ILO, hiện nay, tỷ suất bóc lột giá trị thăng dư trong các ngành công nghiệp ở Mỹ và Tây Âu trung bình là 300%, cá biệt có những lúc lên tới 5.000% như tại công ty Microsoft(12).

Bên cạnh đó, những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản không hề giảm đi, mà ngày càng trầm trọng, gay gắt thêm. Tình trạng phân cực giàu nghèo, phân biệt đối xử trong xã hội ngày càng lớn. Số người giàu “chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”(13), trong khi có rất nhiều người lao động nghèo khổ, thất nghiệp bị hất ra hè phố, hàng trăm triệu người bị đe dọa chết đói phải sống trong cảnh khốn cùng... Các phong trào chiếm phố Wall ở Mỹ năm 2017, biểu tình chống phân biệt chủng tộc cuối tháng 5, đầu tháng 6-2020 ở Mỹ... là hệ quả của sự phân cực giàu nghèo, phân biệt đối xử... do sự thống trị của chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN gây ra.

Tất cả điều đó đã nói lên tính chất bóc lột, phản động của CNTB. Đúng như sự nhận định của Đảng ta: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,... chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc”(14).

3. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới

Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển của CNTB, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra vai trò lịch sử của GCCN trong cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội XHCN và CSCN. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông đã viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”(15). GCCN có được sứ mệnh lịch sử đó là do những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội khách quan của GCCN quy định, cụ thể:

Một là, xuất phát từ địa vị kinh tế - xã hội khách quan của GCCN trong CNTB. Về mặt kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao (mà GCCN là đại biểu với tư cách là nhân tố cấu thành, quan trọng nhất của lực lượng sản xuất) với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất (mà giai cấp tư sản là đại diện). Về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn giữa GCCN và giai cấp tư sản, dẫn đến phong trào đấu tranh của GCCN chống lại giai cấp tư sản và CNTB. Hai mặt của mâu thuẫn cơ bản đó không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ CNTB do giới hạn của quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Để giải quyết triệt để mâu thuẫn cơ bản đó, tất yếu phải trải qua cách mạng XHCN do GCCN tiến hành.

Hai là, xuất phát từ những đặc điểm chính trị - xã hội khách quan của GCCN trong CNTB. GCCN được hình thành và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp nên có những đặc điểm, tính chất cơ bản mà những giai cấp, tầng lớp xã hội khác không thể có được. Những đặc điểm và tính chất cơ bản của GCCN quy định tính khách quan trong sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN. Chỉ có GCCN mới có thể lãnh đạo được toàn thể người lao động trong cuộc đấu tranh chống tư bản, có đủ sức tập tan mọi sự phản kháng của bọn tư bản và dẫn dắt nhân dân đến một nền hòa bình lâu dài, đúng như V.I.Lênin khẳng định: “giai cấp công nhân có khả năng nhiều nhất tiếp thu tư tưởng xã hội chủ nghĩa, họ tự giác mang theo chủ nghĩa xã hội và hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hội”(16).

Từ cuối thế kỷ XX, nhân loại bước vào thời đại của công nghệ thông tin, khoa học công nghệ, tri thức đóng vai trò quan trọng, giữ vị trí hàng đầu trong sản xuất công nghiệp và sự phát triển của xã hội. Một số học giả đã cho rằng, lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất mới, có vai trò lãnh đạo xã hội, tiên phong trong mọi cuộc cách mạng hiện nay là tầng lớp trí thức chứ không phải là GCCN như trước đây C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nhận định. Theo họ, C.Mác và Ph.Ăngghen cố tình gán ghép sứ mệnh lịch sử cho GCCN bởi vì các ông thấy đây là giai cấp nghèo khổ nhất, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất chứ hoàn toàn không phải là bản thân giai cấp công nhân có tính tiên phong cách mạng.

Để xem xét vai trò lịch sử của một giai cấp, điều quan trọng là phải dựa trên cơ sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó, chứ không phải xuất phát từ sự nghèo khổ của giai cấp, hay từ ý muốn chủ quan của một số cá nhân hoặc một lực lượng xã hội nào.

Một câu hỏi đặt ra là tại sao lịch sử không lựa chọn giai cấp nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nông dân trong xã hội phong kiến - những giai cấp nghèo khổ nhất, bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất đảm nhận sứ mệnh lịch sử mà lại lựa chọn giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản? Bởi địa chủ, tư sản chính là những giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới.

Trong xã hội tư bản, GCCN là đại biểu của lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến chứ không phải là tầng lớp trí thức. Do gắn liền với phương thức lao động công nghiệp mang tính xã hội hóa và có năng suất lao động cao, GCCN có được những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng.

Sự xuất hiện công nhân trí thức là sự chuyển biến về chất có tính tích cực và cách mạng của GCCN trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, là sự khẳng định vai trò tiên phong của giai cấp công nhân và khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân như chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định. Lấy sự nghèo khổ làm cơ sở để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một lập luận phản khoa học, là mưu đồ hòng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của trí thức trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Những trí thức tiên tiến đứng trên lập trường của GCCN, đấu tranh vì lợi ích của GCCN và nhân dân lao động, có thể trở thành lãnh tụ cách mạng. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội được”(17). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta cũng khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”(18).

Tuy nhiên, trí thức là lực lượng xã hội đặc biệt và không thuần nhất. Trí trức chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Trí thức không trực tiếp tham gia sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, do đó không có vai trò quyết định nhất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trí thức không đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập, không phải là một lực lượng kinh tế chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó trí thức không có hệ tư tưởng riêng. Trí thức đi theo và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp thống trị mà họ phục vụ.

Vì vậy, mặc dù trí thức có vai trò to lớn nhưng không thể đóng vai trò là giai cấp lãnh đạo. Thực tiễn cũng cho thấy, chưa có một quốc gia nào tầng lớp trí thức nắm chính quyền. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ như hiện nay, trí thức chỉ có thể gắn bó cùng với GCCN trong sự nghiệp cách mạng chung là xóa bỏ chế độ TBCN, xây dựng chế độ XHCN cộng sản chủ nghĩa.

Tóm lại, từ khi CNXH còn là một học thuyết cho đến khi trở thành chế độ xã hội hiện thực đã và đang trải qua bốn cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ. Sự ra đời và phát triển của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ đã tác động và làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có CNXH (xét cả về lý luận lẫn thực tiễn). Song, từ những thành tựu, khủng hoảng và triển vọng của CNXH đều cho thấy, những vấn đề cơ bản nhất về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN mà chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra: về địa vị của GCCN trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại; về quan hệ của GCCN với tư liệu sản xuất trong CNTB; về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn mà không ai có thể bác bỏ được.

__________________

(1), (16) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.56, 565.

(2), (3), (10), (15) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.464, 610, 610, 605.

(4), (6) https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/819840/nhung-nhan-thuc-moi-ve-giai-cap-cong-nhan-hien-nay*.aspx

(5), (7) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2018, tr.40, 40.

(8) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.613.

(9) Học viện Chính trị khu vực II: Tập bài giảng môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr.68.

(11) http://hdll.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/ban-chat-dac-diem-xu-huong-van-dong-cua-chu-nghia-tu-ban-hien-dai.html.

(12) Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Kỷ yếu hội thảo khoa học Những luận điểm về chủ nghĩa xã hội đã bị lịch sử vượt qua hoặc cần nhận thức lại, Hà Nội, 2007, tr.98-99.

(13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 966 (5-2021), tr.5.

(14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.68.

(17) V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1987, tr.217.

(18) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.67, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.792.