Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022

ASEAN khẳng định vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực

 Nhân dịp kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập ASEAN (8/8/1967-8/8/2022), phóng viên Báo Nhân Dân phỏng vấn Đại sứ các nước ASEAN và đối tác của Hiệp hội về những kết quả mà Hiệp hội đạt được trong quá trình xây dựng Cộng đồng và trong quan hệ với các đối tác, cũng như những mục tiêu hợp tác trong thời gian tới.

ASEAN khẳng định vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực

ĐẠI SỨ CAMPUCHIA TẠI VIỆT NAM CHAY NAVUTH (CHAY NA-VÚT):

Đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN

Trong những năm gần đây, ASEAN duy trì được mối quan hệ giữa các thành viên và tiếp tục tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Hiệp hội cũng thúc đẩy và mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài khối. Các thành viên của ASEAN chung sức trong cuộc chiến chống dịch Covid-19, cũng như trong các vấn đề an ninh khu vực. Những thành tựu hợp tác của ASEAN đã góp phần bảo đảm hòa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Tại Hội nghị các nhà lãnh đạo ASEAN, các nhà lãnh đạo của Hiệp hội đã đạt được đồng thuận năm điểm, trong đó nhất trí hỗ trợ Myanmar ổn định. Cộng đồng quốc tế, trong đó có Liên hợp quốc, các nước lớn, các tổ chức khu vực cũng ủng hộ vai trò của ASEAN trong nỗ lực tìm giải pháp cho vấn đề Myanmar. Về tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), các quốc gia thành viên ASEAN đều mong muốn sớm ký kết COC. Hai yếu tố không thể thiếu để có thể sớm hoàn tất COC là thiện chí của các bên liên quan và môi trường hòa bình trong khu vực được bảo đảm.

Trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Campuchia thúc đẩy các ưu tiên chính của Hiệp hội trong năm 2022, tiếp tục hỗ trợ và hợp tác với các bên nhằm đạt được mục tiêu xây dựng Cộng đồng phù hợp với Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025; đồng thời xúc tiến việc xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025.

Về trụ cột Chính trị-An ninh, Campuchia tập trung củng cố sự thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN, cả về hợp tác trong các cơ chế khu vực, cũng như với các đối tác, dựa trên các phương thức và nguyên tắc được quy định trong Hiến chương ASEAN, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) và tài liệu Quan điểm của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, ASEAN cần kiên cường và mạnh mẽ trước những tác động của cạnh tranh địa-chính trị, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, biến đổi khí hậu, các bệnh truyền nhiễm..., nhằm bảo đảm hòa bình, an ninh và thịnh vượng.

Trong trụ cột Kinh tế, Campuchia thúc đẩy thực hiện hiệu quả các sáng kiến ​​và biện pháp đã được ASEAN nhất trí, cũng như tận dụng tối đa các hiệp định thương mại nhằm đẩy mạnh phục hồi và tăng trưởng kinh tế của các thành viên trong bối cảnh bình thường mới. ASEAN sẽ nỗ lực bảo đảm rằng, Đông Nam Á là một khu vực năng động, thu hút thương mại và đầu tư. ASEAN cần tăng cường kết nối, cả về kỹ thuật số; nâng cao năng lực của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa; cũng như thực hiện các ưu tiên khác nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và thúc đẩy hội nhập khu vực.

Về trụ cột Văn hóa-Xã hội, Campuchia và các thành viên của Hiệp hội sẽ tăng cường phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu xây dựng Cộng đồng ASEAN, xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện, thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ và thanh niên trong duy trì hòa bình của khu vực. Một ưu tiên quan trọng khác là tăng cường gắn kết giữa nhân dân các nước thành viên, nhằm nâng cao tinh thần “Một bản sắc” của ASEAN.

ASEAN khẳng định vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực ảnh 1

ĐẠI SỨ EU TẠI ASEAN IGOR DRIESMANS (I-GÔ ĐRI-XMAN):

ASEAN là trọng tâm trong chính sách của EU

Quan hệ đối tác với ASEAN là trọng tâm trong các chính sách của Liên minh châu Âu (EU) tại châu Á. Trong Chiến lược hợp tác của EU tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, ASEAN có tầm quan trọng chiến lược đối với EU về liên kết chính trị và kinh tế, phát triển chuỗi giá trị toàn cầu và thúc đẩy phục hồi, tác động môi trường và khí hậu.

Chiến lược của EU nhằm tạo điều kiện rộng mở cho các mối quan hệ đối tác và hợp tác trong khu vực, có sự tương đồng với tài liệu Quan điểm của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, góp phần bảo đảm sự ổn định, hợp tác và thịnh vượng của khu vực. Là một đối tác đáng tin cậy, EU ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN và coi Hiệp hội là điểm tựa thúc đẩy hợp tác, đóng góp vào sự ổn định và phục hồi bền vững của khu vực.

EU và ASEAN thiết lập quan hệ đối tác đối thoại vào năm 1977. Quan hệ đối tác EU-ASEAN dựa trên các giá trị và mục tiêu chung, nhằm bảo đảm hòa bình, an ninh trong khu vực, tăng cường kết nối, thúc đẩy thương mại tự do, công bằng và hỗ trợ phát triển bền vững. Việc EU và ASEAN nâng quan hệ lên đối tác chiến lược vào năm 2020 khẳng định những kết quả thực chất đạt được trong hợp tác chính trị, kinh tế và an ninh giữa hai bên, đồng thời mở ra một chương mới trong quan hệ.

EU và ASEAN phối hợp trong việc hỗ trợ xây dựng cả ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN; tiến hành đối thoại trong nhiều lĩnh vực, như ứng phó biến đổi khí hậu, thương mại, khoa học, an ninh hàng hải… EU tham gia và đóng góp tích cực tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) và Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS). Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, EU và ASEAN đã chứng minh là những đối tác đáng tin cậy của nhau. EU và các nước thành viên của khối đã đóng góp hơn 800 triệu euro, hỗ trợ cuộc chiến chống dịch Covid-19 tại các nước ASEAN.

Hợp tác giữa EU và ASEAN hiện nay xoay quanh các mục tiêu ưu tiên là triển khai quan hệ đối tác chiến lược, kết nối bền vững và hợp tác về môi trường, khí hậu. Về thương mại và đầu tư, EU thúc đẩy các thỏa thuận song phương với các nước thành viên ASEAN, mở đường cho một thỏa thuận tiềm năng giữa hai khu vực trong tương lai. Phát triển xanh, bền vững và bao trùm, cũng như đạt được các mục tiêu phát triển bền vững cũng là trọng tâm hợp tác của EU với ASEAN thời gian tới. EU cũng thúc đẩy các mối liên kết mạnh mẽ hơn giữa nhân dân hai bên.

Đánh dấu 45 năm thiết lập quan hệ, năm 2022 có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược EU-ASEAN. Hai bên dự kiến thông qua kế hoạch hành động giai đoạn mới để xác định các ưu tiên hợp tác trong những năm tới, trong đó tập trung phục hồi hậu đại dịch, thúc đẩy thương mại và kết nối bền vững, cũng như tăng cường hợp tác an ninh.

ASEAN khẳng định vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực ảnh 2

ĐẠI SỨ ẤN ĐỘ TẠI VIỆT NAM PRANAY VERMA (PRA-NAY VƠ-MA):

Hợp tác với ASEAN là ưu tiên hàng đầu của Ấn Độ

Ấn Độ và ASEAN có mối quan hệ đa dạng và ngày càng phát triển kể từ khi hai bên thiết lập quan hệ Đối tác đối thoại theo lĩnh vực năm 1992 và sau đó là đối tác đối thoại đầy đủ năm 1995. Việc nâng cấp quan hệ ASEAN-Ấn Độ lên đối tác chiến lược vào năm 2012 là một bước tiến trong quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa hai bên. Hội nghị cấp cao kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ đối tác đối thoại ASEAN-Ấn Độ được tổ chức vào năm 2018 tại New Delhi là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ hai bên. Hội nghị này đã nêu rõ cam kết của Ấn Độ với ASEAN dựa trên hợp tác trong các lĩnh vực kết nối, thương mại và văn hóa.

Năm 2022 được chọn là Năm Hữu nghị ASEAN-Ấn Độ. Ấn Độ đã tổ chức Hội nghị đặc biệt Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-Ấn Độ tại New Delhi vào ngày 16/6 nhằm kỷ niệm 30 năm quan hệ Đối tác đối thoại giữa hai bên. Dịp này, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Subrahmanyam Jaishankar (X.Giai-san-ca) nêu rõ tầm nhìn về quan hệ Ấn Độ-ASEAN, trong đó nhấn mạnh, Ấn Độ và ASEAN được kết nối tốt hơn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy toàn cầu hóa và các chuỗi cung ứng linh hoạt, đáng tin cậy mà cộng đồng quốc tế đang rất cần.

ASEAN đã tạo dựng được môi trường hòa bình, sự thịnh vượng và tăng trưởng cho khu vực trong hơn năm thập kỷ qua. Nhận thức được tầm quan trọng của Hiệp hội, lãnh đạo Ấn Độ luôn dành ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ ASEAN-Ấn Độ, với việc thường xuyên tham dự các Hội nghị cấp cao hằng năm và các hội nghị liên quan của ASEAN; đồng thời đưa ra các sáng kiến mới trong những lĩnh vực hai bên cùng quan tâm.

Hiện nay, với tư cách là đối tác chiến lược, Ấn Độ và ASEAN có quan hệ chính trị, kinh tế quan trọng và có lợi ích chung về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Dựa trên các mối liên hệ sâu sắc của Ấn Độ với khu vực, được định hướng bởi chính sách Hành động hướng Đông, cũng như Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Ấn Độ cam kết xây dựng các mối liên kết ngày càng chặt chẽ hơn với ASEAN thông qua tăng cường kết nối, thương mại và trao đổi văn hóa.

Việt Nam là trụ cột chính trong chính sách Hành động hướng Đông và là đối tác quan trọng trong Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Ấn Độ. Mối quan hệ hai nước dựa trên sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, cũng như sự tương đồng về quan điểm đối với các vấn đề khu vực và quốc tế. Kể từ khi gia nhập ASEAN cách đây 27 năm đến nay, Việt Nam đóng vai trò quan trọng thúc đẩy quan hệ Ấn Độ-ASEAN.

Ấn Độ đánh giá cao vai trò của Việt Nam, với tư cách là nước điều phối quan hệ của ASEAN-Ấn Độ giai đoạn 2015-2018 và góp phần tổ chức thành công Hội nghị cấp cao kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ đối tác đối thoại ASEAN-Ấn Độ. Vào năm 2020, bất chấp sự gián đoạn của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN và tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ chặt chẽ hơn giữa Ấn Độ và ASEAN. Ấn Độ sẵn sàng và mong muốn hợp tác chặt chẽ với Việt Nam nhằm thúc đẩy các mục tiêu chung của hai nước và tăng cường quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Ấn Độ.

“DANH DỰ”, “PHẨM CHẤT” ĐẢNG VIÊN VÀ Ý NGHĨA TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC

 

Danh dự được hiểu là sự coi trọng, tôn trọng của xã hội đối với một cá nhân, tổ chức nào đó và được pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất mà mỗi con người có được, hay nói cách khác nhân phẩm chính là giá trị làm người của mỗi con người.
Cán bộ, đảng viên thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng về phẩm chất, đạo đức đó chính là quá trình nâng cao khả năng, sức đề kháng trước sự tấn công của “giặc tham nhũng, tiêu cực”. Cán bộ, đảng viên, trước hết là người chủ trì lãnh đạo, chỉ đạo điều hành cơ quan, đơn vị nếu biết trọng danh dự, biết giữ liêm sỉ, thì họ sẽ cảm thấy xấu hổ khi bản thân hoặc người nhà có những hành vi sai trái, vi phạm kỷ luật, pháp luật nói chung và tham nhũng, lãng phí, tiêu cực nói riêng. Phát biểu trước các hội nghị liên quan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại về “Phẩm chất” và “Danh dự” bởi hai khái niệm này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và tác động trực tiếp đến uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên, đặc biệt là ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực tế cho thấy, một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay đã từng “vào sinh ra tử” trong kháng chiến, không “gục ngã” bởi hòn tên mũi đạn của quân xâm lược nhưng trong hoà bình, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội lại “gục ngã” bởi những “viên đạn bọc đường”. Đúng như Đảng ta đã cảnh báo và chỉ rõ, trong nội bộ ta, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực tế đáng buồn ấy đã và đe dọa sự tồn vong của Đảng, sự mất - còn của chế độ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Biểu hiện suy thoái hóa, biến chất ở một số cán bộ, đảng viên thì có nhiều, nhưng biểu hiện đáng lo nhất hiện nay là sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân. Không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những đồng chí có chức, có quyền họ đã quên đi bổn phận của mình trước Đảng, trước nhân dân, làm gì họ cũng lồng vào đó lợi ích cá nhân, tìm cách thu vén lợi ích cho riêng mình, trục lợi cho gia đình mình. Có thể khẳng định: Chính sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự gia tăng các hành vi tham nhũng, tiêu cực. Và cũng chính bởi chủ nghĩa cá nhân mà dẫn tới lợi ích nhóm ngày càng trầm trọng, tinh vi hơn.
Cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực gây ra những tổn hại rất ghê gớm. Điều rõ thấy là tổn hại về kinh tế, vật chất làm nghèo đất nước. Nhưng có lẽ cái tổn hại không thể tính được bằng tiền nhưng cực kỳ nặng nề, đáng lo là làm cho Đảng ta yếu đi, làm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ giảm sút.
Cán bộ, đảng viên là những người ưu tú, tiên tiến nhất trong nhân dân lao động, được lựa chọn đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản để lãnh đạo nhân dân. Đáng lẽ ra mỗi người đảng viên của Đảng phải luôn luôn phấn đấu vì lợi ích của giai cấp và dân tộc, lợi ích của tập thể, làm gì cũng đều đặt lợi ích của giai cấp, lợi ích của dân tộc, của tập thể lên trên hết, trước hết.
Ấy vậy mà một số người sau đó đứng vào hàng ngũ của Đảng, chính những cán bộ, đảng viên được dân lựa chọn ấy lại phản bội quần chúng nhân dân; lại thoái hóa, biến chất; lại rơi vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực. Trước mỗi vụ tham nhũng, tiêu cực bị phanh phui; chứng kiến những cán bộ, đảng viên phải ra hầu tòa, tuy không nói ra nhưng dân mình đau đớn lắm.
Từ thực tế, một điều đáng chia sẻ với những cán bộ, đảng viên, nhất là những đồng chí cán bộ chủ trì, chủ chốt đang nắm giữ các vị trí quan trọng của Đảng và Nhà nước rằng: Mình làm cán bộ, đảng viên, được giao giữ các chức vụ quan trọng, thực chất là do Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân tin tưởng lựa chọn, giao phó. Vì thế giữ trọng trách gì, làm công việc gì cũng phải nghĩ đến nước, nghĩ đến dân mà hành động cho chuẩn mực, đúng đắn.
Mặc khác, không chỉ nhân dân mà cán bộ, đảng viên cần phải hiểu sâu sắc rằng để đất nước tươi đẹp, có vị thế như ngày nay các thế hệ cha, anh đi trước đã phải đổ biết bao mồ hôi, công sức, xương máu. Là thế hệ hậu sinh chúng ta phải biết trân trọng, kế thừa, phát huy truyền thống và những thành quả tốt đẹp mà đất nước đã có được. Trân trọng, nhân lên truyền thống không thể là những lời nói suông mà phải bằng những việc làm, hành động cụ thể, đặc biệt là phải tăng cường “sức đề kháng” để vững vàng, không gục gã trước những “viên đạn bọc đường”, không gục ngã trước danh vọng, tiền tài.
Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung. Đây không phải là vấn đề mới bởi từ khi ra đời Đảng ta đã ý thức rất rõ cán bộ là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của cách mạng. Chỉ có quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng, tạo điều kiện để cán bộ phát huy vai trò thì việc đề ra chủ trương, đường lối mới đúng đắn, phù hợp và việc tổ chức thực hiện mới nhanh chóng, chặt chẽ, hiệu quả. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều có các chủ trương, nghị quyết lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ và có cơ chế bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ khẳng định mình.
Đặc biệt, sau khi nước nhà thống nhất, để bảo đảm cho Ðảng đủ sức làm tròn trách nhiệm lãnh đạo toàn dân tiến hành cách mạng XHCN, trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, Đảng ta đã nhấn mạnh: Cần đấu tranh loại bỏ tư tưởng: “trông chờ, ỷ lại vào tập thể, sợ trách nhiệm, không dám quyết đoán... Các nhiệm kỳ đại hội sau đó, Đảng ta tiếp tục đề cập rõ hơn về việc xây dựng, pháp huy vai trò của đội ngũ cán bộ đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Chẳng hạn, tại Đại hội lần thứ V của Đảng, sau khi thẳng thắn chỉ ra những yếu kém của công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, Báo cáo Chính trị đã nhấn mạnh, nhiệm kỳ mới cần đặc biệt coi trọng việc phát hiện và đưa vào đội ngũ cán bộ những người “trung thực đã dám vì sự nghiệp chung mà vạch trần khuyết điểm, bảo vệ chân lý”; cần phải tập hợp được những cán bộ có tinh thần “dám quyết định và dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ”.
Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đại hội VI khởi xướng, tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng”, Đảng ta đã đưa “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” thành một tiêu chuẩn đối với cán bộ lãnh đạo.
Tuy cách thức thể hiện có khác nhau để phù hợp với tình hình cụ thể, nhưng ở các kỳ đại hội tiếp sau này vấn đề phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cán bộ luôn được Đảng ta coi trọng. Đáng chú ý sau Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa XI, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Đảng ta nhấn mạnh: Cần có cơ chế, chính sách để giải quyết mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, phát huy vai trò trách nhiệm của cán bộ, đảng viên nhất là của người đứng đầu nhằm “khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng”.
Sau Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, trong đó chỉ rõ nhiệm vụ phải bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung... Tiếp tục tinh thần ấy, đến Đại hội XIII, Đảng ta một lần nữa khẳng định: có cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung...
Việc Bộ Chính trị ban hành kết luận về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, là sự kết thừa kết quả, kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ các nhiệm kỳ trước đây, cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết Đại hội XIII về xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu mới của cách mạng. Để cán bộ, đảng viên luôn giữ gìn “Danh dự”, “Phẩm chất” nhằm góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tình hình mới./.
ST

CUỘC "ĐẤU CỜ" LỊCH SỬ HAI BÊN VĨ TUYẾN 17

 

Phía bờ Bắc, ban đầu quân ta dựng một cột cờ bằng thép cao khoảng 34m để treo lên lá cờ rộng 108m2. Còn phía bờ Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm cho xây dựng cột cờ kiên cố, cao 30m. Sau đó họ nâng cột cờ lên 35m. Chúng ta cũng tiếp tục cho dựng một cột cờ mới kiên cố cao trên 38m, treo lên lá cờ rộng 134m2.
Sinh ra và lớn lên bên dòng Hiền Lương, ông Lê Công Hường (SN 1936, ở xã Vĩnh Thành; nay là xã Hiền Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) chứng kiến 2 cuộc kháng chiến nên ông hiểu rõ sự khốc liệt của chiến tranh.
Ông Hường kể, dọc con đường vào thôn Hiền Lương trước kia có một đường giao thông hào dẫn về phía cầu Hiền Lương. Những năm chính quyền Mỹ-ngụy leo thang phá hoại miền Bắc, cột cờ giới tuyến luôn bị bom đạn đánh phá. Những khi cờ rách thì đem vá, cột cờ gãy thì lập tức thay cột cờ mới. Riêng năm 1967, ông Hường và những đồng đội đã thay cột cờ 11 lần và thay lá cờ 42 lần.
"Nhiệm vụ của chúng tôi là giữ cho cờ Tổ quốc luôn hiện diện ở giới tuyến với lời thề: Lá cờ còn, Tổ quốc còn. Nên cột cờ bị gãy thì phải dựng cột mới, lá cờ bị hỏng thì phải may vá sửa sang lại ngay", ông Hường nói.
Trước sự hủy diệt của bom đạn vùng giới tuyến, cầu Hiền Lương bị đánh sập, ông Lê Công Hường lại được giao nhiệm vụ chèo đò chở người qua sông.
Nhiệm vụ của ông Hường là trực ở bên bờ sông Hiền Lương để chở bộ đội, cán bộ, giao liên từ phía Bắc vào, vượt sông Bến Hải và chở tù binh, thương binh phía Nam trở lại.
Đến nay, ông Hường không nhớ rõ mốc thời gian, nhưng ông nhẩm tính trong suốt 5 năm làm nhiệm vụ chèo đò ở sông Hiền Lương, ông đã chuyên chở hàng ngàn lượt bộ đội, cán bộ, thương binh.
"Có đêm tôi chở khoảng 1.900 người qua về sông Hiền Lương. Mỗi lần thuyền chở được 40 người, phải lựa chọn thời điểm vượt sông để tránh bị quân địch phát hiện và ném bom bắn phá", ông Hường nhớ lại.
Ghi nhận những đóng góp của ông Hường đối với cuộc kháng chiến, lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ đã khen tặng ông nhiều Huân chương, huy chương các loại.
Sưu tầm
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang ngồi và trong nhà
Thích
Bình luận
Chia sẻ

TIẾP TỤC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ ĐẾN KHI KHÔNG CÒN THÔNG TIN

 

Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 233/TB-VPCP ngày 6/8/2022 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc gặp mặt các đội tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.
Tại Thông báo trên, Thủ tướng khẳng định: Tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các đơn vị, địa phương. Chiến tranh đã kết thúc nhiều năm, nhưng hài cốt của các liệt sĩ hiện vẫn còn nằm lại tại các chiến trường xưa. Nhiều gia đình, người thân ngày đêm trông ngóng thông tin về phần mộ, hài cốt của các liệt sĩ để được đón hài cốt của các anh về với quê cha đất tổ… Đảng, Nhà nước đã chỉ đạo thành lập và tin tưởng giao nhiệm vụ trực tiếp tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ cho 23 Đội thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện trên địa bàn trong nước và tại nước bạn Lào, Campuchia. Hầu hết, các địa bàn tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ nằm ở vùng sâu, vùng xa, địa hình khó khăn, hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, có nơi còn tồn sót bom mìn...
Thủ tướng ghi nhận và đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng khắc phục khó khăn, gian khổ và những thành tích, kết quả đã đạt được trong công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ của cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ này cùng sự hỗ trợ, phối hợp tích cực của các cơ quan, đơn vị, địa phương; trân trọng, thấu hiểu và chia sẻ với những hy sinh, mất mát của các cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ trong những năm qua.
Gần 30 năm, các đội tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đã luôn đoàn kết, xác định tốt nhiệm vụ và trách nhiệm thiêng liêng với đồng đội đã ngã xuống để đáp ứng niềm tin, mong mỏi của các thân nhân liệt sĩ. Từ năm 1994 đến nay, đã tìm kiếm quy tập được 84.139 hài cốt liệt sĩ; riêng từ năm 2013 đến nay, đã tìm kiếm, quy tập được gần 18.000 hài cốt liệt sĩ, trong đó, có gần 3.000 hài cốt ở Lào, trên 6.000 hài cốt ở Campuchia, gần 9.000 hài cốt ở trong nước. Việc hồi hương và tiến hành Lễ truy điệu, an táng hài cốt liệt sĩ được tổ chức bảo đảm tôn nghiêm, trang trọng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đã có nhiều tổn thất, hy sinh (15 đồng chí hy sinh; 87 đồng chí bị thương và 26 đồng chí bị bệnh hiểm nghèo).
Với những thành tích đạt được, nhiều cá nhân, tập thể đã được tặng thưởng phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước (04 tập thể, 01 cá nhân được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 3.200 lượt tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công, Huân chương Lao động, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ…; gần 500 lượt tập thể, cá nhân được Nhà nước Lào, Campuchia tặng thưởng Huân chương, Huy chương Hữu nghị và các phần thưởng cao quý khác).
Tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ là nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả, có tính nhân văn, đạo đức sâu sắc, phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài với nhiều khó khăn, gian khổ. Hiện nay, số lượng hài cốt liệt sĩ cần tìm kiếm, quy tập vẫn còn nhiều (khoảng hơn 180.000 hài cốt liệt sĩ), trong khi thông tin về liệt sĩ và mộ liệt sĩ ngày càng ít, các nhân chứng tuổi ngày càng cao, trí nhớ giảm, địa hình nhiều thay đổi…
Thủ tướng yêu cầu thời gian tới, cần đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; phấn đấu đến năm 2030 hoàn thành tìm kiếm, quy tập và kết luận khu vực, địa bàn có thông tin mộ liệt sĩ tập thể; hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý về liệt sĩ, mộ liệt sĩ đầy đủ, khoa học. Nhiệm vụ từ nay đến năm 2030, thực hiện tìm kiếm, quy tập được khoảng 15.000 hài cốt liệt sĩ; hoàn thành việc tìm kiếm, quy tập và kết luận khu vực, địa bàn có thông tin mộ liệt sĩ tập thể; từ năm 2031 trở đi, tiếp tục tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đến khi không còn thông tin về hài cốt liệt sĩ, mộ liệt sĩ.
Đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ
Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cấp ủy, các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương, Ban Chỉ đạo 515 các cấp và lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nghiêm túc thực hiện và triển khai hiệu quả Chỉ thị số 24-CT/TW ngày 15/5/2013 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Nghị định số 131/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; các kế hoạch, hướng dẫn của Ban Chỉ đạo quốc gia 515, Bộ Quốc phòng và của các bộ, ngành liên quan về công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.
Đồng thời, tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước tích cực tham gia công tác này; chú trọng đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, nhất là hợp tác trong thu thập, cung cấp, chuyển giao thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; trao đổi, kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ trong giám định ADN; hỗ trợ nguồn lực phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.
Thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách
Thủ tướng yêu cầu các cấp ủy, các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương cần quan tâm chăm lo, bảo đảm kịp thời, đầy đủ các chế độ, chính sách đối với các lực lượng làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, biểu dương, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.
Lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ phát huy và nêu cao tinh thần chủ động, trách nhiệm, khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao; vừa thực hiện nhiệm vụ, vừa làm công tác dân vận, tuyên truyền, vận động thu thập thông tin về liệt sĩ và mộ liệt sĩ; đồng thời, thực hiện nghiêm công tác đối ngoại quân sự khi làm nhiệm vụ trên nước bạn; kết hợp tham gia công tác xã hội xóa đói giảm nghèo, phòng chống thiên tai ở địa bàn trong nước cũng như khi ở nước ngoài, làm sáng mãi hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ"; góp phần tích cực vào công tác đối ngoại và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để kết nối các thông tin tìm kiếm liệt sĩ và mộ liệt sĩ nhằm kịp thời và gia tăng hiệu quả công tác tìm kiếm hài cốt./.
Nguồn: Báo QĐND
Có thể là hình ảnh về 3 người, mọi người đang đứng và ngoài trời
Thích
Bình luận
Chia sẻ

Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay

  Việc kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay phải tiến hành toàn diện, đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm bảo đảm sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch, tin cậy của đội ngũ cán bộ, đảng viên; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các phần tử chống đối và cơ hội chính trị, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống, phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Sau 5 năm tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã “có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực”(1), góp phần “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”(2). Tuy nhiên, “việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vẫn còn hạn chế, khuyết điểm: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý lưởng, giảm sút ý chí; sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(3).

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ chủ trì Hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện Quy định số 58-QĐ/TW, ngày 8-2-2022, của Bộ Chính trị, về “Một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ Đảng” và lấy ý kiến dự thảo hướng dẫn thực hiện quy định

Trong bối cảnh mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, “bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp”(4). Tại Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chỉ rõ: “Phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”(5). Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ Kết luận số 21-KL/TW, trong đó phải đặc biệt coi trọng và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kịp thời phát hiện, xử lý các phần tử chống đối, cơ hội chính trị và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị và  ý thức “tự bảo vệ” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đây là vấn đề cơ bản, giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay nói chung và công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng nói riêng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của internet, các phương tiện truyền thông xã hội và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng những sơ hở, yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng những chiêu thức, thủ đoạn mới vô cùng thâm độc, nham hiểm. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, một số cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện dao động, hoài nghi, gây phân rã tư tưởng, bất đồng thuận trong nội bộ Đảng, trong xã hội. Do đó, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng hiện nay. Phương châm tiến hành công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng là “tích cực chủ động, phòng ngừa, lấy phòng ngừa là chính”.

Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc; bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Khẳng định Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, củng cố, tăng cường niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong toàn Đảng, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và sự đồng thuận về chính trị, tinh thần trong toàn xã hội. Nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “tự bảo vệ” của cán bộ, đảng viên trước những tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch...

Hai là, thường xuyên rà soát chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Những năm qua, công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt nhiều kết quả, góp phần quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Tuy nhiên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn không ít hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thường xuyên tiến hành rà soát tình hình chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý đối với những cán bộ, đảng viên có vấn đề về chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về kết nạp đảng viên, về cán bộ và công tác cán bộ... Người được xem xét, kết nạp vào Đảng; người làm việc trong hệ thống chính trị được cử đi đào tạo ở nước ngoài, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, giới thiệu để bầu vào cấp ủy, bầu đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và tuyển dụng, bố trí làm việc ở cơ quan, bộ phận, vị trí trọng yếu phải được cấp ủy có thẩm quyền kết luận chính trị. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Thực hiện tốt việc xem xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị cán bộ trong từng nội dung công tác cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ. Tiếp tục rà soát cán bộ đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở và cán bộ trong diện quy hoạch chuẩn bị kế cận, kế tiếp các chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị - xã hội. Chú ý những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, tội phạm hình sự; liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; vấn đề liên quan hồ sơ, lý lịch và liên quan đến yếu tố nước ngoài.

Đảng bộ Đồn Biên phòng Chi Lăng long trọng tổ chức Lễ trao tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng và kết nạp đảng viên mới cho các đồng chí đang làm nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trên biên giới

Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập và quan hệ với tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và đang công tác trong cơ quan, bộ phận trọng yếu, cơ mật phải thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước khi ra nước ngoài công tác, học tập, du lịch, thăm thân, chữa bệnh...; quy định về cán bộ, đảng viên có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài, có con kết hôn với người nước ngoài; quy định về kỷ luật phát ngôn, cung cấp, trao đổi thông tin với tổ chức, cá nhân người nước ngoài... Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm, trong trường hợp cần thiết phải điều chuyển, bố trí công tác khác cho phù hợp... Thực hiện nghiêm quy định về việc cán bộ, đảng viên không được ra nước ngoài nếu đang trong thời gian xem xét kỷ luật, đang bị điều tra về hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm tư cách đảng viên hoặc có vấn đề liên quan đến chính trị hiện nay nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền kết luận. Thực hiện tốt công tác quản lý và có biện pháp bảo vệ cán bộ, đảng viên, lưu học sinh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, hiện đang công tác, học tập, nghiên cứu, lao động ở nước ngoài, không để các thế lực thù địch, các cơ quan đặc biệt nước ngoài móc nối, lôi kéo, kích động hoạt động chống Đảng, Nhà nước...

Thường xuyên rà soát, kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành các quy định về chế độ bảo mật, quản lý chặt chẽ thông tin, tài liệu, giữ gìn bí mật của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang. Không để lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quốc gia và ngăn chặn các hoạt động thu thập thông tin bí mật của các cơ quan đặc biệt nước ngoài…

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định, quy định của Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, các quy định của Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và những điều đảng viên không được làm... “Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc, nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng” (6).  

Kết hợp chặt chẽ công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, kiên quyết sàng lọc, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan bảo vệ pháp luật, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên… Kiên quyết xử lý kịp thời tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng; nhất là đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật phát ngôn, làm lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, tung tin thất thiệt, lan truyền tài liệu trái phép hoặc tán phát đơn, thư nặc danh, mạo danh có nội dung sai sự thật, mang tính vu khống, nói xấu, xuyên tạc, kích động gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ...

Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử chống đối, cơ hội chính trị.

Các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng chống Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức tán dương, cổ xúy về “giá trị vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản; xuyên tạc, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, bịa đặt, vu cáo, nói xấu, thổi phồng hạn chế, khuyết điểm, gieo rắc hoài nghi, bi quan, kích động, chia rẽ nội bộ… làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng dao động, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị; thậm chí có người đã “tự chuyển hóa”, phụ họa, lan truyền, tán phát thông tin sai trái...

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (7). Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị hiện nay, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm và hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 20-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác, nắm vững âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; xác định các chủ trương, giải pháp cụ thể, khả thi đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, ngành, tổ chức, các lực lượng tạo thành sức mạnh tổng hợp đấu tranh làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Định kỳ tổ chức thông tin thời sự về tình hình trong nước và quốc tế cho cán bộ, đảng viên. Sử dụng hệ thống thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục lý luận chính trị, các thiết chế văn hóa và thông qua mạng internet... kịp thời phổ biến, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giảng dạy lý luận chính trị. Tập trung tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, đội ngũ cán bộ kế cận, phát hiện những cán bộ trẻ có năng khiếu, tư chất và có trình độ tư duy lý luận để đào tạo, bồi dưỡng. Chú trọng phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng internet và các phương tiện truyền thông xã hội; hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, sử dụng các giải pháp kỹ thuật cần thiết để phòng ngừa, nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, xử lý gỡ bỏ thông tin xấu độc trên không gian mạng. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”(8)./.

--------------------------------------

(1), (2), (3), (4), (5) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 87 - 88, 88, 89, 90 - 91, 91

(6), (7), (8) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,  tr. 189 - 190, 183, 193 - 194