Phía bờ Bắc, ban đầu quân ta dựng một cột cờ bằng thép cao khoảng 34m để treo lên lá cờ rộng 108m2. Còn phía bờ Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm cho xây dựng cột cờ kiên cố, cao 30m. Sau đó họ nâng cột cờ lên 35m. Chúng ta cũng tiếp tục cho dựng một cột cờ mới kiên cố cao trên 38m, treo lên lá cờ rộng 134m2.
Sinh ra và lớn lên bên dòng Hiền Lương, ông Lê Công Hường (SN 1936, ở xã Vĩnh Thành; nay là xã Hiền Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) chứng kiến 2 cuộc kháng chiến nên ông hiểu rõ sự khốc liệt của chiến tranh.
Ông Hường kể, dọc con đường vào thôn Hiền Lương trước kia có một đường giao thông hào dẫn về phía cầu Hiền Lương. Những năm chính quyền Mỹ-ngụy leo thang phá hoại miền Bắc, cột cờ giới tuyến luôn bị bom đạn đánh phá. Những khi cờ rách thì đem vá, cột cờ gãy thì lập tức thay cột cờ mới. Riêng năm 1967, ông Hường và những đồng đội đã thay cột cờ 11 lần và thay lá cờ 42 lần.
"Nhiệm vụ của chúng tôi là giữ cho cờ Tổ quốc luôn hiện diện ở giới tuyến với lời thề: Lá cờ còn, Tổ quốc còn. Nên cột cờ bị gãy thì phải dựng cột mới, lá cờ bị hỏng thì phải may vá sửa sang lại ngay", ông Hường nói.
Trước sự hủy diệt của bom đạn vùng giới tuyến, cầu Hiền Lương bị đánh sập, ông Lê Công Hường lại được giao nhiệm vụ chèo đò chở người qua sông.
Nhiệm vụ của ông Hường là trực ở bên bờ sông Hiền Lương để chở bộ đội, cán bộ, giao liên từ phía Bắc vào, vượt sông Bến Hải và chở tù binh, thương binh phía Nam trở lại.
Đến nay, ông Hường không nhớ rõ mốc thời gian, nhưng ông nhẩm tính trong suốt 5 năm làm nhiệm vụ chèo đò ở sông Hiền Lương, ông đã chuyên chở hàng ngàn lượt bộ đội, cán bộ, thương binh.
"Có đêm tôi chở khoảng 1.900 người qua về sông Hiền Lương. Mỗi lần thuyền chở được 40 người, phải lựa chọn thời điểm vượt sông để tránh bị quân địch phát hiện và ném bom bắn phá", ông Hường nhớ lại.
Ghi nhận những đóng góp của ông Hường đối với cuộc kháng chiến, lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ đã khen tặng ông nhiều Huân chương, huy chương các loại.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét