Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022

Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị trực tuyến ở Việt Nam hiện nay

 


(LLCT) - Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định trong việc tận dụng những thế mạnh của phương thức trực tuyến trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị (LLCT) nhưng hiện nay công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT theo hình thức này còn nhiều vấn đề đặt ra. Bài viết khái quát những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến.

1. Thực trạng và những vấn đề đặt ra

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đem lại nhiều cơ hội, thuận lợi mới đối với giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành hai thông tư quan trọng là Thông tư số 12/2016/TT-BGDĐT ngày 22-4-2016 Quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng và Thông tư số 10/2017/TT-BGDĐT ngày 22-4-2017 ban hành Quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học trong đó xác định rõ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo qua mạng là việc sử dụng các trang thiết bị điện tử, phần mềm, học liệu điện tử và mạng viễn thông (chủ yếu là mạng Internet) hỗ trợ các hoạt động dạy và học nhằm đổi mới phương pháp dạy - học, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo.

Liên quan trực tiếp đến đào tạo trực tuyến, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành hai văn bản: Công văn số 795/BGDĐT-GDĐH ngày 13-3-2020 về việc triển khai công tác đào tạo từ xa ứng phó với dịch Covid-19 và Công văn số 988/BGDĐT-GDĐH ngày 23-3-2020 về việc bảo đảm chất lượng đào tạo từ xa trong thời gian phòng, chống dịch Covid-19.

Theo số liệu thống kê của Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến ngày 13-4-2020 đã có 110/240 trường đại học tại Việt Nam triển khai hình thức đào tạo trực tuyến, bao gồm 63 trường công lập (khoảng 43% tổng số trường công lập), 42 trường ngoài công lập (khoảng 70% tổng số trường ngoài công lập) và 05 trường có vốn đầu tư nước ngoài (100% trường có vốn nước ngoài). Còn 104 trường chưa đào tạo trực tuyến, gồm 86 trường công lập (57% trường công lập) và 18 trường ngoài công lập (30% trường ngoài công lập)(1).

Theo một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OEDC) về những bài học thực tiễn mà nền giáo dục các nước đã làm tốt trong đại dịch Covid-19, Việt Nam là một trong các quốc gia được lấy làm ví dụ để các nước khác học hỏi kinh nghiệm.

Ủng hộ sáng kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo, vào ngày 26-3-2020 các nhà mạng lớn ở Việt Nam (Viettel, VNPT, MobiFone, Vietnamobile) cam kết hỗ trợ ngành giáo dục trong việc ngăn chặn và kiểm soát Covid-19 bằng cách miễn phí lưu lượng data điện thoại cho học sinh, người học, giáo viên và phụ huynh khi sử dụng các giải pháp đào tạo trực tuyến do Bộ công bố. Đây cũng là nỗ lực nhằm tăng tốc quá trình số hóa ở Việt Nam.

Với ưu điểm có thể tạo nên môi trường học tập rộng rãi cho đông đảo người dân, không phụ thuộc vào không gian và thời gian vật lý nếu điều kiện cho phép, có thể giúp người học tiết kiệm được chi phí đi lại, sắp xếp được thời gian học tập hợp lý cho mình, đào tạo và bồi dưỡng trực tuyến có thể giúp khắc phục những khó khăn trong việc tổ chức các khóa học tại các địa phương ở xa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng hoặc khó khăn của người học đang sinh sống và làm việc ở những nơi xa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Theo đó, việc đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến có thể tạo ra những cơ hội học tập mới cho người học cũng như đáp ứng yêu cầu mở rộng, phát triển của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT ở Việt Nam.

Thêm vào đó, môi trường số hóa có khả năng cung cấp cho người học kho tri thức, tài liệu khổng lồ từ khắp nơi trên thế giới. Vì vậy, dạy và học trực tuyến có thể giúp người học tiếp cận và khai thác ngày càng nhiều hơn, hiệu quả hơn kho tài liệu này.

Đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến là một xu hướng tất yếu mà các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT ở nước ta cần đón bắt, thích ứng và triển khai thực hiện có hiệu quả. Trong hai năm qua, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị cấp tỉnh và các cơ sở đào tạo có giảng dạy các môn LLCT đã thực hiện khá tốt phương thức đào tạo trực tuyến.

Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công tác này. Những vấn đề đặt ra hiện nay là:

Về cơ sở pháp lý

Trong những năm gần đây, các luật, văn bản dưới luật của Nhà nước đều nhấn mạnh đến đổi mới, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nói chung và đào tạo LLCT nói riêng. Tuy nhiên, các quy định này còn mang tính chung chung, chưa đề cập một cách cụ thể và có hệ thống về đào tạo trực tuyến. Chính vì vậy, khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, hàng loạt các trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng, buộc phải chuyển sang phương thức đào tạo trực tuyến, nhưng còn lúng túng, thiếu thống nhất; “mặc dù có những ưu điểm rõ rệt song về căn cứ pháp lý đối với loại hình đào tạo trực tuyến hoặc học qua truyền hình vẫn chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức thông qua. Và cách làm của các trường hiện nay cũng đang theo kiểu: “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”(2); “những hành lang pháp lý cho vấn đề này vẫn cần được xây dựng, bổ sung thêm.

Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tiếp tục ban hành những văn bản để hoàn thiện hành lang pháp lý cho đào tạo trực tuyến. Trong đó, xem xét đưa phương thức đào tạo trực tuyến vào quy chế đào tạo đại học sửa đổi với tỷ lệ phần trăm thích hợp. Bộ cần sớm ban hành quy chế bảo đảm chất lượng các chương trình đào tạo từ xa và xây dựng đề án phát triển đào tạo từ xa cho giai đoạn tiếp theo”(3).

Về cơ sở vật chất, công nghệ

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ số, việc đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ cần tiến hành thường xuyên, liên tục, nhằm cập nhật, tận dụng tối ưu những thành tựu công nghệ, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả cao cho đào tạo, bồi dưỡng nói chung, đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến nói riêng.

Trong chương trình đào tạo của các trường đại học ở Việt Nam hiện nay có những học phần được tổ chức trên hệ thống đào tạo trực tuyến gồm: hệ thống quản lý học tập (Learning Management System - LMS), hệ thống quản

lý nội dung học tập (Learning Content Management System - LCMS) có đầy đủ học liệu và hệ thống mô phỏng thí nghiệm, thực hành... theo yêu cầu của chương trình đào tạo. Ngoài ra, có những học phần chỉ tổ chức đào tạo trực tuyến qua các công cụ dạy học trực tuyến theo thời gian thực (Real Time Conference - RTC) như: Microsoft Teams, Zoom, Webex, Google Hangouts Meet... Để đối phó với dịch Covid-19, vừa qua rất nhiều trường đại học đã tổ chức đào tạo trực tuyến theo thời gian thực với các phần mềm phổ biến Microsoft Teams, Zoom. Tuy nhiên, việc sử dụng các phần mềm này gây ra khá nhiều tranh luận, nhất là về những kẽ hở và tính bảo mật của chúng khiến cho các trường khá lúng túng, thậm chí có những trường lúc đầu sử dụng phần mềm Zoom nhưng sau đó lại chuyển sang phần mềm Microsoft Teams để bảo đảm hơn về tính bảo mật.

Tình trạng có quá nhiều nền tảng, quá nhiều phần mềm khiến cho việc tổ chức đào tạo trực tuyến theo kiểu “trăm hoa đua nở”, “mạnh ai nấy làm”, không bảo đảm tính hệ thống, tính quy chuẩn, thậm chí lộn xộn. Thực trạng đó đòi hỏi các cơ quan chức năng, đặc biệt là Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông có giải pháp hỗ trợ hạ tầng công nghệ cho các cơ sở đào tạo, bảo đảm tính quy chuẩn, thống nhất và bảo mật.

Về cơ sở vật chất, không phải cơ sở giáo dục đại học nào cũng có đủ nguồn kinh phí và nguồn nhân lực chất lượng cao để tổ chức triển khai. Đó là chưa kể, đầu tư vào đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến hiện nay là bài toán chưa rõ về chi phí: có thể bắt đầu với chi phí rất thấp, nhưng tốc độ mở rộng rất nhanh và không giới hạn về số lượng lẫn khung giờ tham gia, từ đó sẽ phát sinh nhiều chi phí không lường trước được(4).

Về chương trình đào tạo, bồi dưỡng và công tác quản lý

Đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến có sự khác biệt rất lớn với đào tạo, bồi dưỡng truyền thống; không thể sử dụng nguyên xi chương trình đào tạo, bồi dưỡng truyền thống cho phương thức đào tạo trực tuyến. Đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến đặt ra vấn đề phải đổi mới chương trình đào tạo, thích ứng với công nghệ truyền thông hiện đại và số hóa nội dung bài giảng cũng như nhu cầu rất đa dạng của người học. Cơ sở đào tạo cần xây dựng khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng mang tính hệ thống, có cơ sở pháp lý, với những yêu cầu cụ thể về kỹ thuật để triển khai kế hoạch giảng dạy chung trong toàn trường, toàn khóa, đồng thời đổi mới công tác tổ chức các kỳ thi, kiểm tra, việc đánh giá, khảo thí và kiểm định chất lượng.

Đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến cũng đặt ra nhiều vấn đề mới về công tác quản lý. Việc giảng dạy với các nội dung số hóa trên các nền tảng công nghệ thông tin hiện đại đòi hỏi công tác quản lý cũng phải được số hóa, hiện đại hóa, phát huy tối ưu vai trò của công nghệ thông tin; bảo đảm quyền lợi cho người dạy và người học, ngăn ngừa tối đa tình trạng giảng viên không chấp hành đúng quy định và người học vi phạm, gian lận trong quá trình học, thi, kiểm tra... Mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến phải đổi mới, sửa đổi, hoàn thiện quy chế quản lý đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với phương thức đào tạo trực tuyến các môn học này, đặc biệt là về chế độ thù lao giảng viên lên lớp, trợ giảng; quy định về bản quyền trong dạy học, giáo trình và tài liệu, học liệu điện tử; quy định về thời gian tối thiểu tham dự lớp học; quy định về kiểm tra, đánh giá môn học; quy định về quản lý người học; v.v..

Về nguồn nhân lực

Về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý:

Yêu cầu về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo hiện nay, đặc biệt là trong đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ sở giáo dục LLCT ngoài việc đáp ứng các yêu cầu về năng lực chuyên môn, phải có năng lực tổ chức, kỹ năng trong điều hành, giải quyết công việc gắn với việc số hóa, phát huy tối ưu những thành tựu mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa lại.

Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ này phải xác định được mục tiêu, tầm nhìn, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để bảo đảm việc đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến một cách bài bản, có lộ trình thích hợp, vừa phát huy được nguồn lực con người và công nghệ hiện đại, vừa đáp ứng được nhu cầu xã hội trên cơ sở phát huy tối ưu thế mạnh của công nghệ thông tin.

Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, một số cơ sở đào tạo LLCT, sau những lúng túng nhất định, đội ngũ lãnh đạo, quản lý đã có những bước chuyển mạnh mẽ, chủ động nghiên cứu, tìm hiểu về đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, chuyển đổi mạnh mẽ từ phương thức đào tạo, bồi dưỡng truyền thống sang phương thức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, đem lại những kết quả tốt. Tuy nhiên, đây là một công việc lớn và khó, đòi hỏi có sự thay đổi căn bản về tổ chức bộ máy, nhân lực, ứng dụng công nghệ, xây dựng chương trình và cơ sở học liệu, số hóa bài giảng, đổi mới công tác quản lý, tổ chức kiểm tra, đánh giá... Tình hình đó đặt ra vấn đề phải có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình triển khai tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến. Cần chủ động tổ chức những lớp đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu thực tế để quá trình tổ chức triển khai đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến diễn ra một cách chủ động, thống nhất và đạt hiệu quả cao.

Về đội ngũ giảng viên:

Giảng dạy trực tuyến không chỉ đòi hỏi sự am hiểu về lĩnh vực chuyên môn giảng dạy, mà còn đặt ra yêu cầu cao về kỹ thuật, công nghệ và phương pháp giảng dạy. Giảng viên phải có kiến thức và kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, hiểu rõ về hệ thống quản lý khóa học trực tuyến (Learning Management System), kỹ năng giảng dạy trực tuyến, giảng dạy từ xa...

Đối với các giảng viên LLCT, có rất nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết. Các môn LLCT vốn khô khan, cả lý luận và thực tiễn có những vấn đề hóc búa không dễ lý giải, quá trình giảng bài của giảng viên có thể nhận được những câu hỏi rất khó, thậm chí là nhạy cảm về chính trị. Toàn bộ bài giảng có thể được người học ghi lại và đưa lên mạng. Nếu bài giảng không tốt, đặc biệt là những bài giảng có vấn đề về chính trị, khi bị đưa lên mạng có thể ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của giảng viên và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Chính vì vậy, để giảng dạy LLCT trực tuyến đòi hỏi phải có đội ngũ giảng viên giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và công nghệ thông tin, có kinh nghiệm giảng dạy và kỹ năng xử lý tình huống tốt. Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều giảng viên LLCT trẻ giỏi công nghệ thông tin và ngoại ngữ, nhưng kiến thức chuyên môn, kỹ năng xử lý tình huống còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, nhiều giảng viên LLCT lớn tuổi có kiến thức chuyên môn tốt, nhưng khả năng sử dụng công nghệ trong xây dựng bài giảng và giảng dạy còn nhiều hạn chế; việc thiết kế kịch bản dạy học, xây dựng hình ảnh, video clip, tích hợp các trang màn hình, tương tác với người học, kết nối với cán bộ quản lý đào tạo, theo dõi quá trình tiến bộ của từng người học trong dạy học, khả năng nắm bắt trong tiếp nhận và xử lý thông tin phản hồi từ phía người học đối với họ không phải là việc đơn giản.

Bên cạnh đó, việc chuyển sang đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải thay đổi phương pháp giảng dạy. Ngoài phương pháp thuyết trình không thể thay thế, giảng viên phải tận dụng tối đa các phương pháp giảng dạy tích cực gắn với công nghệ như phương pháp lớp học đảo ngược, trò chơi truyền hình...; một số phương pháp tích cực khác vốn được sử dụng phổ biến ở lớp học truyền thống như phương pháp sàng lọc, phương pháp thảo luận nhóm cũng cần có sự thay đổi bằng việc tận dụng các hiệu ứng kỹ thuật trên các phần mềm giảng dạy, thích ứng với đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến.

Về đội ngũ cán bộ kỹ thuật vận hành công nghệ:

Việc đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến cũng đặt ra vấn đề phải xây dựng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin hỗ trợ cho quá trình giảng dạy. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT hiện nay rất hạn chế về số lượng và một số chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Các cơ sở giáo dục - đào tạo rất khó có thể tuyển được những kỹ sư giỏi, trong trường hợp tuyển được kỹ sư giỏi cũng rất khó giữ chân họ khi tiền lương và chế độ đãi ngộ rất thấp, phải theo quy định chung, chưa có cơ chế đặc thù. Đặc biệt, hầu hết các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến vẫn được tổ chức theo mô hình cũ, nên biên chế dành cho đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin rất hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến phải xây dựng, tổ chức lại được đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin, tạo ra được một lực lượng đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ mới.

Về người học

Đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến đòi hỏi người học phải xác định rõ mục tiêu học tập, chuẩn bị đủ điều kiện về thiết bị công nghệ (máy tính, điện thoại thông minh có kết nối internet, mạng internet tốc độ cao...), kỹ năng sử dụng công nghệ, cài đặt và sử dụng phần mềm, chuẩn bị không gian học tập, lập kế hoạch học tập, nghiên cứu, khai thác học liệu. Mặt bằng trình độ sử dụng công nghệ của người học hiện không đồng đều, có những người học ở xa đô thị, nên việc tiếp cận Internet rất khó khăn. Trong khi đó, có những học viên, tuy không gặp khó khăn về cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ, nhưng lại thụ động, ỷ lại, đối phó trong học tập, khiến cho việc giảng dạy, bồi dưỡng trực tuyến không bảo đảm chất lượng. Hình thức học trực tuyến yêu cầu việc tự học, tự nghiên cứu chủ động từ phía người học, phải khắc phục thói quen học tập truyền thống với tính ỷ lại, thụ động.

Về nội dung học tập - học liệu điện tử

Các môn học LLCT, do tính trừu tượng, khái quát cao, nên việc xây dựng nội dung học liệu điện tử không đơn giản; việc tạo ra một bài giảng trực tuyến sinh động, dễ hiểu là một thử thách lớn đối với giảng viên. Để làm tốt vấn đề này, ngoài giảng viên biên soạn về nội dung chuyên môn cần có các chuyên gia công nghệ thông tin hỗ trợ về mặt kỹ thuật để tận dụng tối đa thế mạnh của công nghệ thông tin, ưu thế của hiệu ứng kỹ thuật.

Bên cạnh các bài giảng điện tử còn có hệ thống tài liệu tham khảo hình thành nên hệ thống học liệu điện tử, tạo nguồn tài nguyên giáo dục mở. Đây là nguồn tài nguyên giảng dạy, học tập mà không có bản quyền sử dụng hoặc được phát hành theo giấy phép sở hữu trí tuệ, cung cấp miễn phí trên hệ thống Internet. Tuy nhiên, ở đây cũng đặt ra vấn đề lớn là việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ không đơn giản. Hiện nay, ở nước ta, ý thức tự giác của người sử dụng cũng như sự hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ chưa cao, bản quyền tác giả thường xuyên bị vi phạm, luật về quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều kẻ hở, bài giảng trực tuyến cũng như hệ thống học liệu điện tử mà các giảng viên dày công xây dựng dễ bị sao chép tràn lan, khó kiểm soát.

2. Một số giải pháp

Một là, thống nhất nhận thức tư tưởng về sự cần thiết triển khai đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến. Đây là công việc rất mới, thực sự là cuộc cách mạng, đổi mới căn bản và mạnh mẽ phương pháp dạy và học hiện đại, phù hợp với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hai là, bên cạnh chương trình giảng dạy trực tiếp, cần xây dựng, chuyển đổi, kết cấu lại nội dung các chương trình tổng thể, chương trình chi tiết, kế hoạch đào tạo các chuyên ngành LLCT sang chương trình, kế hoạch đào tạo trực tuyến từ việc tuyển sinh, tổ chức học tập, thi, kiểm tra, công nhận chứng chỉ, bằng tốt nghiệp...

Ba là, bên cạnh việc xây dựng đội ngũ giáo viên LLCT tâm huyết, yêu nghề, có kiến thức mới gắn với thực tiễn, cần xây dựng các tiêu chí đối với giảng viên giảng dạy trực tuyến cho từng học phần, từng chuyên ngành LLCT. Đồng thời, cần có chế độ tính giờ giảng phù hợp để các giảng viên yên tâm, nhanh chóng tiếp cận và có thể thu hút các nhà khoa học, các giảng viên LLCT giỏi tham gia giảng dạy trực tuyến.

Bốn là, tăng cường kết cấu hạ tầng phục vụ triển khai dạy học trực tuyến. Đó là trang bị và nâng cấp hệ thống máy tính, thiết bị thu, phát các bài giảng trực tuyến, các quy định về việc tổ chức giảng dạy và học tập. Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cấp kết cấu hạ tầng thông tin, xây dựng các phòng học hiện đại, xây dựng thư viện, học liệu điện tử.

Nguồn: PGS, TS PHẠM HƯƠNG TRÀ

Khoa Xã hội học và Phát triển,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

 

Áp dụng chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị


(LLCT) - Lĩnh vực giáo dục - đào tạo đã đẩy mạnh chuyển đổi số và thu được nhiều kết quả tích cực; hoạt động giáo dục lý luận chính trị (GDLLCT) cũng đã chuyển đổi từ hình thức truyền thống sang trực tuyến. Sự thay đổi này bước đầu đã cho thấy những triển vọng của chuyển đổi số trong GDLLCT, mặc dù về lâu dài còn rất nhiều vấn đề cần thực hiện một cách khoa học, đồng bộ. Bài viết tập trung phân tích các điều kiện và đề xuất một số khuyến nghị bảo đảm chuyển đổi số trong giảng dạy, học tập lý luận chính trị.

 

1. Chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị là tất yếu

Chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình tổ chức, hoạt động nhằm tạo ra những cơ hội, lợi ích và giá trị mới. Đối với giáo dục - đào tạo, chuyển đổi số là quá trình chuyển việc truyền thụ kiến thức chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi trong môi trường số; cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời. Sự bùng nổ của nền tảng công nghệ IoT, Big Data, AI, SMAC (mạng xã hội, di động, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây) đang hình thành nên hạ tầng giáo dục số. Tại Việt Nam, Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã khẳng định: “Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số.... Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số”. Ngày 03-6-2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, với mục tiêu đưa nước ta gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Riêng về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chuyển đổi số tập trung “phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa...”.

Trong thời gian qua, tại Việt Nam, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo đã từng bước được thực hiện và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong GDLLCT chuyển đổi số vẫn là điều mới mẻ với nhiều cơ sở đào tạo. Theo khảo sát của Đề án “Đổi mới giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân” do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành năm 2014, trong hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam gần như chưa triển khai thực hiện (kể cả thí điểm) hình thức đào tạo lý luận chính trị trực tuyến. Từ cuối năm 2019, khi đại dịch Covid-19 xuất hiện, việc giảng dạy, học tập của tất cả các cơ sở giáo dục - đào tạo bị gián đoạn. Trong bối cảnh đó, nhiều học viện, cơ sở đào tạo, GDLLCT đã chuyển đổi sang hình thức dạy và học trực tuyến thay cho hình thức giảng dạy truyền thống. Điển hình, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tất cả các lớp đào tạo cao cấp lý luận chính trị, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ và cử nhân đều được triển khai theo hình thức trực tuyến trên nền tảng công nghệ số hiện đại, bảo mật. Cùng với đó, Học viện cũng đẩy mạnh tổ chức các hội thảo khoa học, hội nghị trực tuyến để bảo đảm yêu cầu vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, vừa phòng chống dịch bệnh Covid-19. Thành công bước đầu cho thấy, việc áp dụng công nghệ thông tin trong GDLLCT có nhiều ưu điểm, có thể phát huy nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.

2. Những điều kiện cho chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị

Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất Khung chuyển đổi số cấp tổ chức, doanh nghiệp bao gồm 06 thành tố, điều kiện: chiến lược, công nghệ, tổ chức, nhân lực, văn hóa, khách hàng. Tại Việt Nam, “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cũng đã đề cập 06 yếu tố quyết định đến quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam bao gồm: nhận thức, sự tham gia của người dân, thể chế và công nghệ, hợp tác, an ninh mạng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp.

Trên cơ sở Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, có thể đề xuất điều kiện Khung bảo đảm áp dụng chuyển đổi số trong GDLLCT (áp dụng cho bậc trung cấp, cao cấp lý luận chính trị) bao gồm những thành tố sau (Hình 1).

Một là, nhận thức. Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức. Để thực hiện chuyển đổi số trong GDLLCT, trước hết đòi hỏi có sự quyết tâm thay đổi của người đứng đầu. Bên cạnh đó, cần có sự đồng bộ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm của cán bộ, giảng viên, học viên, địa phương, cơ quan... trong triển khai thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt động GDLLCT.

Hai là, khung luật pháp, chính sách về chuyển đổi số. Cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý phải được hoàn thiện tạo thuận lợi cho chuyển đổi số trong giáo dục nói chung liên quan đến chuyển đổi số, an ninh mạng; quy định về học liệu như sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả. Đối với GDLLCT, cần kịp thời xây dựng và điều chỉnh các chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; chương trình giảng dạy - học tập lý luận chính trị trực tuyến; khảo thí, kiểm định chất lượng việc giảng dạy - học tập và công nhận kết quả học GDLLCT trực tuyến.

Ba là, chiến lược. Cơ sở đào tạo cần xây dựng chiến lược chuyển đổi số trong GDLLCT, tập trung vào các nội dung chủ đạo: số hóa thông tin quản lý (giảng viên, học viên, cơ sở đào tạo), triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng Big Data để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định quản lý; chiến lược hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học bao gồm: số hóa học liệu (giáo trình, bài giảng điện tử, hệ thống quản lý e-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, hệ thống hội thảo trực tuyến. Trong đó, thành tố quan trọng có tính quyết định là sự đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị sao cho phù hợp với thực tiễn, bối cảnh mới. Kết luận số 94-KL/TW ngày 28-3-1994 của Ban Bí thư đã chỉ rõ: “Xác định việc đổi mới từ nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, xây dựng đội ngũ giảng viên, giáo viên trong quá trình học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân là nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược”.

Bốn là, công nghệ và an ninh mạng. Nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ bảo đảm việc quản lý, dạy - học; bảo đảm môi trường mạng thông suốt, ổn định, an toàn thông tin. Đi kèm với thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng (platform) để mọi hoạt động giáo dục và quản lý của các cấp diễn ra trên đó, bảo đảm tính tương thích và kết nối với nhau. Ngoài ra, bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững. Mọi thiết bị, sản phẩm, phần mềm, hệ thống thông tin, dự án đầu tư về công nghệ thông tin đều có cấu phần bắt buộc về an toàn, an ninh mạng ngay từ khi thiết kế.

Năm là, nguồn nhân lực. Với bất kỳ lĩnh vực gì, thành công trước hết phụ thuộc vào đội ngũ nhân lực. Vì vậy, cần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên, chuyên viên quản lý đào tạo, IT... với đầy đủ kiến thức về chuyển đổi số, kỹ năng về công nghệ thông tin, an toàn thông tin, khai thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng phục vụ công việc dạy - học cũng như văn hóa ứng xử, xử lý tình huống trên môi trường mạng. Việc giảng dạy, học tập trên môi trường mạng khác hoàn toàn với giảng dạy, học tập truyền thống, do vậy người giảng viên cần linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng bài giảng hấp dẫn, mang hơi thở của cuộc sống, tạo hứng thú cho người học, bảo đảm sự tương tác giữa giảng viên và học viên.

Sáu là, sự  tham gia của người học và các bên liên quan. Mục tiêu quan trọng của chuyển đổi số trong GDLLCT là xây dựng thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính tự giác, ý thức về học tập suốt đời của học viên. Do vậy, quá trình chuyển đổi số bắt buộc phải có sự tham gia và gắn kết của người học trong suốt quá trình học tập, giảng dạy. Bên cạnh đó, do đặc thù của GDLLCT, quá trình chuyển đổi số còn đòi hỏi sự đồng bộ, hợp tác chặt chẽ của cả hệ thống chính trị, ở các cấp, bao gồm các ban, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức... trong xây dựng chương trình giảng dạy, hỗ trợ về mặt công nghệ, hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

3. Thực tiễn triển khai tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và một số khuyến nghị

Trong điều kiện dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong các lĩnh vực công tác (đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý điều hành), nhanh chóng chuyển đổi phương thức quản lý và thực hiện nhiệm vụ từ trực tiếp sang trực tuyến, hướng dẫn các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức giảng dạy, quản lý đào tạo bằng hình thức trực tuyến bảo đảm hoàn thành “mục tiêu kép” vừa hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn, vừa phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả.

Để triển khai đồng bộ, Học viện đã chú trọng đầu tư cho nội dung chuyển đổi số với nhiều hạng mục như: nâng cấp Cổng thông tin điện tử; xây dựng thư viện số, thư viện điện tử; xây dựng trung tâm điều hành thông minh; mua sắm trang thiết bị cầu truyền hình, lắp đặt hệ thống mạng dành riêng cho cầu truyền hình; mua bản quyền phần mềm microsoft teams; tập huấn cho giảng viên, v.v..

Bên cạnh đó, hệ thống các phần mềm quản lý văn bản liên thông, hệ thống hòm thư công vụ, chữ ký số, hệ thống camera an ninh, máy chiếu, camera tại các phòng học được lắp đặt đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng và các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý học viên, bảo đảm an ninh, an toàn của cơ quan. Đây là những điều kiện, tiền đề quan trọng để Học viện chủ động chuyển đổi số trong lĩnh vực đào tạo, xây dựng Học viện thông minh.

Tuy nhiên, xét theo khung bảo đảm áp dụng chuyển đổi số trong GDLLCT (áp dụng cho bậc cao cấp lý luận chính trị) đã được xây dựng (tại hình 1), chuyển đổi số trong đào tạo lý luận chính trị tại Học viện còn những bất cập về trang thiết bị công nghệ thông tin, đường truyền; việc mã hóa, số hóa dữ liệu còn chậm, chưa thống nhất; hệ thống các phần mềm phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý đào tạo chưa đồng bộ, chưa liên thông, còn tình trạng mỗi đơn vị sử dụng một phần mềm riêng (ví dụ phần mềm quản lý đào tạo, quản lý điều hành tác nghiệp...). Trình độ sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý, dạy và học của không ít cán bộ, giảng viên, nhân viên và học viên còn hạn chế. Các quy định, quy chế bảo đảm cho quá trình xây dựng và thực thi chuyển đổi số của Học viện còn thiếu.

Để áp dụng chuyển đổi số trong GDLLCT, cần thực hiện một số công việc chính sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình này. Cần tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chủ trương chuyển đổi số quốc gia, chuyển đổi số tại Học viện trong từng lĩnh vực công tác, đặc biệt trong quản lý điều hành, dạy và học, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, thái độ, từ đó nâng cao trách nhiệm của các chủ thể.

Hai là, tiếp tục triển khai mô hình quản trị Học viện thông minh vào thực tiễn; đẩy mạnh quá trình mã hóa, số hóa toàn bộ cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, nhất là hệ thống giáo trình, tài liệu, sách tham khảo, chuyên khảo, bài giảng, ngân hàng đề thi, đáp án; các đề tài, sáng kiến khoa học trong các kho quản lý dữ liệu, v.v.. Tiếp tục đầu tư, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng số, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng dạy - học và nghiên cứu khoa học đồng bộ, điều hành tác nghiệp hiện đại, đồng bộ có thể hoạt động trực tiếp và trực tuyến, nhất là hệ thống phòng học, phòng họp, hội thảo, phòng bảo vệ luận văn, luận án trực tuyến, thư viện điện tử... Đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm quản lý hiện đại, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các công nghệ 4.0 (AI, blockchain, phân tích dữ liệu...) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định quản lý đào tạo một cách nhanh chóng, chính xác, thuận tiện.

Ba là, chuẩn bị các điều kiện về nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực, hạ tầng thiết bị, an ninh mạng phục vụ cho chuyển đổi số. Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, giảng dạy.TS BÙI KIM THANH

Nguồn: TS BÙI KIM THANH

ThS BÙI THỊ HỒNG HÀ

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Min

 

  

Hành trình xây dựng Cộng đồng ASEAN

55 năm một chặng đường  cùng chung tầm nhìn và bản sắc

Ngày 8/8/1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập, khởi đầu cho tiến trình liên kết sâu rộng vì hòa bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á và khu vực.

.

Từ một nhóm các quốc gia Đông Nam Á vốn bị chia rẽ bởi chiến tranh, trải qua 55 năm xây dựng và phát triển, ASEAN ngày nay là một trong những tổ chức khu vực quan trọng, có uy tín và thành công trên thế giới, là ngôi nhà chung gắn bó hơn 650 triệu người dân của 10 quốc gia Đông Nam Á có bản sắc văn hóa đa dạng, một cộng đồng kinh tế lớn thứ 5 thế giới, một đối tác tin cậy và quan trọng của nhiều quốc gia, đóng vai trò trung tâm của các tiến trình đối thoại, hợp tác và liên kết quan trọng ở khu vực.

Hành trình xây dựng Cộng đồng ASEAN cùng chung tầm nhìn và bản sắc

Sự ra đời của ASEAN cách đây 55 năm đã phản ánh nguyện vọng chung của nhiều quốc gia trong khu vực về hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Vượt qua thăng trầm và thích ứng với những thay đổi của thế giới và khu vực, ASEAN ngày càng phát triển và hoàn thiện về nhiều mặt. Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN đã mở đường cho xây dựng ngôi nhà chung ASEAN gắn kết 10 quốc gia Đông Nam Á. Năm 1997, lần đầu tiên ASEAN thông qua Tầm nhìn ASEAN 2020 về một cộng đồng “gắn kết trong bản sắc chung”, đáp ứng nguyện vọng của các quốc gia thành viên về một khu vực Đông Nam Á “sông núi không còn chia cắt mà gắn kết chúng ta trong hữu nghị và hợp tác”.

Đặc biệt, việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột về an ninh - chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội đã nâng tiến trình hợp tác và liên kết khu vực lên tầm cao mới vì hòa bình, hợp tác và cùng phát triển thịnh vượng.

“Phương cách ASEAN” dựa trên nền tảng những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đoàn kết, đồng thuận và không can thiệp công việc nội bộ luôn được gìn giữ, bồi đắp và phát huy, tạo nên giá trị và bản sắc của ASEAN. Chính “phương cách ASEAN” đã giúp ASEAN và các nước thành viên vượt qua những giai đoạn sóng gió của khu vực và thế giới. Đồng thời, mỗi khi vượt qua thử thách, khó khăn, ASEAN càng trưởng thành, tinh thần đoàn kết, thống nhất càng được đề cao, phương cách và bản sắc ASEAN càng tỏa sáng.

Nhờ đó, ASEAN càng khẳng định được uy tín, vị thế và vai trò trung tâm, quan hệ với các đối tác được mở rộng, thực chất và sâu sắc hơn, tranh thủ được sự ủng hộ sâu rộng và hiệu quả của quốc tế cho thúc đẩy phát triển và liên kết của ASEAN. Đến nay, ASEAN có quan hệ đối tác đối thoại với 11 quốc gia và tổ chức quốc tế quan trọng (Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, EU…). Nhiều quan điểm và quy định của ASEAN như Hiến chương ASEAN, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC)… được cộng đồng quốc tế hoan nghênh và ủng hộ, từ đó thúc đẩy hợp tác và nâng tầm quan hệ với ASEAN.

Trung thành với mục đích, tôn chỉ hoạt động của mình, ASEAN đã phát huy vai trò quan trọng trong thúc đẩy đối thoại, hợp tác, xây dựng lòng tin giữa các nước trong và ngoài khu vực nhằm duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực. Trên cơ sở đề cao luật pháp quốc tế, giải quyết các tranh chấp và bất đồng bằng biện pháp hòa bình phù hợp luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, ASEAN đã và đang đóng góp quan trọng vào giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông, được cộng đồng quốc tế ủng hộ.

Thúc đẩy hội nhập và liên kết kinh tế luôn là nội dung trọng tâm trong tiến trình liên kết ASEAN suốt 55 năm qua. Đến nay, trao đổi thương mại nội khối chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thương mại của ASEAN. GDP của cả khối năm 2021 đạt 3.360 tỷ USD, tăng hơn 30% so với năm 2015 khi thành lập Cộng đồng ASEAN. Bên cạnh đó, ASEAN còn là trung tâm của không gian kinh tế rộng mở với mạng lưới tám hiệp định thương mại tự do (FTA) gồm Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và bảy FTA với các đối tác quan trọng, trong đó Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) tạo nên một khu vực thương mại tự do chiếm 30% dân số thế giới và 32% GDP toàn cầu.

Đoàn kết để thống nhất ý chí, đề cao ý thức cộng đồng, chia sẻ trách nhiệm vì lợi ích chung và lâu dài của Cộng đồng ASEAN, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực. Tự cường để giữ vững bản lĩnh, tăng cường tiềm lực và sức mạnh nội sinh của từng quốc gia thành viên và cả Cộng đồng ASEAN. Thích ứng để luôn tự tin, năng động, đổi mới sáng tạo, vững vàng vươn lên trước những biến chuyển phức tạp của khu vực và thế giới.

Việt Nam luôn vì một Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh và phát triển

ASEAN giữ một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Gia nhập ASEAN năm 1995 là một quyết sách mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, góp phần tạo nên cục diện mới về hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như nâng cao uy tín, vị thế của đất nước.

Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, tôn trọng các nguyên tắc, phương cách và bản sắc của ASEAN, Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết và nghĩa vụ thành viên, có nhiều đóng góp quan trọng cho tăng cường đoàn kết, hiện thực hóa ý tưởng ASEAN gồm 10 nước thành viên, xây dựng Cộng đồng ASEAN và thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2025. Trong các hoạt động của ASEAN, Việt Nam luôn đề cao đoàn kết và đồng thuận theo tinh thần “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”.

Những lần Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN đều vào những giai đoạn Hiệp hội gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, trước vô vàn khó khăn chưa từng có tiền lệ của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã kiên trì các nguyên tắc của ASEAN, thể hiện trọn vẹn tinh thần “gắn kết và chủ động thích ứng”, đưa con tàu ASEAN vượt qua sóng gió, giữ vững đà hợp tác và liên kết khu vực, đồng thời định hướng phát triển cho Cộng đồng ASEAN trong giai đoạn mới.

Thực hiện đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Việt Nam tiếp tục cùng các nước ASEAN phát huy hơn nữa bản sắc, vai trò trung tâm của ASEAN, xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh, mang lại lợi ích thiết thực cho tất cả thành viên ASEAN cũng như các đối tác trong và ngoài khu vực. Với phương châm chủ động, tích cực, chân thành, tin cậy và có trách nhiệm, Việt Nam tiếp tục nỗ lực hết sức mình cùng ASEAN viết tiếp những chương thành công về xây dựng Cộng đồng ASEAN, đóng góp quan trọng vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

BÙI THANH SƠN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Ngoại giao

Nguồn: nhandan.vn

 


Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh - Từ góc độ quản lý nhà nước

Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh là một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước của Đảng ta, nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) cho thấy không phải mọi lúc, mọi nơi, sự kết hợp này được bảo đảm. Vì vậy, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cũng như tổ chức thực hiện nhằm kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Tác động qua lại của kinh tế thị trường đối với quốc phòng, an ninh Quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN có tác động hai mặt đến việc củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước. Về tác động tích cực: Thứ nhất, tiềm lực quốc phòng, an ninh của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của quốc gia đó. Kinh tế phát triển tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật, công nghệ và nhân lực cho quốc phòng, an ninh. Khi kinh tế phát triển, nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân sách không ngừng được tăng lên chính là điều kiện để phát triển đất nước về mọi mặt. Từ đó, góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển gắn với đổi mới kỹ thuật, công nghệ là cơ sở để đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong công nghiệp quốc phòng, sản xuất ra các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển cũng là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tăng cường cho các lực lượng vũ trang. Thứ hai, phát triển KTTT góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, từ đó củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường ổn định xã hội và tiềm lực quốc phòng, an ninh. Khi cuộc sống về mọi mặt của người dân được nâng cao, tiến bộ, công bằng, dân chủ được tăng cường thì người dân, các lực lượng xã hội yên tâm, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vững vàng trước sự lôi kéo, xúi bẩy, kích động của các thế lực thù địch. Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có cơ hội phát triển toàn diện của nhân dân là nền tảng chính trị vững chắc để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Thứ ba, KTTT phát triển khơi thông các tiềm lực kinh tế, tác động đến việc tăng cường sức mạnh của lực lượng quân đội và công an cả về vật chất và tinh thần. Về vật chất, kinh tế phát triển, đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ sẽ được cải thiện và nâng cao, là cơ sở để nâng cao năng lực thể chất và trí tuệ mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Về tinh thần, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân, trong đó có gia đình cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cải thiện, giúp cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ quân đội, công an; đồng thời, tạo cơ hội để họ tập trung vào công tác huấn luyện, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, đủ kiến thức và kỹ năng làm chủ các phương tiện, vũ khí, khí tài hiện đại, nâng cao sự sẵn sàng, khả năng chiến đấu và chiến thắng. Thứ tư, KTTT gắn với việc mở cửa, hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước thông qua phát huy các lợi thế, tạo tiền đề vật chất cho tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, mở cửa, hội nhập quốc tế tạo sự hiểu biết, sự gắn kết và ràng buộc lẫn nhau về lợi ích kinh tế, đầu tư, thương mại, hạn chế nguy cơ chiến tranh. Bên cạnh đó, xu hướng hội nhập quốc tế đặt ra khả năng và yêu cầu khách quan liên kết các quốc gia trong các thể chế khu vực và toàn cầu. Chủ động hội nhập quốc tế theo yêu cầu phát triển của KTTT, sự tham gia có trách nhiệm vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, bên cạnh mở rộng quan hệ kinh tế và ngoại giao song phương, còn góp phần củng cố thế và lực của đất nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển KTTT cũng có những tác động tiêu cực đến tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước, cụ thể: Một là, phát triển KTTT dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Đây là một tất yếu do có sự hoạt động và phát huy tác dụng của các quy luật kinh tế khách quan. Sự phân hóa giàu nghèo làm phát sinh những biểu hiện tiêu cực, bất mãn - cơ hội, điều kiện để các thế lực thù địch, tội phạm có thể lợi dụng để dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động người dân gây tình huống phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh hưởng xấu tới việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Hai là, phát triển KTTT tác động đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho mọi cá nhân trong xã hội làm giàu hợp pháp và đang có nhiều người, bằng tài năng, sức lực và nguồn lực của mình trở nên giàu có. Nhưng cũng có không ít cá nhân làm giàu bất chính và một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng vị trí công tác có hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, có nhiều tài sản bất hợp pháp. Điều này tác động đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý, đạo đức của mỗi con người trong đó có cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, đặc biệt là đối với những người có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Ba là, đầu tư và thương mại quốc tế bên cạnh những kết quả tích cực mang lại cho nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực tới lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Thông qua con đường hợp tác đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng để thâm nhập vào trong nước, móc nối với các nhân vật bất mãn, phản động, tổ chức các hoạt động chống phá. Cũng thông qua hoạt động đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch tìm cách mua chuộc, khống chế cán bộ, công chức trong các cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước để cung cấp cho chúng các thông tin liên quan đến quốc phòng, an ninh, phục vụ âm mưu phá hoại, lật đổ. Thông qua đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, nghệ thuật... để truyền bá tư tưởng, văn hóa độc hại, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình. Thực trạng kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh - Từ góc độ quản lý nhà nước Từ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đạt được những kết quả khá toàn diện. Trong xây dựng thể chế, Nhà nước đã ban hành hệ thống thể chế phát triển KTTT, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để giải phóng năng lực sản xuất trong xã hội, khai thác tiềm năng đất nước đi đôi với thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, giúp nền kinh tế có những chuyển biến hết sức to lớn. Tăng trưởng GDP trung bình hằng năm của nước ta giai đoạn 2016 - 2019 đạt trên dưới 7%, mức cao trên thế giới. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng được phát triển. Đây là những điều kiện thuận lợi để Đảng, Nhà nước đầu tư toàn diện cho lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, từ phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đến con người nhằm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội và bộ máy quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh ở Trung ương và địa phương được kiện toàn với các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đối với công tác quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Quốc phòng và Luật An ninh quốc gia, trong đó, xác định rõ nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về quốc phòng trong thời bình và thời chiến theo nhiệm vụ được giao; thực hiện việc kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch của bộ, ngành, lĩnh vực được giao phụ trách; bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia. Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung và dài hạn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội luôn được nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện trong mối quan hệ với chiến lược quốc phòng, an ninh. Đây là bước tiến quan trọng, thể chế hóa một cách đồng bộ các quan điểm của Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng các văn bản quy phạm pháp luật - cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, cũng là căn cứ để chỉ đạo các cấp, các ngành, các lực lượng và địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong hoàn thiện các chính sách phân phối thu nhập, lĩnh vực văn hóa - xã hội, Nhà nước chủ động giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; hạn chế một phần sự phân hóa giàu nghèo cũng như khoảng cách về mức sống và cơ hội phát triển giữa các vùng, miền, các dân tộc, giữa nông thôn và thành thị. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ được đặc biệt quan tâm để cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế, chính sách phát triển khoa học - công nghệ và môi trường không chỉ nhằm nâng cao trình độ công nghệ, cải thiện năng suất lao động mà còn ưu tiên cho các mục tiêu hiện đại hóa nhanh chóng lực lượng quân đội và công an, đặc biệt là trình độ phòng vệ quốc gia trước các nguy cơ an ninh truyền thống và phi truyền thống (chiến tranh mạng, vũ khí sinh học, hóa học, ô nhiễm môi trường...). Trong triển khai các chính sách hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước chủ động đưa nền KTTT mà Việt Nam xây dựng trở thành một bộ phận hữu cơ của nền KTTT thế giới, “kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới”(1), tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển. Các chính sách hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường để, một mặt, phát triển nhanh và bền vững kinh tế của đất nước; mặt khác, tạo sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường gắn bó lợi ích kinh tế, quan hệ ngoại giao hữu nghị giữa nước ta với các nước trên thế giới, góp phần hình thành trật tự thế giới mới theo xu hướng bảo đảm an ninh, hòa bình chung cho phát triển, bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở quan hệ hợp tác về đầu tư và thương mại, có chính sách lựa chọn các đối tác hợp tác về quốc phòng, an ninh để tăng cường vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ quốc phòng, an ninh hiện đại và đào tạo nhân lực, phục vụ hiện đại hóa các lực lượng vũ trang. Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược. Tuy nhiên, một số chính sách vẫn chưa xác định cụ thể các giải pháp để tổ chức thực hiện. Vì vậy, một số quy hoạch, kế hoạch, dự án kinh tế, một số khu kinh tế, khu công nghiệp được bố trí ở các địa bàn không bảo đảm yêu cầu của chiến lược quốc phòng, an ninh. Mặt khác, khi xây dựng các quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế, các cơ quan ở Trung ương và địa phương dành sự quan tâm chủ yếu đến phương diện lợi ích kinh tế, chưa xem xét đầy đủ tác động của các dự án đó đến vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ việc cán bộ, công chức một số cơ quan Trung ương và địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc kết hợp nhiệm vụ phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; không nắm vững các yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh trong xây dựng một số dự án đầu tư. Còn các cơ quan có trách nhiệm phối hợp thẩm tra, thẩm định các dự án đầu tư do thiếu trách nhiệm, không đủ năng lực, hoặc do cả hai nguyên nhân trên, không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn trong các dự án đầu tư đó đối với quốc phòng, an ninh. Không loại trừ khả năng, vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, hoặc bị mua chuộc, mà cơ quan hoặc công chức chủ trì xây dựng, thẩm định dự án, công chức có thẩm quyền phê duyệt, tổ chức thực hiện dự án đã cố tình bỏ qua các nguy cơ tác động tiêu cực của dự án đối với quốc phòng, an ninh đất nước. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng thể chế, chính sách, các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực gắn với quốc phòng, an ninh chưa chặt chẽ. Cơ quan quản lý nhà nước ở nhiều địa phương chỉ tập trung nỗ lực để kinh tế địa phương tăng trưởng, tăng nguồn thu mà chưa thật sự chú trọng đến vấn đề quốc phòng, an ninh. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước để tăng cường kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh Để phát huy những tác động tích cực, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của phát triển KTTT đối với quốc phòng, an ninh, kết hợp hài hòa và bảo đảm thực hiện thành công hai mục tiêu chiến lược xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cần có một hệ thống các quan điểm, giải pháp đồng bộ. Trong đó, giải pháp đặc biệt quan trọng là hoàn thiện công tác quản lý nhà nước. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với nền KTTT, đáp ứng yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, cần xuất phát từ quan điểm chủ đạo của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị và được hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng. Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(2). Đồng thời, cần quán triệt một số quan điểm sau: Một là, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các văn kiện đại hội Đảng nêu bật nguyên tắc: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Đây là nguyên tắc cơ bản, quy định chức năng lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, từ việc xây dựng, hoạch định đ­ường lối, chủ trương chiến lược về quốc phòng, an ninh đến tổ chức thực hiện. Hai là, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia có mối quan hệ biện chứng, tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đây là quan điểm xuyên suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhất là trong bối cảnh, tình hình mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh để tạo môi trường, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; ngược lại, mỗi thành quả của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ tạo điều kiện vững chắc cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước. Ba là, hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh phải đồng bộ, hiệu quả. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Vì vậy, Nhà nước cần phải có một hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và pháp luật, chính sách về quốc phòng, an ninh đồng bộ; được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Bốn là, thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng, an ninh mang tính chất hòa bình, tự vệ. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng vũ trang và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Trên cơ sở quán triệt quan điểm chủ đạo và các quan điểm nêu trên, trong thời gian tới, để tăng cường kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau: Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, ngành, địa phương gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh một cách phù hợp. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Xử lý kỷ luật nghiêm cán bộ, công chức vi phạm, không hoàn thành nhiệm vụ trong tham mưu, hoạch định chính sách phát triển kinh tế làm nguy hại đến tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTTT, bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đều phải được thể chế hoá thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện hiệu lực, hiệu quả trong cả nước. Cơ chế, chính sách bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh cần được xây dựng theo quan điểm quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Việc phân bổ ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh theo hướng tập trung cho những mục tiêu chủ yếu, những công trình có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả cho phát triển kinh tế  - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh, cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ có ý nghĩa lưỡng dụng cao, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thứ ba, hoàn thiện chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới. Muốn kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục hoàn thiện chiến lược tổng thể quốc gia, các quy hoạch và kế hoạch về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Đây cần được coi là một trong những căn cứ quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả. Trong hoàn thiện chiến lược tổng thể, quy hoạch, kế hoạch về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ mới, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá các nguồn lực (cả bên trong và bên ngoài), trên cơ sở đó, xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các giải pháp chính sách, như: Chính sách khai thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư; chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ lưỡng dụng. Thứ tư, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh. Trước hết, mỗi ngành, mỗi cấp phải làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ(3); đồng thời, nghiên cứu xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định này cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới (sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ; sự xuất hiện của các vấn đề quốc phòng, an ninh phi truyền thống). Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở ngành, địa phương, cơ sở. Đổi mới phương pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến công tác nắm tình hình, thu thập xử lý thông tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn và thanh tra, kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội. Thứ năm, đổi mới, nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cho công chức, đặc biệt là công chức lãnh đạo quản lý các cấp. Căn cứ vào đối tượng bồi dưỡng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng cán bộ. Kết hợp bồi dưỡng kiến thức lý luận với thực hành thông qua các cuộc diễn tập thực nghiệm, thực tế ở các bộ, ngành, địa phương, cơ sở để nâng cao hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Thứ sáu, củng cố, kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh các cấp. Cần nghiên cứu, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh nói chung và về kết hợp phát triển kinh tế gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh nói riêng. Kết hợp giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm công tác tham mưu về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới./. (Nguồn: Tạp chí Cộng sản) ------------------------------ (1) Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 33 (3) Nghị định số 119/2004/NĐ-CP, ngày 11-5-2004, của Chính phủ, Về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương