(LLCT) - Lĩnh vực giáo dục - đào tạo đã đẩy mạnh chuyển đổi số và thu
được nhiều kết quả tích cực; hoạt động giáo dục lý luận chính trị (GDLLCT) cũng
đã chuyển đổi từ hình thức truyền thống sang trực tuyến. Sự thay đổi này bước
đầu đã cho thấy những triển vọng của chuyển đổi số trong GDLLCT, mặc dù về lâu
dài còn rất nhiều vấn đề cần thực hiện một cách khoa học, đồng bộ. Bài viết tập
trung phân tích các điều kiện và đề xuất một số khuyến nghị bảo đảm chuyển đổi
số trong giảng dạy, học tập lý luận chính trị.
1. Chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị là tất yếu
Chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình tổ chức,
hoạt động nhằm tạo ra những cơ hội, lợi ích và giá trị mới. Đối với giáo dục -
đào tạo, chuyển đổi số là quá trình chuyển việc truyền thụ kiến thức chủ yếu
bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải sang phát triển năng lực người học,
tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi trong môi trường số;
cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời. Sự
bùng nổ của nền tảng công nghệ IoT, Big Data, AI, SMAC (mạng xã hội, di động,
phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây) đang hình thành nên hạ tầng giáo dục
số. Tại Việt Nam, Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương,
chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã khẳng
định: “Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số.... Khuyến khích
các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số”. Ngày 03-6-2020,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình
“Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, với mục tiêu
đưa nước ta gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Riêng về
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chuyển đổi số tập trung “phát triển nền tảng hỗ
trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý,
giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ
tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát
triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa...”.
Trong thời gian qua, tại Việt Nam, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục -
đào tạo đã từng bước được thực hiện và đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, trong GDLLCT chuyển đổi số vẫn là điều mới mẻ với nhiều cơ sở đào tạo.
Theo khảo sát của Đề án “Đổi mới giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị
trong hệ thống giáo dục quốc dân” do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành năm
2014, trong hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam gần như chưa triển khai thực hiện
(kể cả thí điểm) hình thức đào tạo lý luận chính trị trực tuyến. Từ cuối năm
2019, khi đại dịch Covid-19 xuất hiện, việc giảng dạy, học tập của tất cả các
cơ sở giáo dục - đào tạo bị gián đoạn. Trong bối cảnh đó, nhiều học viện, cơ sở
đào tạo, GDLLCT đã chuyển đổi sang hình thức dạy và học trực tuyến thay cho
hình thức giảng dạy truyền thống. Điển hình, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, tất cả các lớp đào tạo cao cấp lý luận chính trị, đào tạo thạc sĩ,
tiến sĩ và cử nhân đều được triển khai theo hình thức trực tuyến trên nền tảng
công nghệ số hiện đại, bảo mật. Cùng với đó, Học viện cũng đẩy mạnh tổ chức các
hội thảo khoa học, hội nghị trực tuyến để bảo đảm yêu cầu vừa thực hiện tốt
nhiệm vụ chuyên môn, vừa phòng chống dịch bệnh Covid-19. Thành công bước đầu
cho thấy, việc áp dụng công nghệ thông tin trong GDLLCT có nhiều ưu điểm, có
thể phát huy nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
2. Những điều kiện cho chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị
Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất Khung chuyển đổi số cấp tổ chức, doanh
nghiệp bao gồm 06 thành tố, điều kiện: chiến lược, công nghệ, tổ chức, nhân
lực, văn hóa, khách hàng. Tại Việt Nam, “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cũng đã đề cập 06 yếu tố quyết định đến
quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam bao gồm: nhận thức, sự tham gia của người
dân, thể chế và công nghệ, hợp tác, an ninh mạng, sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp.
Trên cơ sở Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, có thể đề xuất điều kiện
Khung bảo đảm áp dụng chuyển đổi số trong GDLLCT (áp dụng cho bậc trung cấp,
cao cấp lý luận chính trị) bao gồm những thành tố sau (Hình 1).
Một là, nhận thức. Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi
nhận thức. Để thực hiện chuyển đổi số trong GDLLCT, trước hết đòi hỏi có sự
quyết tâm thay đổi của người đứng đầu. Bên cạnh đó, cần có sự đồng bộ về nhận
thức, trách nhiệm và quyết tâm của cán bộ, giảng viên, học viên, địa phương, cơ
quan... trong triển khai thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt động GDLLCT.
Hai là, khung luật pháp, chính sách về chuyển đổi số. Cơ chế, chính sách,
hành lang pháp lý phải được hoàn thiện tạo thuận lợi cho chuyển đổi số trong
giáo dục nói chung liên quan đến chuyển đổi số, an ninh mạng; quy định về học
liệu như sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả. Đối với GDLLCT, cần kịp thời xây
dựng và điều chỉnh các chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị; chương trình giảng dạy - học tập lý luận chính trị trực tuyến; khảo
thí, kiểm định chất lượng việc giảng dạy - học tập và công nhận kết quả học
GDLLCT trực tuyến.
Ba là, chiến lược. Cơ sở đào tạo cần xây dựng chiến lược
chuyển đổi số trong GDLLCT, tập trung vào các nội dung chủ đạo: số hóa thông
tin quản lý (giảng viên, học viên, cơ sở đào tạo), triển khai các dịch vụ công
trực tuyến, ứng dụng Big Data để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết
định quản lý; chiến lược hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa
học bao gồm: số hóa học liệu (giáo trình, bài giảng điện tử, hệ thống quản lý
e-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, hệ thống hội thảo trực
tuyến. Trong đó, thành tố quan trọng có tính quyết định là sự đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị sao cho phù
hợp với thực tiễn, bối cảnh mới. Kết luận số 94-KL/TW ngày 28-3-1994 của Ban Bí
thư đã chỉ rõ: “Xác định việc đổi mới từ nội dung, chương trình, phương pháp
giảng dạy, xây dựng đội ngũ giảng viên, giáo viên trong quá trình học tập lý
luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân là nhiệm vụ có tầm quan trọng
chiến lược”.
Bốn là, công nghệ và an ninh mạng. Nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin, cơ
sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ bảo đảm việc quản lý, dạy - học;
bảo đảm môi trường mạng thông suốt, ổn định, an toàn thông tin. Đi kèm với
thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng (platform) để mọi
hoạt động giáo dục và quản lý của các cấp diễn ra trên đó, bảo đảm tính tương
thích và kết nối với nhau. Ngoài ra, bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt
để chuyển đổi số thành công và bền vững. Mọi thiết bị, sản phẩm, phần mềm, hệ
thống thông tin, dự án đầu tư về công nghệ thông tin đều có cấu phần bắt buộc
về an toàn, an ninh mạng ngay từ khi thiết kế.
Năm là, nguồn nhân lực. Với bất kỳ lĩnh vực gì, thành công trước
hết phụ thuộc vào đội ngũ nhân lực. Vì vậy, cần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, quản lý, giảng viên, chuyên viên quản lý đào tạo, IT... với đầy đủ kiến
thức về chuyển đổi số, kỹ năng về công nghệ thông tin, an toàn thông tin, khai
thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng phục vụ công việc dạy - học cũng như văn
hóa ứng xử, xử lý tình huống trên môi trường mạng. Việc giảng dạy, học tập trên
môi trường mạng khác hoàn toàn với giảng dạy, học tập truyền thống, do vậy
người giảng viên cần linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng bài giảng hấp dẫn, mang
hơi thở của cuộc sống, tạo hứng thú cho người học, bảo đảm sự tương tác giữa
giảng viên và học viên.
Sáu là, sự tham gia của người học và các bên liên quan. Mục tiêu quan trọng
của chuyển đổi số trong GDLLCT là xây dựng thái độ học tập, hiểu biết về đạo
đức học thuật, tính tự giác, ý thức về học tập suốt đời của học viên. Do vậy,
quá trình chuyển đổi số bắt buộc phải có sự tham gia và gắn kết của người học
trong suốt quá trình học tập, giảng dạy. Bên cạnh đó, do đặc thù của GDLLCT,
quá trình chuyển đổi số còn đòi hỏi sự đồng bộ, hợp tác chặt chẽ của cả hệ
thống chính trị, ở các cấp, bao gồm các ban, bộ, ngành từ Trung ương đến địa
phương, các tổ chức... trong xây dựng chương trình giảng dạy, hỗ trợ về mặt
công nghệ, hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
3. Thực tiễn triển khai tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và một
số khuyến nghị
Trong điều kiện dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong các lĩnh vực công
tác (đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý điều hành), nhanh chóng chuyển đổi
phương thức quản lý và thực hiện nhiệm vụ từ trực tiếp sang trực tuyến, hướng
dẫn các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức giảng
dạy, quản lý đào tạo bằng hình thức trực tuyến bảo đảm hoàn thành “mục tiêu
kép” vừa hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn, vừa phòng, chống dịch Covid-19
hiệu quả.
Để triển khai đồng bộ, Học viện đã chú trọng đầu tư cho nội dung chuyển đổi
số với nhiều hạng mục như: nâng cấp Cổng thông tin điện tử; xây dựng thư viện
số, thư viện điện tử; xây dựng trung tâm điều hành thông minh; mua sắm trang
thiết bị cầu truyền hình, lắp đặt hệ thống mạng dành riêng cho cầu truyền hình;
mua bản quyền phần mềm microsoft teams; tập huấn cho giảng viên, v.v..
Bên cạnh đó, hệ thống các phần mềm quản lý văn bản liên thông, hệ thống hòm
thư công vụ, chữ ký số, hệ thống camera an ninh, máy chiếu, camera tại các
phòng học được lắp đặt đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả công tác
đào tạo, bồi dưỡng và các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý học viên,
bảo đảm an ninh, an toàn của cơ quan. Đây là những điều kiện, tiền đề quan
trọng để Học viện chủ động chuyển đổi số trong lĩnh vực đào tạo, xây dựng Học
viện thông minh.
Tuy nhiên, xét theo khung bảo đảm áp dụng chuyển đổi số trong GDLLCT (áp
dụng cho bậc cao cấp lý luận chính trị) đã được xây dựng (tại hình 1), chuyển
đổi số trong đào tạo lý luận chính trị tại Học viện còn những bất cập về trang
thiết bị công nghệ thông tin, đường truyền; việc mã hóa, số hóa dữ liệu còn
chậm, chưa thống nhất; hệ thống các phần mềm phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và quản lý đào tạo chưa đồng bộ, chưa liên thông, còn tình trạng mỗi đơn vị
sử dụng một phần mềm riêng (ví dụ phần mềm quản lý đào tạo, quản lý điều hành
tác nghiệp...). Trình độ sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý, dạy và học
của không ít cán bộ, giảng viên, nhân viên và học viên còn hạn chế. Các quy
định, quy chế bảo đảm cho quá trình xây dựng và thực thi chuyển đổi số của Học
viện còn thiếu.
Để áp dụng chuyển đổi số trong GDLLCT, cần thực hiện một số công việc chính
sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình này.
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chủ trương chuyển
đổi số quốc gia, chuyển đổi số tại Học viện trong từng lĩnh vực công tác, đặc
biệt trong quản lý điều hành, dạy và học, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận
thức, thái độ, từ đó nâng cao trách nhiệm của các chủ thể.
Hai là, tiếp tục triển khai mô hình quản trị Học viện thông minh vào thực tiễn;
đẩy mạnh quá trình mã hóa, số hóa toàn bộ cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ học
tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, nhất là hệ thống giáo trình, tài liệu,
sách tham khảo, chuyên khảo, bài giảng, ngân hàng đề thi, đáp án; các đề tài,
sáng kiến khoa học trong các kho quản lý dữ liệu, v.v.. Tiếp tục đầu tư, đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng số, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng dạy - học và
nghiên cứu khoa học đồng bộ, điều hành tác nghiệp hiện đại, đồng bộ có thể hoạt
động trực tiếp và trực tuyến, nhất là hệ thống phòng học, phòng họp, hội thảo,
phòng bảo vệ luận văn, luận án trực tuyến, thư viện điện tử... Đẩy mạnh ứng
dụng các phần mềm quản lý hiện đại, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng
dụng các công nghệ 4.0 (AI, blockchain, phân tích dữ liệu...) để quản lý, điều
hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định quản lý đào tạo một cách nhanh chóng, chính
xác, thuận tiện.
Ba là, chuẩn bị các điều kiện về nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực, hạ tầng
thiết bị, an ninh mạng phục vụ cho chuyển đổi số. Chú trọng xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên, có
khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, giảng dạy.TS BÙI
KIM THANH
Nguồn: TS BÙI KIM THANH
ThS BÙI THỊ HỒNG HÀ
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Min
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét