Thời gian gần đây, trên một số trang mạng xã hội đã xuất hiện các bài viết đưa ra những "lập luận" rằng: Do “vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam” nên “song song với những công trạng họ lập được, Đảng Cộng sản đã vấp phải quá nhiều sai lầm gây nên hậu quả thảm khốc cho cả nước”; “Đảng Cộng sản chưa bao giờ chứng tỏ có khả năng quản trị đất nước”. Họ rêu rao, Đảng "không được sự ủng hộ của nhân dân” và đặc biệt là vấn đề thông qua luật đặc khu kinh tế, an ninh mạng… từ đó gây bức xúc trong nhân dân, đi tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước.
Cần khẳng định ngay rằng,
đó là những lời lẽ hết sức hàm hồ, nhảm nhí. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 94 năm qua đã hoàn toàn
bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, vu khống trên. Bởi vì:
Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của toàn
dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của
sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vừa tuân theo quy luật chung, vừa
tuân theo quy luật lịch sử đặc thù của Việt Nam; đã giải quyết được cuộc khủng
hoảng đường lối cứu nước của dân tộc trong
những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong sự nghiệp đấu tranh cách
mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng ta
đã chứng minh bằng thực tế lịch sử là Đảng ra đời, phát triển hoàn toàn vì đất
nước, vì dân tộc, vì nhân dân chứ không có mục đích nào khác.
Hầu hết những người Việt Nam yêu chuộng hòa
bình đều hiểu rõ một điều, trong hơn 94 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không giành quyền lực với bất
kỳ đảng nào khác, mà Đảng ta đã được chính nhân dân tin tưởng, lựa chọn giao
cho trọng trách lãnh đạo đất nước, dù trong nhiều thời kỳ, ở Việt Nam đã tồn tại các đảng khác. Năm 1946,
ngoài Đảng Cộng sản, ở nước ta còn có sự tồn tại của hai đảng (Việt Nam Quốc
dân Đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội); khi quân Tưởng rút khỏi Việt
Nam, hai đảng này cũng chạy theo.
Trong tình thế hiểm nghèo, vận mệnh của dân tộc “ngàn cân treo sợi tóc” cũng
như trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đầy cam go, gian khổ, chỉ
có Đảng Cộng sản Việt Nam “đứng mũi chịu sào” là người duy nhất có đủ khả năng
tập hợp, quy tụ mọi lực lượng, trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc tạo nên sức mạnh Việt Nam vô địch và với biết bao hy sinh to lớn của
không ít cán bộ, đảng viên, nhân dân để thực hiện cho kỳ được khát vọng cháy
bỏng: Giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Vì vậy, với tuyệt đại đa số nhân
dân, Đảng Cộng sản Việt Nam là hiện thân cho quyền lực chính đáng từ trong lịch
sử.
Mặt khác, thực tế lịch sử
cho thấy đã có thời kỳ, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam ra, ở nước ta cũng tồn tại
Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Cả hai đảng này đều thừa nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó, cả hai đảng này đã tuyên
bố tự giải tán và chỉ còn Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, thực tiễn đã chứng
tỏ vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng nước ta của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang
tính khách quan của lịch sử đất nước.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ
chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn đã chứng minh, khi mới 15 tuổi, với
5.000 đảng viên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng
Tháng Tám 1945, giải phóng dân tộc thoát khỏi xiềng xích nô lệ, đưa đất nước ta
từ một đất nước thuộc địa nửa phong kiến thành một nước độc lập, người dân Việt
Nam từ người nô lệ lên địa vị của người tự do, người làm chủ. Tiếp đó, Đảng
lãnh đạo dân tộc ta đánh thắng hai đế quốc xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, giành độc lập cho dân tộc, thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối.
Hòa bình, thống nhất đất nước Đảng lãnh đạo chiến tranh bảo vệ biên giới phía
Bắc và phía Nam bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp đỡ
nước bạn Cam-pu-chia.
Cũng phải khẳng định
rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là người lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi
mới đất nước với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử để đất nước ta vững
bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Theo đó, đất nước đã có những bước tiến vượt bậc về mọi mặt, có vị thế ngày
càng cao trên trường quốc tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, “đất nước ta chưa bao giờ có tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay” (trích bài phát biểu của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng).
Tuy nhiên, “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy
lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong
bộ máy nhà nước” (trích Nghị quyết
trung ương 4 khóa XII). Nhưng Đảng ta luôn
nhìn thẳng vào sự thật, khẳng định ý chí quyết tâm sửa chữa, khắc phục, đẩy lùi
những sai lầm, khuyết điểm để Đảng không ngừng nâng cao sức chiến đấu, phẩm
chất, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, ngang tầm với trọng trách được giao.
Từ thực tế nêu trên đã
chứng tỏ rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng “đạo đức, trí tuệ, văn minh”,
người tổ chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Không có một đảng
chính trị nào có đầy đủ uy tín, trí tuệ, bản lĩnh, kinh nghiệm thay thế Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để phục vụ cho mưu đồ đẩy mạnh các hoạt
động chống đối tại chỗ, tạo cớ can thiệp từ bên ngoài, các thế lực thù địch ra
sức xây dựng lực lượng chống đối trong nước thông qua việc thành lập các hội,
đoàn, nhóm lấy danh nghĩa là đại diện cho các nhóm xã hội khác nhau, như: “nhóm
tuổi trẻ yêu nước”, “hội dân oan”, “hội cựu tù nhân lương tâm”, “mạng lưới nhân
quyền Việt Nam”,... thúc đẩy cái gọi là “xã hội dân sự”, tạo ra con
đường để hình thành các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản
Việt Nam một cách công khai, hợp pháp, tiến dần tới các cuộc bạo loạn lật đổ
theo hướng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”. Chúng bỏ “bùa mê” quần chúng
bằng nhiều thủ đoạn. Một mặt, chúng núp dưới danh nghĩa “hiến kế”, “chống tham
nhũng”, “góp ý kiến xây dựng”,... hòng lũng đoạn chính sách; mặt khác, chúng ra
sức tập hợp quần chúng, kích động tâm lý đám đông, tổ chức người dân tụ tập, tuần
hành, biểu tình, “bất tuân dân sự”, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội, tạo ra các “điểm nóng”, bất ổn để tạo cớ can thiệp từ bên
ngoài. Để lôi kéo nhiều người tin theo, họ sử dụng khá hiệu quả các chiêu trò mị
dân, lừa gạt, nhân danh đại diện lợi ích của các nhóm xã hội, triệt để lợi dụng
sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ của người dân và có sự móc nối, cấu kết chặt chẽ với
nhiều tổ chức quốc tế thường xuyên có hoạt động chống phá Việt Nam, như: RSF
(Phóng viên không biên giới), AI (Ân xá quốc tế). Nhiều người đã nhẹ dạ, cả tin
theo chúng và chỉ khi đã vướng vào vòng lao lý mới thực sự nhận rõ bộ mặt “rắn
độc” của chúng. Lẽ dĩ nhiên, hậu quả của việc mất cảnh giác trong đấu tranh chống
“diễn biến hòa bình” không chỉ dừng lại ở việc trả giá của mỗi cá nhân hay nhóm
xã hội mà liên quan đến sự tồn vong của chế độ, quốc gia, dân tộc.
Có nhiều việc phải
làm để khắc phục tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước những âm mưu,
thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Nhưng trước hết, phải bắt
đầu từ việc tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính
quyền trong uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh ngăn chặn kịp thời những biểu hiện
chủ quan, lơ là, mất cảnh giác ngay từ cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ
chức đảng, từng cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh phòng, chống “diễn biến
hòa bình” ngay trên lĩnh vực, ngành mình công tác, trong mỗi tổ chức mà mình là
thành viên.
Trong cuộc sống đời thường, êm ả, người
ta thường dễ mất cảnh giác hơn. Đó cũng là lúc những mầm mống của sự phá hoại
âm thầm nảy nở, chờ đợi thời cơ bùng phát. Do đó, phòng, chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân phải được tiến hành thường xuyên, hiệu quả. Mỗi người cần
chú trọng trang bị cho mình những kiến thức cơ bản, nâng cao khả năng tự “miễn
dịch” trước các luận điệu chống phá. Nắm vững và chấp hành nghiêm các quy định
của pháp luật trong tiếp cận, khai thác thông tin, nhất là Luật tiếp cận thông
tin, Luật An ninh mạng, Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, v.v. Mỗi cán bộ, đảng
viên phải đề cao tính đấu tranh tự phê bình và phê bình, thường xuyên “tự
soi”, “tự sửa”, phát huy trách nhiệm nêu gương trong chấp hành Điều lệ và các
quy định của Đảng, của cơ quan, đơn vị; thận trọng trong phát ngôn, chia sẻ,
bình luận, nhận định, đánh giá các vấn đề trên mạng xã hội. Đó cũng là cách lấy
“xây” để “chống”, tỉnh táo để thoát khỏi “mê cung” thông tin, luôn đề cao tinh
thần cảnh giác để tránh rơi vào cạm bẫy “ru ngủ” của các thế lực thù địch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét