Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát công tác tổ chức và cán bộ

 

TCCS - Giám sát công tác tổ chức, cán bộ là một hoạt động rất quan trọng, được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tích cực thực hiện, nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thời gian tới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục thực hiện và nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động quan trọng này, để xứng đáng với vị trí, vai trò trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Nội dung giám sát công tác tổ chức, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQ) là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần tạo đồng thuận xã hội và gắn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, liên quan đến công tác cán bộ; trong đó, có nhiều văn bản giao cho MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát công tác cán bộ. Điểm đáng chú ý là trong các văn bản này, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xác định vai trò quan trọng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát công tác tổ chức cán bộ.

Để cụ thể hóa các nhiệm vụ được Đảng tin tưởng giao phó, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (Ban Thường trực) đã phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ban hành Chương trình phối hợp số 30/CTPH-MTTW-TCTV, ngày 30-10-2018, “Về phối hợp giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII”. 

Chương trình phối hợp đã xác định rõ những vấn đề mà MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung giám sát, như giám sát việc triển khai, thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; giám sát việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; giám sát việc triển khai xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; việc thực hiện công khai, minh bạch các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; giám sát, xác minh, kiến nghị xử lý kịp thời thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng đối với các nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; giám sát các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giám sát việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Để việc giám sát được thực hiện thống nhất trong hệ thống mặt trận, Ban Thường trực đã ban hành Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT, ngày 22-9-2020, về “Hướng dẫn giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ”, trong đó tập trung vào giám sát ba nội dung chủ yếu, cụ thể như sau: 

Thứ nhất, giám sát việc thực hiện các quy định về công tác cán bộ; trong đó, đặt trọng tâm vào việc giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các quy định về xây dựng đội ngũ cán bộ. Giám sát việc công khai và thực hiện quy trình các khâu trong quản lý cán bộ, như tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động, luân chuyển cán bộ và phân cấp quản lý cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ; thực hiện chế độ, chính sách cán bộ; kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác cán bộ và cán bộ. Giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự lãnh đạo của từng cấp theo quy định; việc cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ.

Căn cứ tình hình và yêu cầu thực tế, ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp sẽ chủ động lựa chọn nội dung giám sát cho phù hợp với từng thời điểm cụ thể; thường xuyên, đột xuất, định kỳ tổng hợp, phản ánh ý kiến của nhân dân, người uy tín tiêu biểu về công tác cán bộ đến cấp ủy, chính quyền, nhất là việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp (người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền).

Thứ hai, giám sát việc thực hiện các quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền theo Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị. Theo đó, Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT đã nêu rõ phương hướng để Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình thực hiện quy định nói trên. Hoạt động chủ yếu là, lắng nghe ý kiến nhân dân; phản ánh, cung cấp thông tin với cấp ủy, chính quyền những trường hợp cán bộ thiếu tiêu chuẩn, điều kiện, không trung thực; có biểu hiện lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm nguyên tắc, quy định trong công tác cán bộ; có các biểu hiện tiêu cực, hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Giám sát việc thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát của cấp có thẩm quyền đối với cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ; giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.

Thứ ba, giám sát việc thực hiện trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo, tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện góp ý, giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ. Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT tập trung vào giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư(1) và các quy định có liên quan đến việc thực hiện góp ý, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tại địa phương.

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trao đổi với các đại biểu tại Hội nghị Đoàn Chủ tịch lần thứ 11 (khóa IX)_Nguồn: mattran.org.vn

Những kết quả nổi bật và một số hạn chế khi thực hiện giám sát công tác tổ chức, cán bộ trong thời gian qua

Ngay sau khi Chương trình phối hợp số 30/CTPH-MTTW-TCTV, ngày 30-10-2018 được ký kết, Ban Thường trực đã cùng các tổ chức chính trị - xã hội triển khai thực hiện, trong đó tập trung vào thực hiện các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng, giám sát đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ.

Năm 2019, Ban Thường trực đã chủ trì phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội chủ động xây dựng kế hoạch để triển khai và thực hiện giám sát tại một số địa phương, như thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Giang... Qua giám sát, Ban Thường trực đã có những kiến nghị cụ thể tới các cơ quan hữu quan về những nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ phát sinh trong thực tế.

Đến năm 2021, dù tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, nhưng hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn được thực hiện đồng bộ tới tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở báo cáo việc thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ của các tỉnh ủy, thành ủy và báo cáo của ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam của 58/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về kết quả giám sát đối với cấp ủy cấp huyện, cấp xã, có thể thấy công tác này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. 

Thứ nhất, về giám sát việc triển khai, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định của Đảng về công tác cán bộ: Nhìn chung, cấp ủy các cấp đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo về công tác cán bộ để lãnh đạo, quán triệt tổ chức thực hiện nghiêm túc tại địa phương, cơ sở. Tính riêng trong năm 2020, cấp ủy các cấp đã ban hành 6.250 văn bản nhằm chỉ đạo, phối hợp thực hiện các quy định liên quan đến công tác cán bộ, đảng viên. Hệ thống văn bản hướng dẫn khá chặt chẽ, đồng bộ; có những cách làm mới, phù hợp thực tiễn gắn với quy trình cán bộ được thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch. Cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Cùng với việc triển khai thực hiện các quy định của Trung ương về công tác tổ chức, cán bộ, các địa phương đã xây dựng đề án về xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn, có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Đối với việc triển khai các quy định của Trung ương về cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ có liên quan đến vai trò của MTTQ Việt Nam, cấp ủy các cấp cũng đã ban hành các chỉ thị, quy định và kế hoạch hằng năm để chỉ đạo các đơn vị triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời(2)

Thứ hai, qua giám sát việc thực hiện các quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, lao động hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP cho thấy, việc tuyển dụng cơ bản đúng quy trình theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010; các nghị định của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức; về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ... Việc thực hiện quy trình tuyển dụng công chức, viên chức thông qua hình thức thi tuyển và xét tuyển, cơ bản đúng tiêu chuẩn, quy trình. Việc xét tuyển viên chức được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm quy trình, tiêu chuẩn, có sự quan tâm đến các đối tượng ưu tiên, như gia đình chính sách, hộ nghèo, cán bộ nữ, cán bộ trẻ có thành tích học tập xuất sắc...; tuyển dụng theo đúng vị trí việc làm và phù hợp với bằng cấp chuyên môn được đào tạo cũng như yêu cầu công tác, hướng đến mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức, viên chức trẻ, ngày càng có trình độ, năng lực, đáp ứng với yêu cầu trong tình hình mới. Một số địa phương căn cứ yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển để xem xét, tiếp nhận vào làm công chức đối với các trường hợp đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn. Việc ký hợp đồng lao động cũng cơ bản bảo đảm đúng chỉ tiêu, trình độ, phù hợp với nhiệm vụ. Trong quá trình tuyển dụng công chức, viên chức và hợp đồng lao động không phát sinh đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dự tuyển. Tuy nhiên, trong năm 2020, do tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, nên một số địa phương không thực hiện công tác tuyển dụng cán bộ, công chức.

Thứ ba, về giám sát quy định về bổ nhiệm cán bộ: Kết quả giám sát năm 2020 cho thấy, các cơ quan cấp tỉnh bổ nhiệm các chức danh quản lý cho 4.581 người, trong đó bổ nhiệm là 3.086 người, bổ nhiệm lại là 1.495 người. Các cơ quan cấp huyện thực hiện bổ nhiệm và bổ nhiệm lại các chức danh quản lý là 13.381 người. Các cơ quan cấp xã bổ nhiệm 6.797 người. Công tác bổ nhiệm cán bộ của các địa phương cơ bản được thực hiện đúng quy trình, quy định, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chặt chẽ, thận trọng, hạn chế tối đa tình trạng chạy chức, chạy quyền, tạo môi trường cho cán bộ rèn luyện, cống hiến, trưởng thành. Quy trình bổ nhiệm cán bộ được áp dụng theo quy định của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ, bảo đảm đúng tiêu chuẩn, điều kiện của cán bộ về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ; đội ngũ cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Điều quan trọng là, các quy trình bảo đảm yêu cầu phân cấp, phân quyền, được thực hiện nghiêm túc, rà soát kỹ từng trường hợp.

Trong quá trình giám sát, khi phát hiện những vấn đề thiếu sót, chưa rõ, bộ phận chuyên môn của cơ quan MTTQ Việt Nam các cấp đã kịp thời trao đổi với cấp ủy, chính quyền một số địa phương để nắm bắt thêm thông tin(3), đề nghị giải trình từng trường hợp và rút kinh nghiệm trong thời gian tới. Đối với trường hợp cán bộ có dấu hiệu vi phạm về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm, ban thường trực ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp kịp thời ban hành công văn đề nghị cấp ủy địa phương rà soát để xử lý theo đúng quy định(4).

Thứ tư, về chuyển đổi vị trí công tác: Kết quả giám sát cho thấy, cấp tỉnh đã thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với 4.942 trường hợp cán bộ, công chức, viên chức. Cấp huyện chuyển đổi 3.362/3.956 trường hợp trong diện chuyển đổi vị trí công tác (đạt 84,9%), còn 594 trường hợp chưa chuyển đổi (chiếm 15,1%). 

Nhìn chung, công tác chuyển đổi vị trí việc làm được cấp ủy các cấp quan tâm, chỉ đạo kịp thời, thường xuyên, bảo đảm đúng theo quy trình, thủ tục, góp phần thực hiện tốt Luật Phòng, chống tham nhũng. Mặt tích cực của chuyển đổi vị trí việc làm là giúp nhiều công chức, viên chức có điều kiện rèn luyện bản lĩnh, nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, khả năng thích nghi, nắm bắt địa bàn, đối tượng quản lý; từ đó, tham mưu các giải pháp tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn bảo đảm hiệu quả tốt. Nhiều công chức bày tỏ sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới, phục tùng tuyệt đối sự phân công của tổ chức. Việc chuyển đổi vị trí việc làm góp phần hạn chế tình trạng khép kín, cục bộ, tiêu cực trong thực thi công vụ.

Thứ năm, kết quả giám sát về kê khai và công khai tài sản đối với cán bộ, công chức, viên chức của các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng và chính quyền, cơ quan hành chính nhà nước các cấp cho thấy, qua thống kê chưa đầy đủ của các địa phương trong năm 2020, ở cấp tỉnh, số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập lần đầu là 447.910 người, trong đó số người đã kê khai tài sản lần đầu là 447.579 người (đạt 99,9%). Ở cấp huyện, số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập lần đầu là 182.795 người, số người đã kê khai tài sản lần đầu là 181.478 người (đạt 99,3%). 

Việc thực hiện công khai bản kê khai tài sản bằng hình thức niêm yết tại nơi làm việc của cán bộ hoặc công khai bản kê khai tại cuộc họp được tiến hành theo đúng quy định. Hồ sơ lưu trữ được thiết lập theo quy định; danh sách người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập lần đầu, các bản kê khai tài sản của người kê khai được lập đầy đủ; việc giao nhận bản kê khai được thực hiện nghiêm túc; biên bản niêm yết bản kê khai tài sản, thu nhập của từng cơ quan, đơn vị được thực hiện chặt chẽ. Kết quả triển khai thực hiện công tác kiểm soát tài sản, thu nhập được báo cáo cơ quan có thẩm quyền theo quy định.

Thứ sáu, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, một trong những tiêu chuẩn luôn được nhấn mạnh và thảo luận, xem xét kỹ lưỡng là: Người ứng cử phải gương mẫu chấp hành pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các vi phạm pháp luật. Quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử được ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp tuân thủ triệt để. Tổ chức Mặt trận đã lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử bảo đảm đúng cơ cấu, thành phần, số lượng, không đưa vào danh sách những ứng cử viên có dấu hiệu tham nhũng, không trung thực trong kê khai tài sản hoặc vi phạm pháp luật về bầu cử. Đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND sau khi MTTQ Việt Nam tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú mà có số phiếu tín nhiệm thấp thì đều không được các cấp hiệp thương của tổ chức mặt trận đưa vào danh sách hiệp thương chính thức (loại khỏi danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND)(5). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực hiện nghiêm nhiệm vụ giám sát bầu cử, góp phần bảo đảm các cuộc bầu cử diễn ra dân chủ, lựa chọn được những ứng cử viên xứng đáng để giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước.

Thứ bảy, việc giám sát công tác tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên cũng được quan tâm thực hiện thường xuyên. Hằng năm, đại diện Ban Thường trực là thành viên Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều thực hiện việc đánh giá, thẩm định, cho ý kiến đối với các hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao(6); là thành viên Hội đồng thi tuyển kiểm sát viên cao cấp, trung cấp và sơ cấp, thực hiện việc cho ý kiến vào danh sách đề nghị thi tuyển kiểm sát viên và danh sách đề nghị được bổ nhiệm kiểm sát viên các cấp theo quy định. 

Sự tham gia của MTTQ Việt Nam trong công tác tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên đã góp phần giúp cho các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước bổ nhiệm được đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên có đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng được yêu cầu, chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp trong giai đoạn mới(7).

Hoạt động giám sát công tác tổ chức, cán bộ của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian qua, nhất là từ khi có Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Bộ Chính trị, đã thu được những kết quả có ý nghĩa trên nhiều phương diện. Điều này góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức đối với vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam. Các hoạt động giám sát công tác tổ chức, cán bộ được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm theo dõi và đồng tình ủng hộ, các cơ quan thông tin đại chúng cũng  hưởng ứng và tích cực tuyên truyền cho các hoạt động này. 

Bên cạnh những kết quả đạt được, qua giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ, Ban Thường trực nhận thấy vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhận thức của một số cấp ủy và tổ chức đảng về công tác giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ có mặt chưa đầy đủ. Sau giám sát, xử lý vi phạm ở một số nơi còn thiếu kiểm tra việc khắc phục, sửa chữa những sai phạm, thiếu sót của cán bộ, đảng viên. Tâm lý ngại va chạm, nể nang, né tránh, thiếu bản lĩnh khi thực hiện nhiệm vụ giám sát công tác tổ chức, cán bộ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động giám sát.

Vai trò chủ động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tham mưu, đề xuất với cấp ủy, phối hợp các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ giám sát công tác tổ chức, cán bộ có nơi còn hạn chế hoặc khi có dư luận thì mới tiến hành giám sát; hoạt động giám sát thiếu tính thường xuyên.

Khi tiến hành quy trình giám sát liên quan đến công tác cán bộ còn nhiều lúng túng, khó khăn nhất định. Hạn chế này mang nhiều yếu tố chủ quan; bởi lẽ yêu cầu đặt ra đối với cán bộ làm công tác giám sát là phải nắm chắc các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, trong khi hầu hết cán bộ làm công tác giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội lại chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, chủ yếu mới chỉ được tập huấn ngắn hạn do MTTQ Việt Nam triển khai trong hệ thống

Trong khi đó, sự phối hợp giữa MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong thực hiện giám sát công tác cán bộ còn chưa nhịp nhàng; việc xác định nội dung, phương pháp, hình thức giám sát còn nhiều lúng túng; chất lượng giám sát có lúc chưa cao; việc giải quyết kiến nghị của một số ngành, chính quyền địa phương còn chậm.

Giải pháp phát huy vai trò giám sát công tác tổ chức, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy để phát huy vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, MTTQ Việt Nam sớm hoàn thiện Đề án trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới. Đây là văn bản quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy các cấp tăng cường hoạt động giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức, cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực sự hiệu quả.

Cần thu hút và sử dụng được những người thực sự có đức, có tài, có bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động giám sát (Trong ảnh: Các đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX)_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động nghiên cứu kỹ các văn bản của Đảng, quy định của Nhà nước để từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới. Giám sát công tác tổ chức, cán bộ là việc khó; vì vậy, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải quy định toàn diện, đầy đủ, cụ thể và rõ ràng các vấn đề liên quan. Yêu cầu này tạo cơ sở pháp lý không chỉ cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, mà còn là cơ sở để các cơ quan, tổ chức, nhất là những đối tượng chịu sự giám sát phải thực hiện nghiêm.

Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức khác trong thực hiện giám sát công tác tổ chức, cán bộ. Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam chỉ có thể phát huy hiệu quả tốt khi có sự phối hợp và thực hiện một cách đồng bộ với các hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần tăng cường kết hợp giữa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên với hoạt động thanh tra của các cơ quan nhà nước, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp... Như vậy, sẽ góp phần làm cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam ngày càng hiệu quả, huy động được các cơ quan, tổ chức và nhân dân tham gia, sẽ tạo sức mạnh trong giám sát.

Thứ tư, việc giám sát công tác tổ chức, cán bộ và giám sát đối với cán bộ, đảng viên phải được thực hiện thường xuyên; cần sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc triển khai các hoạt động giám sát công tác tổ chức cán bộ trong thời gian qua để lựa chọn những nội dung giám sát sao cho sát - đúng, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với điều kiện thực tế của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ năm, để thực hiện tốt việc giám sát công tác cán bộ, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần thu hút và sử dụng được những người thực sự có đức, có tài, có bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động giám sát. Tăng cường các biện pháp nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo mặt trận các cấp, có chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức để thực hiện giám sát. Tập hợp, phát huy tối đa tiềm năng to lớn của các tổ chức thành viên và các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa học, các hội đồng tư vấn để họ cùng tham gia các hoạt động giám sát, giúp nâng cao chất lượng giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đối với các địa phương, cần quan tâm đẩy mạnh công tác tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về phương pháp, cách làm hiệu quả, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; các cán bộ làm công tác mặt trận ở cơ sở cần được trang bị tốt kiến thức về chính sách, pháp luật để thực hiện giám sát có hiệu quả./.

-----------------

(1) Như: Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị) và Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền (Ban hành kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị); giám sát việc thực hiện Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; giám sát việc thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”.

(2) Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”.

(3) Đề nghị Thường trực Tỉnh ủy các tỉnh: Yên Bái, Lạng Sơn, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Bắc Kạn bổ sung thông tin về bằng cấp chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, danh sách tuyển dụng công chức, danh sách bổ nhiệm...

(4) Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ban hành văn bản số 3237/MTTW-BTT, đề nghị báo cáo về thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ, đề nghị Tỉnh ủy Lào Cai báo cáo cụ thể về thực hiện quy trình, điều kiện bổ nhiệm cán bộ đối với đồng chí Đàm Quang Vinh và kết quả kiểm tra, xác minh, xử lý thông tin Báo Lao động nêu. Ngày 7-12-2021, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nhận được Báo cáo số 195-BC/TU, ngày 2-12-2021, của Tỉnh ủy Lào Cai, “Về việc thực hiện quy trình, điều kiện bổ nhiệm đồng chí Đàm Quang Vinh giữ chức vụ Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai và xác minh thông tin”, đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng thi hành kỷ luật đối với đồng chí Đàm Quang Vinh; ngày 25-11-2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 4135/QĐ-UBND, kỷ luật công chức với hình thức buộc thôi việc đối với đồng chí Đàm Quang Vinh, Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai.

(5) Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, so với danh sách trình ra Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất, qua các lần hiệp thương, ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã loại khỏi danh sách hiệp thương chính thức 150 ứng cử viên đại biểu Quốc hội và 63.607 ứng cử viên đại biểu hội đồng nhân dân các cấp do đã phát hiện vi phạm chính sách, pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm đạo đức, lối sống và không được cử tri nơi công tác, nơi cư trú tín nhiệm (Báo cáo số 259/BC-MTTW, ngày 8-7-2016, của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về tổng kết công tác Mặt trận tham gia bầu cử).

Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thành lập 9 đoàn kiểm tra, giám sát công tác bầu cử, trong đó, tổ chức kiểm tra, giám sát trực tiếp tại 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh đã chủ trì tổ chức 480 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 845 đoàn; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện đã chủ trì tổ chức 2.764 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 4.269 đoàn; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã đã chủ trì tổ chức 18.490 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 23.696 đoàn công tác bầu cử.

(6) Năm 2020, đại diện Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã cho ý kiến về 8 hồ sơ bổ nhiệm kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; cho ý kiến đối với 1.561 hồ sơ dự thi kiểm sát viên, viện kiểm sát nhân dân các cấp.

(7) Năm 2020, đại diện Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia đã phối hợp cho ý kiến đối với 729 hồ sơ bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, bãi nhiệm thẩm phán tòa án nhân dân các cấp.

Vận dụng quan điểm của V.L. Lê-nin về xây dựng tổ chức cơ sở đảng vào thực tiễn Việt Nam

 

TCCS - Theo V.I. Lê-nin, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị. Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự vững mạnh của toàn Đảng. Những quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng là kinh nghiệm quý để Đảng ta vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng

Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục_Ảnh: Tư liệu

Tổ chức cơ sở đảng là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở tuân thủ đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, đấu tranh về quan điểm và rèn luyện đảng viên; gắn kết Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện tốt chủ trương của Đảng. Thực hiện tốt công tác xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở là điều kiện tiên quyết để Đảng vững mạnh. Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Đó là:

Thứ nhất, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện đường lối của Đảng ở cơ sở. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I. Lê-nin cho rằng, để sự nghiệp cách mạng thành công “đòi hỏi phải có cho toàn nước Nga một tổ chức thống nhất gồm những người cách mạng, một tổ chức có khả năng đảm nhiệm việc lãnh đạo các tổ chức nghiệp đoàn của công nhân trong phạm vi toàn Nga”(1). Đặc biệt, khi đề cập đến vấn đề xây dựng đảng kiểu mới, V.I. Lê-nin khẳng định cần thành lập tổ chức đảng ở các công xưởng, nhà máy, các địa phương theo chế độ phân cấp rõ ràng. “Ở tất cả các tổ chức, các hội, các hiệp hội, không trừ một loại nào... phải tổ chức những tiểu tổ hay những chi bộ Cộng sản... những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng”(2). Sau khi thành lập, các chi bộ phải thực hiện cổ động, tuyên truyền,... thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với mọi tầng lớp quần chúng lao động. Thông qua thực tiễn ở cơ sở để kiểm nghiệm chủ trương, đường lối và bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, lấy kết quả hoạt động thực tế làm thước đo đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đảng.

Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; liên hệ chặt chẽ với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực hiện lý tưởng của Đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”(3). Trong đó, chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng, vì vậy, V.I. Lê-nin yêu cầu các chi bộ “thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”(4); qua lao động, thực tiễn đấu tranh cách mạng mà thử thách đảng viên để nâng cao uy tín của Đảng, tạo sự gắn bó, tin tưởng của nhân dân với Đảng. Trong bài viết Nhà nước của công nhân và Tuần lễ Đảng, V.I. Lê-nin cho rằng, cần “quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên”(5).

Thứ ba, bảo đảm tính đảng của tổ chức cơ sở đảng. Tính đảng được hiểu là sự thừa nhận một cách tự nguyện và trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng, mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng đã lựa chọn; tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính tổ chức, tính kỷ luật của Đảng; là những chuẩn mực giữa lời nói và hành động trong các hoạt động xã hội. Trong bài viết Về việc phá hoại sự thống nhất, che đậy bằng những lời kêu gào thống nhất, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Ở nơi nào mà đa số công nhân giác ngộ đoàn kết xung quanh những nghị quyết rõ ràng và chính xác, thì ở đó có sự nhất trí về tư tưởng và hành động, ở đó có tính đảng và đảng”(6). Tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên phải nhận thức sâu sắc nghị quyết, thấm nhuần tư tưởng của Đảng, bền bỉ phấn đấu, đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ tư, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức đảng ở cơ sở. Theo V.I. Lê-nin, tập trung dân chủ nghĩa là kết hợp lãnh đạo, quản lý tập trung với tinh thần tích cực sáng tạo của quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước Nga, V.I. Lê-nin luôn nhất quán quan điểm: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(7). Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản cầm quyền, mà trước hết chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt dân chủ và tập trung; tập trung và dân chủ vừa đối lập nhau, vừa liên kết với nhau, mặt này là tiền đề, điều kiện cho mặt kia và ngược lại. Tập trung và dân chủ kết hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể không thể thiếu của nguyên tắc tổ chức đảng vô sản, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, còn tập trung là điều kiện để bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Phủ định hay loại trừ bất cứ mặt nào đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng làm việc với Ban thường vụ Tỉnh ủy Long An về tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 (Trong ảnh: Đồng chí Võ Văn Thưởng thăm Hợp tác xã rau an toàn Phước Thịnh tại xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An)_Ảnh: TTXVN

Hiện nay, toàn Đảng ta có 52.125 tổ chức cơ sở đảng với 5.192.533 đảng viên. Trực thuộc đảng ủy cơ sở có 2.478 đảng bộ bộ phận và 227.328 chi bộ(8) thuộc các loại hình tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp; doanh nghiệp; đơn vị quân đội, công an; đơn vị ở ngoài nước.

Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện rõ qua các kỳ Đại hội. Những năm gần đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở; bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng(9). Đây là hệ thống những văn bản quan trọng, làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.

Tại các cơ sở đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng đề cao. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng thường xuyên đổi mới, tổ chức dưới hình thức trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở đã nhanh chóng tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống. Đơn cử, Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII được truyền hình trực tuyến với 2.700 điểm cầu, hơn 405.000 cán bộ, đảng viên tham dự(10); Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được kết nối với 67 điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và đường truyền mở rộng đến hơn 7.400 điểm cầu cơ sở với gần 1 triệu đảng viên tham gia(11). Công tác tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” dần đi vào nền nếp; cấp ủy cấp trên gương mẫu thực hiện nghiêm túc, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng gợi ý, dự chỉ đạo kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cấp dưới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên với nhiều cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực.

Quán triệt Nghị quyết 18-NQ/TW về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua sắp xếp đã giảm trên 3.000 tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình, trong đó giảm 565 đảng bộ xã, phường, thị trấn và giảm trên 10.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn hệ thống chính trị ở cơ sở, giảm chi ngân sách nhà nước cho hoạt động của các tổ chức đảng(12). Chú trọng nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng. Giai đoạn 2015 - 2020, đã tổ chức trên 3.000 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho trên 325.000 lượt cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách làm công tác đảng.

Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên; nhiều cấp ủy đã hướng dẫn nội dung sinh hoạt đối với từng loại hình chi bộ, ban hành tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề việc chấp hành nền nếp, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Hầu hết các chi bộ đều đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, tập trung nhiều hơn cho sinh hoạt chính trị tư tưởng, công tác đảng, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, từng đối tượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thực chất hơn, sát với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng đội ngũ đảng viên mới cho tổ chức đảng ở cơ sở được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ta đã kết nạp được 880.155 đảng viên, trình độ chuyên môn của đảng viên mới kết nạp được nâng lên, có đến 41,5% đảng viên có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 3% là thạc sĩ và 0,15% là tiến sĩ, cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ với 67,67% là đoàn viên, 43,72% là nữ(13). Đặc biệt, thành công trong việc thí điểm kết nạp 6.652 chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng(14).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận một số yếu kém nhất định trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là khả năng dự báo, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sinh hoạt chi bộ ở một số nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được xem trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; động cơ vào Đảng của một số quần chúng chưa đúng đắn. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút. Việc xét miễn, giảm công tác và sinh hoạt đảng chưa chặt chẽ, việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú còn khó khăn, phức tạp; số đảng viên xin ra khỏi Đảng, bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng lên; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa được tiến hành thường xuyên(15).

Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng

Buổi sinh hoạt chi bộ của Chi bộ 4, xã Đường Hoa, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh được tổ chức trên chính phương tiện khai thác của bà con ngư dân trong những chuyến vươn khơi bám biển_Nguồn: baoquangninh.com.vn

Quán triệt quan điểm “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên”(16), cùng với vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin, hướng tới xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, cần triển khai đồng bộ một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tích cực đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; kịp thời phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực để khuyến khích, tạo động lực cho mọi đảng viên ra sức phấn đấu, học tập, cống hiến vì sự nghiệp chung.

Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với quan tâm chấn chỉnh tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Tiếp tục sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là đổi mới bộ máy bên trong. Rà soát, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số tổ chức cơ sở đảng. Nghiêm túc thực hiện quy chế làm việc cấp cơ sở.

Ba là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh việc nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy ở cơ sở thì cần từng bước thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.

Bốn là, tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy tại chi bộ để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu là việc làm trọng yếu, thường xuyên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng. Chú trọng việc thực hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, khắc phục tình trạng chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng, xem nhẹ tiêu chuẩn, điều kiện. Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên hợp lý cả về lượng và chất, cơ cấu phù hợp với thực tế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, trong lực lượng vũ trang. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, hướng dẫn để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp thực hiện

 

TCCS - Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đặt ra yêu cầu đến năm 2025 phải cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện, đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác. Để thực hiện thành công mục tiêu này, cấp ủy các cấp từ Trung ương tới cơ sở phải có sự thống nhất về nhận thức, xây dựng được kế hoạch triển khai cụ thể và chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả việc tổ chức thực hiện. 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên_Ảnh: TTXVN 

Thực tiễn 20 năm thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương

Chủ trương bố trí lãnh đạo không là người địa phương được Đảng ta nêu lên từ Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25-1-2002, của Bộ Chính trị, “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý”, trong đó có nội dung “thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương” và trước mắt tổ chức thí điểm việc điều động, luân chuyển một số đồng chí về làm bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, làm điểm việc bố trí bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương ở một số tỉnh, thành phố. Khi thực hiện việc luân chuyển này có hiệu quả sẽ nhân rộng ra các đối tượng khác và luân chuyển từ vùng, miền này sang vùng, miền khác.

Trong 20 năm qua, chủ trương này luôn được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị nhất quán lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và thường xuyên được nhắc tới trong các văn kiện lãnh đạo của Đảng liên quan tới công tác cán bộ(1), với mục tiêu, yêu cầu ngày càng cao(2).

Thực tiễn cho thấy, quá trình thực hiện việc luân chuyển, bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận: 1- Đã tạo ra sự đổi mới mang tính đột phá trong công tác cán bộ, gắn kết chặt chẽ giữa luân chuyển với thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương cả về mục tiêu và nhiệm vụ; 2- Ở những nơi bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, tình hình kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, tác phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên có nhiều chuyển biến tích cực; 3- Nhiều vấn đề khó, phức tạp tồn tại qua nhiều nhiệm kỳ đã được xử lý, giải quyết; khắc phục những hạn chế trong công tác cán bộ, tình trạng cục bộ địa phương, “một người làm quan cả họ được nhờ”, phát huy tính sáng tạo, năng động, chủ động và tâm huyết, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ; 4- Góp phần phòng ngừa quan liêu, tham nhũng, tiêu cực và giúp cán bộ trưởng thành vững chắc; giúp kiểm soát quyền lực tốt hơn, giảm thiểu nguy cơ không tuân thủ sự lãnh đạo của cấp trên; 5- Hầu hết cán bộ qua luân chuyển, bố trí đều có bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong lãnh đạo, điều hành; 6- Góp phần quan trọng vào việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống quy định về công tác cán bộ, kiểm soát quyền lực; 7- Góp phần quan trọng trong việc xây dựng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc luân chuyển, bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập như sau:

Thứ nhất, công tác điều động, luân chuyển cán bộ gắn với bố trí cán bộ lãnh đạo không là người địa phương trong ba nhiệm kỳ qua, trong đó có bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện còn một số bất cập, chưa đạt yêu cầu.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thống nhất về ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất; chưa có quy định cụ thể việc thực hiện chủ trương nên việc thực hiện giữa các địa phương còn khác nhau, thiếu sự thống nhất và kết quả còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động xây dựng kế hoạch bố trí các chức danh bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, chưa gắn công tác luân chuyển, bố trí cán bộ với quy hoạch cán bộ. Việc thực hiện bố trí còn thiếu chủ động, chưa tích cực. Khâu đánh giá, lựa chọn, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử để bố trí, sắp xếp chức danh bí thư cấp ủy không là người địa phương còn nhiều bất hợp lý. Số lượng, chất lượng bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra. Quá trình tổ chức triển khai bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế; cơ chế, chính sách, quy định liên quan đến chủ trương này còn nhiều bất cập.

Thứ hai, hạn chế trong việc nắm bắt tình hình, tiếp cận công việc của người đứng đầu. Vì không là người địa phương nên bí thư cấp ủy phải mất thời gian nắm vững địa bàn, con người, văn hóa, tài nguyên, làm quen với phong cách, lề lối làm việc, tổ chức bộ máy... Vì vậy, một số cán bộ thời gian đầu mới xuống cơ sở công tác còn lúng túng, xử lý, giải quyết một số vụ, việc còn chậm, thiếu kiên quyết. Bên cạnh đó, tư tưởng cục bộ tại một số địa phương đã gây ra những khó khăn cho cán bộ được bố trí về làm bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện mà không phải là người địa phương. Một mặt, ở một số địa phương, có những cán bộ chủ chốt còn có tư tưởng không muốn tiếp nhận người ở nơi khác đến công tác, nên không nhiệt tình giúp đỡ cán bộ được điều động đến, thậm chí có nơi còn có thái độ chống đối. Thực trạng này dẫn tới hệ lụy là, nhiều đồng chí bí thư thời gian đầu nhận nhiệm vụ thường cảm thấy rất “cô đơn”, “lạc lõng”. Mặt khác, có không ít cán bộ còn nhận thức rằng đi luân chuyển để được đề bạt lên chức vụ cao hơn, việc giữ chức vụ này chỉ mang tính chất tạm thời hoặc chỉ là bước đệm, vì vậy, có biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, thiếu quyết liệt, chỉ lo “tròn vai”, giữ mình chờ ngày về, chưa thực sự tâm huyết, nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện để khẳng định rõ hơn năng lực bản thân, vì thế chưa thực sự có những đóng góp thiết thực, hiệu quả ở địa phương.

Thứ ba, bố trí cán bộ còn chưa bảo đảm đúng yêu cầu, nhiệm vụ, chưa đúng sở trường của cán bộ. Một số cán bộ được bố trí về làm bí thư cấp ủy một số tỉnh, huyện thời gian qua còn mang tính xử lý tình huống trước mắt; có hiện tượng một số cán bộ được bố trí chưa bảo đảm thời gian đã được cấp có thẩm quyền phân công, bố trí công tác khác hoặc rút về và được bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn, do vậy, không đủ quỹ thời gian cần thiết để làm được những gì mình mong muốn, chưa tạo dựng được những dấu ấn cần thiết. Phần lớn cán bộ cơ quan cấp trên được bố trí xuống làm bí thư cấp ủy địa phương là cán bộ trưởng thành từ công tác chuyên môn, quản lý ngành và lĩnh vực cụ thể, trong khi làm bí thư tỉnh ủy, huyện ủy là một nhiệm vụ đòi hỏi lãnh đạo toàn diện; bên cạnh đó, một số cán bộ còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thiếu kỹ năng cần thiết nên lúng túng, khó hòa nhập, không phát huy được vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tại địa phương.

Thứ tư, khi đưa cán bộ từ nơi khác về làm bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện, phát sinh tâm tư trong nội bộ, làm ảnh hưởng đến động lực phấn đấu của cán bộ địa phương. Trong thực tế, một số cán bộ ở địa phương có đủ năng lực, kinh nghiệm và uy tín để đảm nhận vị trí người đứng đầu và mong muốn được cống hiến cho quê hương của mình, nhưng lại không được bố trí.

Thứ năm, chậm có cơ chế theo dõi, nhận xét, đánh giá, khuyến khích và bảo vệ cán bộ được bố trí làm bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện. Chế độ, chính sách cho việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương còn nhiều hạn chế, bất cập; chưa có chính sách hỗ trợ hiệu quả việc đi lại thăm gia đình, chưa có quy định bố trí công việc cho vợ hoặc chồng, trợ giúp gia đình đi cùng để cán bộ yên tâm công tác...

Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn 20 năm thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương

Thực tiễn 20 năm thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương đã mang lại nhiều kết quả và bài học kinh nghiệm rất quan trọng đối với công tác cán bộ của Đảng; góp phần đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là đội ngũ bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhận được sự đồng tình cao của đội ngũ cán bộ, đảng viên và cấp ủy cơ sở. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức thực hiện chủ trương này thời gian qua cũng bộc lộ một số vấn đề cần quan tâm, cụ thể như sau:

Một là, nhận thức về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương còn chưa thực sự đầy đủ, sâu sắc và còn thiếu sự thống nhất, đồng thuận cao. Khái niệm thế nào là người địa phương, thế nào không là người địa phương vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thực sự thống nhất. Hiện tại vẫn chưa có cơ chế đánh giá một cách căn cơ, hiệu quả cán bộ qua các giai đoạn trước, trong và sau luân chuyển, bố trí. Bố trí cán bộ là theo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Trung ương hay địa phương, không hạn định chặt chẽ về tuổi, về thời hạn, có thể là cán bộ không trong quy hoạch, có thể gắn với luân chuyển cán bộ hoặc không..., trong khi đó, cán bộ luân chuyển phải là cán bộ trong quy hoạch, tuổi trẻ, thực hiện có thời hạn, mục đích chính là để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ.

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hòa Bình_Ảnh: Tư liệu

Hai là, về cơ bản, đa số ý kiến đồng tình với chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương nhưng cho rằng, khi thực hiện cần quan tâm đến yếu tố liên vùng, tương đồng và có cơ chế, chính sách đồng bộ, chú ý hiệu quả và chất lượng công việc. Có ý kiến cho rằng, Trung ương cần xem xét, cân nhắc kỹ, nên căn cứ vào điều kiện, tình hình thực tiễn của từng địa phương, tính toán một cách khoa học để bố trí bí thư cấp ủy hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) không là người địa phương, trường hợp đặc biệt có thể bố trí cả hai chức danh này không là người địa phương. Mục tiêu là lựa chọn cán bộ có phẩm chất, năng lực và uy tín để làm bí thư cấp ủy, tránh tuyệt đối hóa, quan niệm người khác địa phương tốt hơn người địa phương.

Ba là, chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương chưa được thực hiện bài bản, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả do còn thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể. Nguyên tắc tổ chức của Đảng là đại hội bầu bí thư cấp ủy, nhưng ở một số địa phương đến đại hội vẫn không biết ai là người làm bí thư, vì vậy cần cân nhắc để tránh áp đặt từ trên xuống. Việc bố trí cán bộ nơi khác về địa phương làm bí thư cấp ủy được thực hiện cụ thể như thế nào, nhất là thời điểm bố trí, điều động sao cho phù hợp? (bố trí đến trước hay sau đại hội đảng bộ, hay là sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng khi cán bộ trúng cử là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, sau đó mới đưa về làm bí thư tỉnh ủy?).

Bốn là, chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương cần phải được kết hợp với nhiều giải pháp quyết liệt khác, nhằm khắc phục tình trạng cục bộ, bè phái, tiêu cực trong công tác cán bộ, ngăn chặn nạn chạy chức, chạy quyền, thao túng và phân phát quyền lực, “lợi ích nhóm”...

Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện hiệu quả chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương

Để tiếp tục thực hiện tốt chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, đưa Nghị quyết số 26-NQ/TW vào cuộc sống, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục thống nhất nhận thức, quyết tâm cao trong thực hiện chủ trương.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đặt mục tiêu, lộ trình từ năm 2020 đẩy mạnh bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và đến năm 2025 cơ bản hoàn thành ở cấp tỉnh, hoàn thành ở cấp huyện, đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, trước hết là chủ tịch UBND.

Để chủ trương này tiếp tục đi vào thực tiễn, có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự thống nhất nhận thức từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến cấp ủy các cấp; phải tiếp tục đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng để tạo sự thống nhất cao đối với chủ trương này. Muốn tiếp tục đổi mới, nâng cao nhận thức và thực hiện tốt chủ trương này, cần có thêm xung lực mạnh mẽ từ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới. Khi đã tạo được sự thống nhất và đồng thuận về nhận thức, cấp ủy và người đứng đầu phải có cách thức lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và quyết tâm thực hiện thống nhất, nhất là đối với việc bố trí cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.

Thứ hai, xây dựng kế hoạch tổng thể và lộ trình thực hiện.

Thực hiện các nghị quyết, nhất là Nghị quyết Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng cũng như các nghị quyết của Trung ương về quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, bảo đảm sự đồng bộ, liên thông, gắn kết giữa quy hoạch của cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương với địa phương, giữa các địa phương, bộ, ban, ngành với nhau, giữa cán bộ đảng, đoàn thể với cán bộ nhà nước; đặc biệt, cần phải làm tốt công tác đánh giá, quy hoạch, xây dựng kế hoạch tổng thể với lộ trình và bước đi cụ thể về bố trí cán bộ không là người địa phương làm bí thư các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cũng như đối với cấp huyện. Các cấp ủy cần rà soát đội ngũ cán bộ, nắm chắc lý lịch cán bộ, đánh giá, lựa chọn những người thực sự có năng lực, phẩm chất tốt, có kết quả công tác nổi bật để đưa vào kế hoạch bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương.

Các cấp ủy cần phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả, đúng quy trình cả nơi đi và nơi đến khi điều động cán bộ. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết, thống nhất kế hoạch bố trí, thuận tiện về thủ tục, quy trình và giải quyết những khó khăn về công tác cán bộ ở nơi đến. Trước khi bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, cần phải chuẩn bị đầy đủ, chu đáo và làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, để mọi người đều thống nhất trong nhận thức rằng, việc bố trí cán bộ đến và thay thế cán bộ sở tại là việc làm cần thiết, thường xuyên trong công tác cán bộ; từ đó, nhân dân mới tin tưởng, yên tâm giúp đỡ, ủng hộ các cấp ủy, chính quyền và cán bộ được bố trí. Thực tế cho thấy, thái độ ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của cán bộ, nhân dân nơi đến có ý nghĩa to lớn đối với cán bộ được bố trí.

Bên cạnh đó, để bảo đảm cho bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền, không sợ bị cô lập bởi tình trạng “cục bộ địa phương”, cần xem xét bố trí đồng thời các chức danh lãnh đạo khác không là người địa phương như các nghị quyết, kết luận của Trung ương đã đề ra. Các chức danh quan trọng khác, như chủ tịch UBND, chánh án toà án nhân dân, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và cán bộ lãnh đạo cấp trưởng các ngành thanh tra, tài chính, thuế, hải quan... nhìn chung cũng cần bố trí người từ địa phương khác đến. Đặc biệt, vị trí chủ tịch UBND có quan hệ trực tiếp với bí thư cấp ủy cùng cấp, vì vậy, cần khẩn trương áp dụng chủ trương không bố trí người địa phương(3).

Thứ ba, lựa chọn và bố trí đúng cán bộ đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương.

Việc lựa chọn người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phải cao hơn về tiêu chí và cần được rà soát thận trọng. Trước hết, đó phải là những cán bộ có năng lực, phẩm chất, uy tín, có trách nhiệm, là hạt nhân đoàn kết và có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với mọi khó khăn, thách thức. Muốn vậy, khi chuẩn bị nhân sự phải làm tốt khâu quy hoạch, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cả về chuyên môn, nghiệp vụ và những kiến thức, kỹ năng cần thiết của người bí thư cho cán bộ được quy hoạch. Đặc biệt, đối với cán bộ thuộc diện luân chuyển từ trên xuống gắn với thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, phải có sự đầu tư nhiều hơn về thời gian và công tác chuẩn bị kỹ càng trước khi về công tác ở địa phương.

Một mặt, tiêu chí lựa chọn người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phải theo đúng quy định của Đảng, đó là có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức mẫu mực, có năng lực chuyên môn cao, hiểu biết về chính sách, pháp luật. Việc lựa chọn phải dân chủ, công tâm, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, xuyên suốt, nhiều chiều, bằng hiệu quả công việc và sản phẩm cụ thể, gắn kết chặt chẽ kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương với hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong vai trò của người đứng đầu.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị Lê Quang Tùng kiểm tra xây dựng khu tái định cư phục vụ dự án Khu công nghiệp Quảng Trị tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị_Nguồn: baoquangtri.vn

Mặt khác, việc bố trí người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện hướng tới sự phù hợp với từng khu vực địa phương, nên hướng tới khu vực hoặc theo địa bàn lân cận. Trên cơ sở tương đồng về vị trí địa lý, về bản sắc văn hóa, về các thế mạnh, mũi nhọn phát triển của tỉnh, huyện,... để xây dựng tiêu chuẩn cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng, bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương phù hợp với từng địa bàn cụ thể. Tránh tình trạng đưa cán bộ có sở trường, thế mạnh ở lĩnh vực này về một địa phương có tiềm năng, thế mạnh ở lĩnh vực khác.

Thứ tư, phải bố trí đủ thời gian để cán bộ rèn luyện, thử thách và cống hiến.

Để thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương có hiệu quả, ít nhất phải bố trí cán bộ đủ một nhiệm kỳ 5 năm, tránh về chỉ từ 1 năm đến 2 năm rồi lại đi, vì khó có thể đánh giá hiệu quả công việc trong thời gian công tác quá ngắn. Về địa phương với chức danh chủ chốt là bí thư tỉnh ủy (huyện ủy), người cán bộ cần quỹ thời gian từ 1 đến 2 nhiệm kỳ mới đủ thời gian để làm được những gì mong muốn, tạo dựng được những dấu ấn cần thiết và có thành quả đủ rõ cho sự phát triển của địa phương. Tuy nhiên, nếu bố trí cán bộ ở một vị trí quá lâu sẽ tạo sức ỳ, ít có đột phá, sáng tạo, thậm chí có thể dẫn đến trì trệ…

Bên cạnh đó, cần có cơ chế tạo điều kiện cho cán bộ tiếp cận, tìm hiểu địa phương một cách sâu sắc, đầy đủ thì mới đưa ra được những quyết sách đúng, trúng; tránh hiện tượng “chân ướt chân ráo”, chưa hiểu sâu tình hình đã tiến hành chỉ đạo. Cần chuẩn bị kỹ lưỡng và cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin cần thiết, nhất là tình hình của địa phương nơi đến cho cán bộ nắm vững, hiểu rõ. Chủ động bồi dưỡng, trang bị kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành, đặc biệt là kiến thức về xây dựng Đảng, quản lý nhà nước… để hỗ trợ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ năm, nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện quy định, cơ chế, thể chế, chính sách có liên quan.

Trung ương cần sớm xây dựng và ban hành quy định để cụ thể hóa, tạo sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương và tạo sự thuận lợi trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương.

Để cán bộ từ địa phương khác đến làm bí thư tỉnh ủy, huyện ủy phát huy năng lực và làm việc hiệu quả, cần quy định kỹ ba nội dung quan trọng: Một là, sự khuyến khích, bảo vệ của cấp trên đối với cán bộ. Muốn vậy, phải có cơ chế ưu tiên bảo vệ người tài, bảo đảm tạo điều kiện cho người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện bộc lộ hết khả năng, dám nghĩ, dám làm, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng cán bộ được điều động từ nơi khác đến bị cô lập, bị tập thể cấp ủy hoặc các chức danh chủ chốt khác là người địa phương vô hiệu hóa... Cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ cần phải theo dõi, giám sát chặt chẽ và can thiệp để hỗ trợ, bảo vệ kịp thời. Bên cạnh đó, cũng phải chuẩn bị phương án để rút cán bộ đó trong những điều kiện nhất định, bảo đảm không để bị mất cán bộ. Hai là, tăng cường kiểm tra, giám sát quyền lực đối với người đứng đầu. Phải có cơ chế và nhiều kênh khách quan để giám sát, đánh giá, xử lý, kiên quyết ngăn chặn “lợi ích nhóm”, “bè phái”, “cánh hẩu”…; không để người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện lợi dụng, lạm dụng quyền lực, độc đoán, chuyên quyền; hoặc buông lỏng quản lý, “dĩ hòa vi quý”... Ba là, cần nhanh chóng hoàn thiện về cơ chế, chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến thực hiện chủ trương này. Những chế độ, chính sách phải được quy định thống nhất ở tầm quốc gia và cần phải tính toán đến mức độ tương quan giữa chế độ, chính sách ưu đãi đối với cán bộ được bố trí với chế độ, chính sách chung đối với cán bộ tại chỗ cho hợp lý, không tạo cảm giác đặc quyền, đặc lợi, sao cho công bằng, nhưng không cào bằng. Bên cạnh đó, cần chú ý thêm về chính sách hỗ trợ để cán bộ về thăm gia đình trong trường hợp chưa có điều kiện đưa cả gia đình riêng vào chung sống.

Thứ sáu, xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp từ Trung ương tới địa phương.

Một quốc gia muốn ổn định đều cần phải thiết lập được một nền hành chính công vụ chuyên nghiệp và độc lập. Các viên chức hành chính chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, tuân thủ các chuẩn mực hành chính một cách chính xác. Các bí thư tỉnh ủy có thể được thay thế sau mỗi nhiệm kỳ, nhưng người đứng đầu bộ máy hành chính thì cần phải chuyên nghiệp liên tục. Khi nào có bí thư tỉnh mới đến, họ lại tham mưu để giúp người đứng đầu biết rõ giới hạn, thủ tục khi ra quyết định. Viên chức hành chính là một ngạch có thể chọn qua quá trình thi tuyển. Khi đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, cùng một nền hành chính công vụ chuyên nghiệp, các quy định, quy trình, quy chế được đồng bộ, bộ máy hoạt động chuyên nghiệp, thông suốt, hiệu quả thì việc luân chuyển, bố trí cán bộ nói chung và bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương nói riêng sẽ thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn./.

-------------------------

* TS. Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Văn Thiết, Viện Khoa học tổ chức, cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương

(1) Tháng 12-2008, tại Hội nghị Trung ương 9 khóa X, Ban Chấp hành Trung ương đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp lớn về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận số 24-KL/TWngày 5-6-2012, Bộ Chính trị, Về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theoQuy định số 98-QĐ/TW, ngày 7-10-2017, của Bộ Chính trị, “Về luân chuyển cán bộ”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

(2) Nhiệm kỳ 2000 - 2005, Trung ương luân chuyển 23 cán bộ, trong đó 16/63 đồng chí được bố trí là bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương (chiếm 25,4%) (Khóa IX, Bộ Chính trị đã thực hiện chủ trương thí điểm luân chuyển, bố trí 6 chức danh cán bộ của tỉnh Hà Tây (cũ) không phải là người địa phương, gồm: bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND, giám đốc công an tỉnh, giám đốc sở kế hoạch đầu tư, giám đốc sở tài chính và viện trưởng viện kiểm sát nhân dân. Việc luân chuyển đồng thời 6 chức danh cán bộ không phải là người địa phương đã tạo ra phong trào, khí thế mới; là cơ sở để tỉnh luân chuyển, thay đổi 17 bí thư, phó bí thư, chủ tịch ủy ban nhân dân huyện; luân chuyển, tăng cường 97 trưởng, phó phòng thuộc các sở, ngành của tỉnh về làm trưởng, phó phòng cấp huyện; 67 trưởng, phó phòng cấp huyện về làm bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã; 10/14 huyện, thành phố có bí thư hoặc chủ tịch UBND, hoặc cả bí thư và chủ tịch UBND là cán bộ luân chuyển, không là người địa phương). Sau luân chuyển, 15 đồng chí được bố trí chức vụ cao hơn, trong đó có 5 đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị.

Nhiệm kỳ 2005 - 2010, Trung ương đã luân chuyển 39 đồng chí, trong đó bố trí 16/63 (25,4%) bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương. Sau luân chuyển, 14 đồng chí được bố trí chức vụ cao hơn, trong đó có 1 đồng chí được bầu vào Ban Bí thư, 1 đồng chí làm Phó Chủ tịch nước, 1 đồng chí làm Phó Thủ tướng Chính phủ.

Nhiệm kỳ 2010 - 2015, Trung ương đã luân chuyển 57 đồng chí, trong đó bố trí 16/63 (25,4%) bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương. Sau luân chuyển, 12 đồng chí được bố trí chức vụ cao hơn, trong đó 2 đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị. Trên cả nước, số lượng bí thư cấp huyện không là người địa phương chỉ có 291/715 (40,7%); có 24 tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ bố trí trên 50%, trong đó 8 tỉnh, thành phố trên 75% bí thư không là người địa phương (Các tỉnh Hà Giang và Tây Ninh có 100% bí thư cấp huyện; Hà Giang, Phú Thọ, Lai Châu, Đắk Nông, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu có 100% chủ tịch UBND cấp huyện không là người địa phương).

Nhiệm kỳ 2015 - 2020, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị đã bố trí bí thư không là người địa phương ở 23/63 tỉnh ủy, thành ủy (chiếm tỷ lệ 36,5%). 63 tỉnh ủy, thành ủy đã bố trí bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương, đạt tỷ lệ 62,7% (tương ứng với 443/707 huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh); khu vực miền Bắc đạt tỷ lệ 63,2% (tương ứng với 208/329 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh); khu vực miền Trung - Tây Nguyên đạt tỷ lệ 58,04% (tương ứng với 83/143 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh); khu vực miền Nam đạt tỷ lệ 64,7% (tương ứng với 152/235 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).

Nhiệm kỳ 2020 - 2025, cả nước có 27 bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương, đạt tỷ lệ 42,9%. Đáng chú ý, số cán bộ thực hiện quyết định của Bộ Chính trị về phân công, chỉ định nhân sự tham gia ban chấp hành, ban thường vụ và giới thiệu để bầu giữ chức bí thư tỉnh ủy, thành ủy đều trúng cử với tỷ lệ phiếu 100%. Tính đến tháng 7-2021, cả nước có 30/63 tỉnh ủy, thành ủy đã bố trí bí thư không là người địa phương, chiếm tỷ lệ 47,6%. Đến nay, cả nước có 36/63 bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương.

Đối với cấp huyện, tính đến cuối năm 2021, 100% các tỉnh, thành ủy trong cả nước thực hiện bố trí bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương, đạt tỷ lệ 73,4% (tương ứng với 516/703 huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh); trong đó, khu vực miền Bắc đạt tỷ lệ 75,7% (tương ứng với 249/329 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), khu vực miền Trung - Tây Nguyên đạt tỷ lệ 62% (tương ứng với 88/142 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), khu vực miền Nam đạt tỷ lệ 77,2% (tương ứng với 179/232 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Theo số liệu của Ban Tổ chức Trung ương, tính đến thời điểm tháng 3-2022, cả nước có 555 bí thư cấp ủy cấp huyện (chiếm 78,9%) không là người địa phương. Đến nay, có một số tỉnh ủy, thành ủy đã hoàn thành bố trí 100% bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương, đạt mục tiêu theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, như Quảng Ninh (14/14), Cao Bằng (10/10), Thái Bình (8/8), Hà Giang (11/11), Sơn La (12/12), Quảng Bình, Kon Tum (10/10), Đắk Nông (8/8), Bạc Liêu (7/7), Bến Tre (9/9), Cà Mau (11/11), Long An (15/15), Tây Ninh (12/12). Nhiều địa phương có tỷ lệ bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương rất cao, như Hà Nội (28/30), Quảng Ngãi (11/13), Đắk Lắk (14/15), Đà Nẵng (6/7), Lai Châu (7/8), Lạng Sơn (9/10), Bắc Kạn (6/8), Thanh Hóa (20/27), Hải Phòng (11/15), Hòa Bình (10/11), Bắc Giang (8/10), Điện Biên (9/10), Yên Bái (8/9), Lào Cai (8/9), Nghệ An (14/21)…

(3) Tại các hội nghị, hội thảo, các cuộc trao đổi, phỏng vấn và qua nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy, hầu hết các ý kiến đánh giá tốt chủ trương bố trí bí thư không là người địa phương và đề nghị thực hiện nhất quán đồng thời cả chức danh bí thư cấp ủy và chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương.

DỰA VÀO DÂN ĐỂ XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG!

     Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ thực trạng: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... Cùng với đó, Đảng ta cũng nhận định, cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện trên diễn ra rất khó khăn, phức tạp, thực sự là vấn đề cấp bách đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Để làm tốt công tác đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đòi hỏi phải có nhiều biện pháp cụ thể, kiên trì, với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, cần thấy rõ và phát huy có hiệu quả vai trò quan trọng của Nhân dân trong cuộc đấu tranh này.

Khi nói về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng đã chứng minh, muốn hoàn thành mục tiêu, lý tưởng của mình, muốn trường tồn và phát triển vững mạnh, Đảng phải gắn bó máu thịt với Nhân dân. Đảng phải biết dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò của Nhân dân.

Những thành tựu to lớn mà Đảng và Nhân dân ta đã giành được 36 năm đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước đã chứng minh rất rõ vai trò to lớn của Nhân dân. Một trong những bài học sâu sắc mà Đảng ta rút ra đó là: Phải luôn quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên đã được nhân dân phát hiện, chỉ rõ, đặc biệt là những hành vi tham nhũng, tiêu cực.

Từ thực tiễn trên, có thể khẳng định rằng: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ là trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, mà là trách nhiệm của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Nhân dân là tai mắt của Đảng”. Đặc biệt, trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh toàn diện nói chung, trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nói riêng, Nhân dân đóng vai trò rất quan trọng. Đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Với sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân thì công việc dù khó khăn phức tạp đến mấy, nhất định Đảng ta sẽ vượt qua, và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhất định sẽ đạt được mục tiêu đề ra, để Đảng ta mãi mãi “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với niềm tin tưởng tuyệt đối của Nhân dân./.
Môi trường ST.

MỘT QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆT NAM LÀM CẢ THẾ GIỚI NGẠC NHIÊN!

         Theo Thông tin từ Chính phủ 2 nước thì Việt Nam đã quyết định giao một phần cảng Vũng áng cho bạn Lào. Bạn sẽ toàn quyền xuất - nhập hàng hóa tại Cảng Vũng Áng cũng như ở tất cả cảng biển Việt Nam, thuế phí cũng như thuế của các doanh nghiệp của Việt Nam. Đây là sự sẻ chia của Việt Nam với Lào vì bạn là nước duy nhất trong khối Asean không có biển. 

Thế nhưng từ nay, giấc mơ người dân Lào đã thành hiện thực. Lào cũng quyết định khởi công xây dựng tuyến giao thông Viên Chăn - Vũng Áng trở thành tuyến giao thông chiến lược để Lào tự chủ lưu thông hàng hóa ra thế giới và ngược lại. 

Thỏa thuận giữa Việt Nam và Lào về Cảng Vũng Áng tiếp tục thể hiện sâu sắc quan hệ mẫu mực có một không hai trên thế giới. Giữa hai dân tộc không có sự áp bức và nô dịch, không có hiềm khích và thù hằn, từ xa xưa là láng giềng chí cốt của nhau. Nhân dân hai nước từng có cả ngàn năm giúp đỡ, che chở lẫn nhau. Việt Nam và Lào không chỉ là đối tác chiến lược mà còn là anh em, được đặt nền tảng từ thời Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phomvihane. Chứng kiến những khó khăn mà Lào gặp phải, Việt Nam đã quyết định kéo “biển” về cho người anh em của mình, thể hiện đúng truyền thống "hạt muối cắn đôi cọng rau xẻ nửa" trong trong lịch sử vẫn in đậm cho đến ngày nay... 

Có lẽ trên thế giới hiếm có tình cảm đặc biệt này. Đối với Việt Nam, ai cũng là bạn của ta, nhưng một tình bạn sắt son mãi mãi ngàn đời không ai khác đó là Cuba, Lào và Liên Xô trước đây - nước Nga ngày nay. Thế giới đang ồn ào chia phe để tìm kiếm lợi ích thì Việt Nam đã làm 1 điều đặc biệt với người anh em làm cả thế giới trầm trồ, ngạc nhiên!
Yêu nước ST.

Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới

 

Bảo vệ chính trị nội bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của Đảng, sự sống còn của chế độ và lợi ích quốc gia-dân tộc.

Như thế cũng là tự diễn biến

 

Ông bạn cùng cơ quan tôi nhận quyết định nghỉ hưu thì đề nghị ngay cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng về nơi cư trú.

Hút thuốc lá – lợi ít hại nhiều

 


Xã hội hiện đại giúp cho con người trở nên văn minh hơn, song nó cũng luôn ẩn chứa những mặt trái với các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Hút thuốc lá chưa phải là một tệ nạn mang

Rừng – nguồn tài nguyên quý giá


 Rừng nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng cho thế giới. Nước ta là một nước may mắn với diện tích rừng rộng lớn. Tài nguyên rừng đem lại cho đất nước ta rất nhiều lợi ích. Nhưng