Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

"DỊCH BỆNH LẮNG XUỐNG RỒI THÌ PHẢI TẬP TRUNG CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG"


Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho rằng "dịch bệnh đã lắng xuống rồi thì phải tập trung cải cách tiền lương" để giải quyết vấn đề thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức.
Chiều 9-8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về công tác dân nguyện tháng 7-2022 của Quốc hội.
Nêu ý kiến thảo luận tại đây, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng nói trong bối cảnh có nguy cơ “dịch chồng dịch” hiện nay có một vấn đề cần quan tâm là “nhân viên y tế trong các cơ sở y tế công lập, nhất là tuyến huyện, xã xin nghỉ việc tương đối nhiều”.
Ông Tùng nêu báo cáo gần đây nhất của công đoàn y tế tính từ năm 2021 và 6 tháng năm 2022 thì có 9.397 viên chức y tế xin thôi việc, nghỉ việc.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, có nhiều nguyên nhân như công việc căng thẳng, mua sắm thuốc khó khăn, an toàn cho nhân viên y tế… nhưng nổi lên là chế độ lương cho nhân viên y tế thấp, chưa thỏa đáng vì y tế công lập chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước.
Ông dẫn chứng theo phản ánh của báo chí, “một bác sĩ sau 6 năm học, 18 tháng thực hành để cấp chứng chỉ hành nghề, nếu được tuyển dụng vào cơ sở y tế công lập thì lương tháng tính theo chế độ nhà nước khi mới làm việc khoảng 5 triệu/tháng”.
Mức lương này đã cộng 40% phụ cấp ưu đãi, nhưng lại chưa trừ khoản bảo hiểm xã hội phải đóng.
“So sánh với mức thu nhập của cơ sở y tế ngoài công lập thì thấp hơn rất nhiều”, ông Tùng nhận xét.
Ông cho biết công đoàn y tế đã đề xuất sửa đổi nghị định 57 của Chính phủ; nâng mức hưởng phụ cấp ưu đãi lên cao hơn; xem xét từng bước tính đúng, tính đủ hơn giá dịch vụ y tế để tăng thu nhập cho nhân viên y tế.
Cạnh đó xem xét điều chỉnh mức định biên đối với y tế cơ sở. Theo ông Tùng, quy định về mức định biên này đã áp dụng từ năm 2007 nên “rất thấp”.
“Hôm qua chúng tôi tổ chức phiên giải trình, chính Thứ trưởng Bộ Y tế báo cáo là thông tư để thay thế thông tư liên tịch từ năm 2007 đến tận bây giờ vẫn soạn thảo, chưa được ban hành do chưa thống nhất được với Bộ Nội vụ”, ông Tùng nói và đề nghị bổ sung nội dung này vào báo cáo của Ban Dân nguyện tháng 7 để có đề xuất cụ thể.
Phát biểu sau đó, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho rằng không chỉ riêng thu nhập của nhân viên y tế thấp mà lương trong hệ thống nhà nước hiện nay, cán bộ mới vào làm việc lương rất thấp.
“Cô giáo mầm non giờ đi ra làm ở doanh nghiệp rồi mà muốn thu hút, để họ quay trở lại đi dạy rất khó vì lương giáo viên mầm non thấp hơn rất nhiều”, ông Vinh nêu.
Vì vậy ông Vinh cho rằng giờ "dịch bệnh đã lắng xuống rồi thì phải tập trung thực hiện cải cách tiền lương" để giải quyết vấn đề thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức./.
Tác giả: Thành Chung
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ.
Có thể là hình ảnh về 2 người

Báo BBC News Tiếng Việt đòi dạy người dân Việt cách yêu nước!

 Thật là nực cười, từ bao giờ những kẻ những kẻ đã từng khom lưng cúi đầu làm tôi mọi, làm tay sai cho Pháp, cho Mỹ để bức hại đồng bào, phản bội lại khát vọng độc lập, tự do, thống nhất của nhân dân, giờ đây lại thích rao giảng về tình yêu nước vậy? Việc này nó nực cười như việc trao chứng nhận trinh tiết cho bà Phó Đoan vậy.

Chúng tôi yêu nước như thế nào hay cách thể hiện tình yêu quê hương, yêu đồng bào của chúng tôi như thế nào không mượn những kẻ làm tay sai cho ngoại bang phải dạy chúng tôi phải làm như thế nào.

Những người Việt yêu nước sẽ biết phải làm như thế nào để phát huy những cái tốt, giữ gìn truyền thống tốt đẹp và thay đổi những cái chưa tốt. Chúng tôi treo cờ đỏ sao vàng hay xếp hình bản đồ hay xây dựng bức tượng nhằm ghi nhận những hy sinh, đóng góp của những cán bộ, chiến sĩ CSGT và Cảnh sát PCCC& cứu hộ, cứu nạn... là việc của người dân chúng tôi, chả cần mấy người quản.

Xin lỗi, kinh nghiệm đu càng hay nghệ thuật đu càng sao cho đu không rớt, càng không gãy, khi đu tè không ướt quần, các người cứ dạy lại cho con cháu các người học tập và làm theo. Còn chúng tôi thì không cần đâu nhé.

Hãy ngừng các trò kệch cỡm, lố bịch và vô sỉ lại. Nếu biết sám hối với Tổ Quốc, với nhân dân thì chúng tôi vẫn xem các bạn là đồng bào. Nếu tiếp tục ngoan cố, thì chúng tôi đành xem các bạn là giặc vậy./.

Phải xử nghiêm kẻ kích động, chống đối, tấn công lực lượng chức năng tại Nghi Thuận, Nghi Lộc, Nghệ An

 Sáng ngày 13/7/2022, trong lúc lực lượng chức năng đang tiến hành bảo vệ việc thi công đường cắt qua dự án khu công nghiệp WHA thì một số đối tượng giáo dân quá khích thuộc giáo xứ Bình Thuận, Nghi Thuận do đối tượng Nguyễn Đình Thục (đang mục vụ tại giáo xứ Lộc Mỹ, Nghi Quang, cách Nghi Thuận hàng chục cây sô) lên đây trực tiếp chỉ đạo, lôi kéo, kích động, gây cản trở việc thi công làm mất ANTT tại địa phương. Một số tài khoản Facebook khác đã livestream, h.ô hà.o, k.ích độ.ng người dân tập trung tại hiện trường trong đó nhiều lần kêu gọi “chị em phụ nữ lên đi”.

Trong video phát trực tiếp mà đối tượng phát sóng, đối tượng lu loa lực lượng chức năng đàn áp nhân dân nhưng hình ảnh thì lại phản ánh ngược lại. Video ghi lại hình ảnh người dân đang tấn công, chống đối lực lượng chức năng. Những đối tượng này đã dùng gạch tấn công lực lượng Cảnh sát cơ động, cướp và ném công cụ hỗ trợ của lực lượng chức năng. Trong lúc thực hiện nhiệm vụ 01 đồng chí đã bị người dân tấn công, chúng đã đá.nh đập, đạp liên tiếp vào đầu, người chiến sỹ cảnh sát cơ động sau đó kéo lê chiến sỹ này ra ngoài, tấn công “hội đồng” một cách manh động. Một số đối tượng bên ngoài hò hét yêu cầu đưa người này về xã.

Dự án khu công nghiệp WHA Hemaraj 1 Nghệ An được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư vào 22/5/2017 và điều chỉnh chủ trương đầu tư vào 15/3/2021.

Đây là dự án xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp với tổng số vốn đầu tư lên tới hơn 2.000 tỷ đồng, diện tích 498ha, được triển khai tại các xã: Nghi Long, Nghi Thuận, Nghi Đồng và Nghi Hưng (Nghi Lộc, Nghệ An). Dự án được kỳ vọng sẽ thu hút đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của huyện Nghi Lộc và tỉnh Nghệ An, tạo công ăn việc làm ổn định của người dân địa phương.

Tuy nhiên đến thời điểm này giai đoạn 1 của dự án (143,5ha) tại xã Nghi Thuận và Nghi Long vẫn chưa thể hoàn thành do có tuyến đường dân sinh cắt qua khu công nghiệp. Chủ trương đóng con đường cũ cắt qua Dự án khu công nghiệp WHA lâu nay cũng được tiến hành theo đúng cơ sở, trình tự pháp lý đầy đủ từ dự án quy hoạch, quyết định phê duyệt, công bố, công khai. Mặc dù con đường mới đã được đưa vào sử dụng từ tháng 9/2019 với chiều dài 740m, rộng 6,5m; được bê tông hóa, có hệ thống đèn đường chiếu sáng, cây xanh đảm bảo tiêu chuẩn nhưng đến nay vẫn chưa thể đóng con đường cũ vì vấp phải sự phản đối của một số người dân xã Nghi Thuận (huyện Nghi Lộc).

Mặc dù chính quyền địa phương đã nhiều lần tổ chức tuyên truyền, vận động nhưng đối tượng Nguyễn Đình Thục nhiều lần từ Nghi Quang mò lên Nghi Thuận để kích động người dân, cản trở thi công gây sức ép với chính quyền địa phương, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình ANTT.

Nguyễn Đình Thục làm linh mục nhưng lòng dạ đen tối, để lại nhiều tai ương trên địa bàn Nghệ An. Nhắc đến vị linh mục này, người dân không thể không bức xúc khi nhắc đến vụ bắt bớ, đánh đập người trái pháp luật tại huyện Anh Sơn năm 2012, cấu kết với đối tượng Hoàng Đức Bình (một thành viên Việt tân bị tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An tuyên án 14 năm tù năm 2018) và Đặng Hữu Nam kích động biểu tình làm mất ANTT, ách tắc giao thông hàng chục giờ trên tuyến giao thông Bắc - Nam (Quốc lộ 1A - đoạn Quỳnh Lưu - Diễn Châu) vào năm 2017, gây thiệt hại lớn kinh tế xã hội trên địa bàn Nghệ An.

Sống ở quốc gia nào cũng phải thượng tôn pháp luật, không ai có thể ngồi trên đầu pháp luật, "coi trời bằng vung" như thế được. Bạo loạn ở Bình Thuận năm 2018, ở Đồng Tâm năm 2020 đã cho chúng ta nhiều bài học đau thương. Với những kẻ chuyên kích động bạo loạn như Nguyễn Đình Thục và những đối tượng tấn công người thi hành vụ tại xã Nghi Thuận cần phải được đưa ra trước pháp luật xử lý nghiêm minh. Người dân luôn ủng hộ một xã hội văn minh thượng tôn pháp luật chứ không phải như một "đám bầy bò" làm loạn xã hội, coi thường pháp luật như vậy!./.

Tin đồn cấm xuất cảnh tỉ phú phạm nhật vượng là sai sự thật

 Nhiều người bảo rằng thời đại bây giờ mà còn đọc báo giấy, xem truyền hình, nghe radio... là lạc hậu, tối cổ! những người "tay nhanh hơn não" sẽ chẳng bao giờ hiểu được vì sao đến thời đại này mà vẫn còn nhiều người chọn phương pháp, lạc hậu, tối cổ đó! Vì đơn giản là Ít ra những chương trình này vẫn còn được kiểm chứng nguồn thông tin một cách rõ ràng, độ tin cậy chính xác còn khá cao. Chứ còn đọc báo điện tử, xem thông tin từ mạng xã hội... thì chỉ có ngộ độc thông tin mà chết thôi.

Tin giả, tin xấu độc đang dần bào mòn trí thức của con người, làm xói mòn lòng tin của xã hội, thậm chí là " ngu hóa" đồng loại. Tín hiệu đáng buồn nhất là, nhiều bạn trẻ ngày nay đang chọn mạng xã hội làm nơi để nuôi dưỡng tâm hồn và trí thức, đó là một sự sai lầm cực kỳ nghiêm trọng. Tin giả ở mạng xã hội đang làm thiệt hại nghiêm trọng đến sự phát triển của con người, thiệt hại đến kinh tế của các cá nhân, doanh nghiệp, nhà nước... và mới đây nhất, tin đồn về tỷ phú Phạm Nhật Vượng bị cấm xuất cảnh đang làm thiệt hại nghiêm trọng, chao đảo đến thị trường chứng khoán, đặc biệt xâm phạm trực tiếp đến lợi ích của tập đoàn Vingroup! Nguồn thông tin được phát đi từ những kẻ cũng được coi là tri thức nhưng lại ngu học, tưởng chừng như đưa thông tin này nhằm đạt được lợi ích cá nhân của mình. Tuy nhiên lại gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với các cá nhân, tổ chức...

Dĩ nhiên, một khi đã làm sai thì pháp luật chẳng thể khoan hồng! Mới đây nhất thông tin từ Bộ Công an đã gửi hồ sơ sang Sở Thông tin và Truyền thông để xử lý 9 cá nhân tung tin đồn thất thiệt, gây ảnh hưởng đến tập đoàn Vingroup. Những việc làm này đã "ảnh hưởng đến uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, gây tác động xấu đến thị trường chứng khoán". Có lẽ rằng, sau những vụ việc như thế này thì chúng ta mới tá hỏa, chính chúng ta đang làm nô lệ thông tin cho các trang mạng xã hội, chính những nguồn thông tin này đã chi phối tác động ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi cá nhân. Và dù muốn hay không thì sống ở trong xã hội ngập tràn thông tin rác rưởi, tốt nhất tự lo cho mình những cái kén thật an toàn để bảo vệ chính nguồn tri thức của chúng ta. Nếu như cơ quan chức năng mạnh tay hơn nữa, rắn hơn nữa, thậm chí là xử lý hình sự những kẻ đưa tin sai sự thật thì lúc đó mới giảm được những nguồn thông tin thất thiệt tác động đến đời sống kinh tế xã hội của người dân./.

Biết thì thưa thớt, không biết thì làm tiktoker

 Vừa qua đội cơ động diễn tập ở TP Huế trong vài ngày, thì một số Tiktoker lại tỏ thái độ bức xúc, hằn học chỉ trích đội ngựa đua này là lạc hậu, cổ hủ, thời đồ đá giống Tam Quốc xưa. Giờ người ta đi tên lửa, máy bay rồi... mà cảnh sát mình còn đi ngựa lạc hậu. Thật là hài hước với sự nhận thức của một số Tiktoker.

Các quốc gia văn minh như Anh, Na Uy, Thụy Điển và một số quốc gia khác cảnh sát và quân đội hoàng gia cũng như giới quý tộc vẫn dùng ngựa, họ thậm chí còn coi đấy là một nét đẹp, vừa linh động vừa lịch lãm. Họ giàu có, văn minh như vậy mà vẫn sử dụng kỵ binh thì sao các tiktoker cứ phải tự nhục, soi mói để bới móc làm gì?

Cách đây mấy năm cái thời điểm thành lập đội kỵ binh cơ động thì trên các nhóm cũng nổ ra tranh cãi nhiều lắm, ngày nào cũng thấy đăng bài tranh luận, nhưng chắc phải đến 90% là nói về…con ngựa, nào là ngựa ta nhỏ, nhìn chán, không đẹp như ngựa tây, nào là giống ngựa mông cổ này năm xưa dày xéo cả Âu á này nọ các kiểu…, ai cũng thành chuyên gia ngựa học, nhưng ít ra có 1 điểm là ai cũng đồng tình và ủng hộ về chức năng nhiệm vụ của đội kỵ binh là dùng để giải tán đám đông, và hành quân vùng biên giới địa hình khó khăn.

Khi đi tuần tra ở những khu vực biên giới, rừng rậm thì kị binh ngồi trên ngựa thì quan sát đám đông tốt hơn, có thể sớm phát hiện những nguy hiểm để có thể chủ động trong mọi trường hợp. Hành quân tuần tra biên giới ngoài thồ hàng ra còn có chức năng cảnh giới như Chó nghiệp vụ. Tại sao chọn ngựa Mông Cổ vì bản thân loại này sức khỏe dẻo dai, ăn ít hơn so với loại ngựa to lớn phương tây. Phù hợp với khí hậu Việt Nam. Trọng lượng khoảng 190 đến 250 kg thân hình với chiều cao trung bình leo núi tốt hơn các loại ngựa to lớn.

Thông tin đầy trên mạng nhưng các bạn tiktoker vừa update thông tin chậm, lại còn hơi mù thông tin về tác dụng của kỵ binh, đã thế còn thích chửi đổng, đúng gọi tik tok là ổ rác cũng chẳng sai./.

NGHỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA NGƯỜI LÍNH CANH BIỂN!

 

    Hôm nay tôi gọi điện nói chuyện với một đồng đội ngoài nhà giàn DK 1. Câu chuyện không quá dài, chỉ xoay quanh những tâm sự của người lính đã có gần… 30 năm lênh đênh cùng những chuồng chim câu trên biển. Anh bảo, chỉ còn mấy ngày nữa là tròn 1 năm trời liên tục anh chưa vào đất liền. Và tháng 3 sang năm là anh tròn 35 năm nhập ngũ, tháng 10 là anh về nghỉ hưu rồi. Tôi hỏi anh có tâm tư gì không thì anh chỉ cười, cũng chẳng biết tâm tư gì nữa chú G ạ, cuộc đời quân ngũ của anh đến nay hơn 10 nghìn ngày ở ngoài biển rồi... Tôi nói bây giờ anh sợ nhất điều gì? Anh bảo, nói thật với chú G là anh nhập ngũ năm 1988, ra DK từ năm 1993, ngày ấy nhà giàn còn “kém” lắm chưa được hiện đại, vững chãi như bây giờ. Tàu ra tiếp tế cũng ít, nước ngọt khan hiếm, sóng điện thoại không có, nhiều lần hứng bão tưởng nói lời… vĩnh biệt mà đến giờ vẫn sống. Đã có những anh em đồng đội hy sinh cùng nhà giàn nằm lại biển khơi. Nên nói chung bây giờ sóng gió, hiểm nguy anh không sợ nữa, chỉ sợ gia đình mình ở xa bất ổn, có vấn đề gì thôi.
Lấy vợ 24 năm thì vợ chồng ở với nhau chưa đầy 4 năm. Ở nhà một mình chị gồng gánh, toan lo mọi việc. Những cơn bão trên bờ đôi khi còn kinh khủng hơn ngoài khơi xa. Hồi năm 2014 anh về phép, cậu con trai thứ 2 bị xuất huyết não hôn mê sâu, anh bế con vào viện mà còn chẳng biết trình bày ra sao với bác sĩ. Con anh nằm thực vật cả tháng trời ở BV Nhi trung ương. Hết phép anh lại xách ba lô ra biển. Đứng nhìn con nằm bất động trên giường bệnh, anh chỉ biết đặt cạnh đầu giường nó một cái vỏ ốc rồi… đi. Chị chạy ngược chạy xuôi suốt 3 năm trời tìm thầy thuốc chữa trị, thế rồi nó tỉnh lại như một phép màu.
Lần này anh cứ nói đi nói lại với tôi về chuyện thằng con trai lớn của anh vừa tốt nghiệp chuyên ngành Cơ điện tử - của Đại học Giao thông Vận tải mà vẫn lông bông lang bang. Rằng, thôi trăm sự nhờ chú G, anh đi xa, ở quê chị cũng chỉ làm giáo viên chẳng có mối quan hệ nào, chú xem có chỗ nào giới thiệu cho cháu nó đi học việc, đi làm để ổn định. Có lẽ một trong những thiệt thòi nhất của anh chính là không có thời gian ở bên con. Hai lần chị sinh và phần lớn thời gian nuôi dạy con, anh đều vắng nhà. Đôi ba năm được nghỉ phép về, anh bảo con ngồi xuống đây nói chuyện với bố mà… khó quá. Những đứa con trai lớn lên không có bố ở gần, chúng sẽ có những tâm lý khác biệt nhất định và chẳng phải đứa nào cũng sẽ đủ thấu hiểu và thương bố chúng đã chọn một cái nghề nhiều hy sinh như vậy: Nghề bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là người mẹ, người chọn lấy bố của bọn trẻ, họ càng đáng trân trọng và sẻ chia hơn bội phần vì đã chấp nhận sống một cuộc đời dũng cảm như thế. Câu chuyện có vẻ chùng xuống, tôi đùa anh một câu, bây giờ cho anh chọn lại, anh có chọn đi bộ đội không? Anh khẽ lấy hơi qua điện thoại rồi trả lời chắc nịch: Vẫn chọn chú ạ !
Mới hôm trước tôi về một vùng quê trung du Bắc Bộ, buổi trưa nhậu gặp một anh bạn Thượng tá ở đơn vị chủ lực xa nhà về tranh thủ. Cữ rượu ngà ngà, có người trong mâm vỗ vai anh Thượng tá rồi cười khà khà nói, đấy cứ như ông là sướng, chẳng phải ở gần vợ con, lâu lâu mới về nhà một lần, đến lúc nghỉ hưu lương mười mấy triệu đồng, yên tâm quá còn gì. Anh Thượng tá chẳng nói gì, mắt đỏ hoe nhìn ra sân rồi đưa tay dốc cạn ly rượu thuốc đỏ quạch như màu máu. Còn tôi chỉ trộm nghĩ, có lẽ ai đi bộ đội rồi mới hiểu, những so sánh và tính toán đó là vô lý đến thế nào. Bởi đơn giản:
Mức lương nào trả cho đủ cho hàng chục năm trời xa gia đình, người thân?
Mức lương nào trả đủ cho những chuệch choạc của cuộc đời khi vợ dại, con hư…?
Mức lương nào trả đủ cho toàn bộ tuổi trẻ hầu như không thể làm việc gì khác ?
Mức lương nào để họ sẵn sàng làm những công việc khó khăn nhất, thậm chí chấp nhận cả hy sinh?
Chẳng có cái giá nào cả ngoài sự lựa chọn của họ - những người lính !
ps: Nhà gián DK1 thế hệ đầu tiên.
ST
Có thể là hình ảnh về ngoài trời

Vì sao chúng chống phá kinh thế?

 Không phải đến dự án Khu công nghiệp WHA, Nguyễn Đình Thục (hiện quản giáo xứ Lộc Mỹ) mới bộc lộ bản chất chống đối, cố tình cản trở dự án kinh tế. Từ Con Cuông 2012, đến huyện Quỳnh Lưu 2017 và nay ngay tại nơi chính quê hương của Thục - xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Thục tiếp tục thể hiện rõ thái độ chống đối, đẩy giáo dân đối đầu với chính quyền.

Học bao năm để được làm Linh mục, Nguyễn Đình Thục chắc chắn hiểu rõ lợi ích nếu dự án kinh tế được triển khai tại quê hương? Và cũng hiểu nếu chống phá chính quyền thì không ai thiệt hại nhiều hơn con chiên của hắn! Thế nhưng, bằng cách này cách khác, hắn làm mọi thứ để kích động giáo dân, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân?

Nguyên nhân từ đâu, ngoài chữ "TIỀN" chi phối?. Một cha xứ không làm gì ngoài giảng đạo nhưng lại nhà lầu, xe hơi, đi đây đi đó, chụp ảnh ăn uống linh đình với đám khủng bố Việt Tân liên tục?

Bà con giáo dân, những người đang bị xúi giục bởi Nguyễn Đình Thục sẽ được hưởng gì khi nghe theo hắn, phản đối dự án Khu công nghiệp WHA? Hàng ngàn lao động mất đi cơ hội việc làm, phải tha hương cầu thực nếu muốn mưu sinh cuộc sống. Chắc chắn đó không phải mong muốn của những giáo dân xứ Bình Thuận, chỉ là họ bị che mắt bởi tên cha đạo biến chất, đã sớm cấu kết với phản động chống phá đất nước.

Giáo dân xứ Bình Thuận hãy nhìn những gì mà Linh mục Thục để lại cho bà con giáo dân tại Con Cuông, Quỳnh Lưu để làm bài học cho chính mình. Đó là sự bất ổn, mâu thuẫn nội bộ và không ít người đã bị pháp luật trừng trị thích đáng vì lỡ lầm đường lạc bước.

Cuối cùng, qua vài ba năm, Thục lại chuyển xứ đi nơi khác, còn số con chiên đi theo hắn - kẻ tù, người tội, không biết bao giờ hết cảnh này nếu không chịu tỉnh ngộ./.

Niềm tin chính trị là nguồn sức mạnh, động lực để giữ vững chính quyền, đánh bại kẻ thù xâm lược

Niềm tin chính trị là yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động chính trị. Niềm tin chính trị được hình thành và củng cố dựa trên cơ sở tri thức khoa học cùng với tình cảm và lý tưởng chính trị. Nhận thức khoa học càng sâu sắc thì niềm tin chính trị càng vững chắc, khi đó, niềm tin chính trị sẽ là nhân tố cốt lõi để đảm bảo sự ổn định về tư tưởng chính trị, giúp cho con người giữ được sự kiên định, không hoang mang, dao động trước những khó khăn, thử thách ngay cả khi đời sống chính trị thuận lợi hay có nhiều biến động. Như trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định những diễn biến, kết quả mà nhân dân ta sẽ giành được trong tương lai: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn... Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà...”. Niềm tin chính trị theo Hồ Chí Minh dựa trên những cơ sở đó là: - Thứ nhất, bắt nguồn từ niềm tin vào sức mạnh to lớn, vô địch của nhân dân và truyền thống yêu nước của dân tộc. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Đó là truyền thống của dân tộc, cội nguồn tạo nên niềm tin Hồ Chí Minh. Với nền tảng vững chắc của niềm tin chính trị như vậy nên trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù thử thách cam go đến đâu, Bác vẫn tin rằng nhân dân là người chiến thắng, cách mạng cuối cùng sẽ thắng lợi vì có sức mạnh vô địch của nhân dân, truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc. - Thứ hai, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Nhân dân Việt Nam. - Thứ ba, tin vào tính tất yếu của thắng lợi chính nghĩa và sự thất bại không thể tránh khỏi của của chiến tranh xâm lược phi nghĩa, trái đạo lý, phản nhân văn mà đế quốc Mỹ gây ra. Trong cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam bảo vệ nền độc lập dân tộc, Người nêu chân lý nổi tiếng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân là mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam và cũng là lẽ sống thiêng liêng nhất của Người: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh là khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam, đã thực sự trở thành lời hiệu triệu, thành mệnh lệnh của trái tim mỗi người dân; là nguồn sức mạnh, động lực của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền, đánh bại kẻ thù xâm lược. - Thứ tư, nhãn quan chính trị nhạy bén, sắc sảo và tầm nhìn xa trông rộng của Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng để Người tin tưởng vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập của dân tộc. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn chưa kết thúc, Người đã nhận định: “Sớm hay muộn, Mỹ sẽ trực tiếp tham dự vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương… Mỹ đang tìm cách thay thế Pháp xâm lược Việt Nam”. Sau thắng lợi ở Điện Biên Phủ (7-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chiến thắng Pháp rồi, phải nhớ trước mặt ta còn có kẻ địch hùng mạnh hơn, hung ác hơn, đó là đế quốc Mỹ". Có thể thấy, niềm tin Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở vững chắc của lý luận khoa học Mác- Lênin, sự am hiểu văn hóa dân tộc, vốn kiến thức uyên thâm về lịch sử cũng những trải nghiệm phong phú trong trong quá trình hoạt động cách mạng và lòng yêu nước cháy bỏng đã giúp Người nắm bắt được quy luật vận động của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại, vạch ra các bước đi của cách mạng, nhờ đó đưa đất nước vượt qua những thách thức. Niềm tin ấy là kết quả của quá trình tích lũy thông tin, phân tích sự kiện trong nước và thế giới, tổng kết lịch sử và thực tiễn, khái quát quy luật vận động của hiện thực, rồi vận dụng để phán đoán diễn biến, xu hướng phát triển. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến còn nhiều gian khổ, hy sinh, chính niềm tin chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản Di chúc có ý nghĩa hết sức to lớn. Đó là trụ cột tinh thần, là nguồn cổ vũ, động viên vững chắc cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng quyết đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc, đi đến thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và thắng lợi trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945: THỜI CƠ VÀ NHỮNG QUYẾT SÁCH LỊCH SỬ!


77 năm qua, kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tinh thần bất diệt của những ngày tháng Tám lịch sử vẫn luôn cổ vũ, động viên mỗi người dân đất Việt vững tin vào sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của Nhân dân ta từ khi có Đảng, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Lịch sử đã chứng minh, thành công đó có được là nhờ một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng và tổ chức lực lượng; phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Những ngày tháng Tám lịch sử...
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo Nhân dân tham gia; từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra những thời cơ chín muồi để đưa Cách mạng đến thành công. Bàn về thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không thể không nhắc đến bài học về vấn đề nắm bắt thời cơ, đề ra những quyết sách chính xác và kịp thời của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời điểm đó, tình hình chính trị vô cùng phức tạp, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp (09/3/1945). Việc nắm bắt thời cơ được thể hiện ngay khi Đảng đưa ra những dự báo về tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Ngày 12/3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trong đó phân tích: "Mặc dù tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương chưa thực sự chín muồi" và dự báo "ba cơ hội tốt" "sẽ giúp cho những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương chín muồi một cách mau chóng và một cao trào cách mạng nổi dậy: Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng); Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước); Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật)".
Từ tháng 3 đến tháng 8/1945, Đảng ta tiếp tục đề ra nhiều chủ trương nhằm chuyển hướng đấu tranh cách mạng, củng cố lực lượng như: thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân (tháng 4/1945)[3]; ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước. Tại đây, Người đã có Thư kêu gọi khởi nghĩa, ban hành Mệnh lệnh khởi nghĩa, công bố Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa)… Thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền như Đảng ta dự báo đã đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh với quyết tâm và tấm lòng khao khát giành độc lập dân tộc đã khẳng định: “Lúc này, thời cơ thắng lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Ngay khi nhận được tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện (ngày 15/8/1945), Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) (tháng 8/1945) quyết định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phátxít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
Có thể khẳng định, thời cơ của Cách mạng Tháng Tám chỉ tồn tại trong một thời gian rắt ngắn - từ sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Trong tình thế ngặt nghèo, Đảng ta đã hết sức khôn khéo, linh hoạt đẩy lùi nguy cơ để tạo ra thời cơ thuận lợi. Theo phân tích của nhiều chuyên gia, nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật chưa đầu hàng, ta sẽ gặp sự kháng cự quyết liệt, có thể tổn thất lớn và khó giành thắng lợi, chính quyền cách mạng chưa thể thành lập trong toàn quốc. Còn nếu để muộn hơn, khi Đồng minh đã vào Đông Dương, tình hình trở nên “vô cùng nguy hiểm”.
Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của Nhân dân ta được nhân lên gấp bội: từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra giành thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và Bắc Kạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945 (từ 13 đến 28/8/1945), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 25 triệu đồng bào ta, với tinh thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta" đã nhất tề vùng lên giành chính quyền, tổng khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”
Nguồn ĐCSVN

Sao cứ cố tình phủ nhận thành quả dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

 Thành quả và quan điểm của Việt Nam về dân chủ, nhân quyền là rất rõ ràng, đúng đắn. Thế nhưng trên một số trang mạng vẫn có những cá nhân, tổ chức tán phát bài viết xuyên tạc, bác bỏ, cố tình phủ nhận những thực tế về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Họ phủ nhận tất cả, từ những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay.

          Sử dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, không ít cá nhân cả ở trong và ngoài nước cũng rêu rao, tự xưng là những người có “sứ mệnh” đấu tranh cho sự phát triển của đất nước, “trung thành” với Tổ quốc, chấp nhận “dấn thân” vì “dân chủ, nhân quyền”. Không khó để nhận ra bộ mặt thật của những “nhà dân chủ” và quan điểm chính trị của những cá nhân này, khi mà họ thường xuyên đăng tải lên mạng xã hội những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam; đặc biệt là thêu dệt, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền nhằm mục đích chống phá chế độ, chống phá Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ta.

          Những phương thức cụ thể mà các thế lực thù địch, phản động vẫn thường sử dụng là: lợi dụng danh nghĩa dân chủ, nhân quyền để rồi tiến hành thực hiện các “đòn” chiến tranh tâm lý, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội và những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân để lôi kéo, kích động gây bất ổn ở cơ sở; tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân thông qua những chiêu trò như “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; thực hiện hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia hội, nhóm, diễn đàn, hội thảo,…; kích động những người bất mãn với chế độ; xuyên tạc lịch sử; lợi dụng một số sai phạm của cá nhân cán bộ, đảng viên để “đánh đồng”, “quy thành bản chất”, bôi nhọ , nói xấu cấp ủy, chính quyền các cấp... Bên cạnh đó, chúng còn thường xuyên đăng tải và phát tán trên mạng Internet những  thông tin sai trái, dựng chuyện hoặc “có ít xít ra nhiều” một số vấn đề xã hội; “tận dụng triệt để” những bức xúc trong đời sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để “thổi phồng”… nhằm tạo sự hoài nghi trong xã hội, làm giảm sút ý chí, từng bước hạ thấp rồi làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.

          Chúng ta cần nhận thức rõ ràng rằng, chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chỉ là một trong những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã và đang áp dụng hòng mong muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, hai trong nhiều vấn đề then chốt mà các học thuyết “dân chủ, nhân quyền” kiểu phương Tây cho rằng “cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và xóa bỏ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản.

Đi lên Chủ nghĩa xã hội là ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

 Ước mơ, khát vọng ngàn đời của người Việt Nam là: Tổ quốc độc lập, hòa bình, thống nhất, phát triển, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đi lên Chủ nghĩa xã hội chính là con đường thoả mãn những ước mơ, khao khát chính đáng đó của mỗi người dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và mãi mãi về sau.

 

          Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”, “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”.

          Trong giai đoạn hiện nay, ý chí, khát vọng của người dân Việt Nam vẫn là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng, phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các nước trên thế giới, có vị thế xứng đáng trên bản đồ thế giới, có trách nhiệm cao trong giải quyết các vấn đề toàn cầu trên tinh thần tôn trọng, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thành công rất tốt đẹp ở nhiều phương diện, trong đó có sự quan tâm, đóng góp, ủng hộ của toàn xã hội.

          Các mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp đến năm 2025, 2030, 2045 mà Văn kiện Đại hội xác định nhận được sự đánh giá cao và đồng tình của người dân. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 được dư luận đánh giá cao, đặc biệt là sự tham gia trên 99% của cử tri, có nơi đạt 100% cử tri đi bầu. Các đại biểu trúng cử cơ bản tập trung, đúng người có tài, có đức, số phiếu tín nhiệm rất cao. Trong cuộc chiến chống “giặc” COVID-19, cả thế giới đều ghi nhận nước ta là số ít quốc gia kiểm soát và chống dịch hiệu quả nhất, trong đó có sự ủng hộ, đồng tình tuyệt đối, tham gia của các cấp, các ngành và toàn dân...

          Thực tế đó đã chứng minh, người dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vào con đường đi lên CNXH- con đường mà Đảng, Bác Hồ, các thế hệ cha anh đã lựa chọn và đổ biết bao mồ hôi xương máu mới giành được. Đi lên CNXHvẫn là ý chí, nguyện vọng của người dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch về xuyên tạc đường lối Quốc phòng toàn dân

 Mục đích xuyên suốt của các thế lực thù địch là xuyên tạc, phủ nhận bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; phủ nhận tính chất “tự vệ chân chính” trong đường lối QPTD của Đảng ta; hướng lái Việt Nam theo quỹ đạo của chính sách quốc phòng tư sản. 

          Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD trước hết xuất phát từ các thế lực thù địch, phản động nước ngoài. Chúng vừa trực tiếp tấn công, xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD bằng các cơ quan, tổ chức của mình, vừa gián tiếp nuôi dưỡng, ủng hộ, bảo kê các tổ chức, cá nhân phản động ở trong và ngoài nước. Tiếp theo là các tổ chức, cá nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài, chủ yếu là số ngụy quân, ngụy quyền. Chúng vừa tập hợp lực lượng, sử dụng chiêu bài tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD; vừa móc nối, kích động các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước cản trở, phá hoại các dự án kinh tế kết hợp quốc phòng. Thứ ba là đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị ở trong nước với bản chất “gió chiều nào xoay chiều ấy”, khi cách mạng gặp khó khăn, thử thách, họ quay sang chống Đảng và xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD.

          Nội dung các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD thể hiện ở nhiều khía cạnh, màu sắc, tính chất, mức độ khác nhau. Chúng cho rằng, Đảng ta tuyệt đối hóa vị trí, vai trò nền QPTD và mâu thuẫn trong chính nhận thức của mình. Chúng đã viện dẫn Văn kiện Đại hội VIII trước đây: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”. Bên cạnh đó, chúng cắt cúp nhận định về xu thế trong quan hệ quốc tế theo Văn kiện Đại hội XIII: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn” là không phù hợp, cho nên không cần khẳng định vị trí của QPTD nữa. Chúng xuyên tạc, phủ nhận các đặc trưng cơ bản nền QPTD, coi chủ trương xây dựng nền QPTD của Việt Nam là “đe dọa hòa bình các nước trong khu vực”. Ở thái cực khác, chúng “khuyên” Việt Nam từ bỏ “4 không” trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam. Chúng phủ nhận nền QPTD ở nước ta “không phải vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành”, “không đếm xỉa đến lợi ích chung của dân tộc”, mà “vì lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam”.

          Mục đích thâm độc cuối cùng của chúng là phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhân dân ta mà thôi.

Đảng cộng sản Việt Nam - linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

 Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát: “... phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chỉ có thể được hiện thực hóa bằng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, Đảng ta xác định: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”. Đây là cơ sở để nhận thức và giải quyết tốt vấn đề có tính nguyên tắc của phát triển và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.

          Thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, trong thời gian qua chúng ta đã thấu triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tuyên truyền, tăng cường đồng thuận của các tầng lớp nhân dân với đường lối lãnh đạo của Đảng. Thường xuyên nắm chắc, dự báo đúng, xử lý chính xác các vấn đề về tư tưởng, mâu thuẫn, bức xúc xã hội hiện nay. Tích cực, chủ động thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm sáng tỏ chủ trương, chính sách, thành tựu đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta. Coi trọng tuyên truyền, giáo dục, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc làm nền tảng tinh thần vững chắc của khối đại đoàn kết trong giai đoạn mới. Không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác, thường xuyên nhận diện, đấu tranh hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch, phản động. Có các giải pháp, biện pháp mạnh, nâng cao hiệu quả đấu tranh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trên không gian mạng-mặt trận nóng bỏng hiện nay. Chủ động, nhạy bén, sắc sảo phát hiện, vạch trần bản chất phản động, mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động; giành giữ, bồi đắp tình cảm cách mạng, niềm tin của toàn thể nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng đất nước.

          Đảng ta là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ và phát huy sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết, phải phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam

 Ở Việt Nam, đoàn kết là truyền thống quý báu và giá trị văn hóa cốt lõi; là sức mạnh vô địch trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng thiên tai, địch họa, định bờ cõi, xưng nền văn hiến, nêu cao độc lập, tự chủ. Đây là sức mạnh nội sinh có tính chủ đạo xuyên suốt, bền vững của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”. Đó là chân lý về sức mạnh vô địch của đoàn kết và phát triển truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

          Từ thời Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, đoàn kết đã là cội nguồn sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm lược và gốc của đoàn kết là chăm lo, gìn giữ sức dân: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, giặc tự bị bắt... Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy". Sức mạnh của nhân dân khi kết thành một khối là sức mạnh vô địch. Đó là chân lý được Nguyễn Trãi khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, sức dân như nước”. Tư tưởng này là nền tảng quan trọng hội tụ đại đoàn kết toàn dân của Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đập tan ách đô hộ tàn bạo 20 năm của giặc Minh. Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi viết: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

          Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp và phát huy sức mạnh đoàn kết vô địch của toàn dân. Những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài học lớn chính là mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lợi ích của dân tộc, nhân dân và Tổ quốc Việt Nam. Sự đoàn kết trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

          Tình hình thế giới hiện nay luôn có sự cạnh tranh gay gắt, kiềm chế lẫn nhau giữa các cường quốc. Xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bất ổn chính trị ở nhiều nơi và hiện tại, tình hình chiến sự tại Ukraine đang diễn biến phức tạp... phản ánh rõ nét sự can dự, cạnh tranh của các nước lớn và sự chia rẽ, mâu thuẫn, phân hóa từ bên trong. Do vậy, phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng chính là bảo vệ hòa bình và phát triển bền vững đất nước ta trong “những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo” của thế giới đương đại.


Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của đất nước

 Thực tiễn lịch sử 92 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho thấy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân tin tưởng giao phó trọng trách trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó không phải là do mong muốn chủ quan của Đảng, mà chính là sự giao phó của lịch sử, của cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa chọn một cách đúng đắn.

          Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong thế kỷ 20, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành được những thắng lợi vĩ đại. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH. Đặc biệt, sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, quy mô nền kinh tế tăng từ 26,88 tỷ USD năm 1986 lên 271,2 tỷ USD năm 2020; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 182USD năm 1990 lên 2.779USD năm 2020. Sau 25 năm (1995-2020), Việt Nam đã làm được kỳ tích, đưa nền kinh tế tăng gấp 10 lần cả về quy mô và thu nhập bình quân trên đầu người, tăng 21 hạng về quy mô nền kinh tế và tăng 54 hạng về thu nhập đầu người trên bảng xếp hạng các quốc gia.

          Như vậy, luận điệu của các thế lực thù địch, phản động cho rằng, đa đảng thì có dân chủ và một đảng thì mất dân chủ, thực ra là một trò “lập lờ đánh lận con đen” nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Đề cập đến vấn đề này, trả lời câu hỏi của phóng viên báo Express Ấn Độ về việc liệu đã đến lúc chín muồi để Việt Nam có một hệ thống đa đảng, hoặc có các đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam để có thể tính tới các quan điểm của nhiều nhóm sắc tộc, nhiều dân tộc khác nhau, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ kinh tế thị trường thì phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ.

Vị thế, vai trò của Việt Nam

 Ngày 7 tháng 6 năm 2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc đồng thuận bầu Việt Nam trở thành một trong những Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 đại diện cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương với nhiệm kỳ một năm. Điều này tiếp tục khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam trên trường quốc tế.

          Một trong những yếu tố quan trọng làm nên vị thế quốc gia của Việt Nam chính là sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Ngày 26/5/2022, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings (một trong ba cơ quan xếp hạng tín dụng lớn và uy tín nhất thế giới) đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ với triển vọng “ổn định”. Trong bảng đánh giá mới nhất của tổ chức này, Việt Nam là nước duy nhất trong khối ASEAN được nâng hạng trong năm 2022. 

          Trước đó, hai tổ chức quốc tế hàng đầu về xếp hạng tín nhiệm khác là Fitch Ratings và Moodys cũng đưa ra những đánh giá tương đồng. Cần nhấn mạnh rằng, để được nâng hạng tín nhiệm và triển vọng, các quốc gia và tổ chức tài chính phải trải qua những đợt khảo sát, đánh giá gắt gao dựa trên các tiêu chí quan trọng như: thu nhập bình quân đầu người, sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, thành tựu công bằng xã hội, tài chính công,… Đổi lại, những xếp hạng của ba tổ chức này là chứng nhận cho “sức mạnh” của một nền kinh tế, là số liệu tin cậy để các nhà đầu tư, kinh doanh tham khảo. 

          Thành tích nêu trên thực sự đáng khích lệ, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã và tiếp tục phải đối mặt với ảnh hưởng tiêu cực kéo dài của đại dịch COVID-19. Như thời điểm năm 2021, không ít địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội dẫn đến hệ quả là hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại trong nước bị đình đốn. Theo số liệu của Cục Đăng ký kinh doanh, có đến gần 120.000 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2021, tăng 17,8% so với năm 2020. Kéo theo đó là số người lao động thiếu việc làm cũng tăng cao, đặc biệt là tại khu vực thành thị. Sau nhiều năm liên tục phát triển với tốc độ ổn định, nền kinh tế Việt Nam phải nhận mức tăng trưởng âm vào quý III/2021. 

          Có được những thành tích to lớn đó chính là do Việt Nam có Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhân dân cả nước đồng lòng, trên nền tảng tư tưởng vững chắc đó là Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng hướng tới mục tiêu đi lên Chủ nghĩa xã hội tươi đẹp.

Không thể có “đa nguyên, đa đảng” ở Việt Nam hiện nay

 Nhằm mục tiêu chống phá con đường phát triển của nước ta, các thế lực thù địch luôn không ngừng tìm mọi thủ đoạn thâm độc để đạt được mục đích của chúng. Một trong những thủ đoạn đen tối đó là luận điệu đòi "đa nguyên, đa đảng". Các thế lực thù địch, phản động cho rằng, đa đảng thì có dân chủ và một đảng thì mất dân chủ, thực ra là một trò “lập lờ đánh lận con đen” nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam.

          Từ bên ngoài, các thế lực thù địch sử dụng một khối lượng khổng lồ các phương tiện thông tin, truyền thông, nhất là sử dụng các trang mạng xã hội để thực hiện các chiến dịch chống phá tư tưởng quy mô lớn đối với Việt Nam. Các thế lực thù địch đưa ra luận điệu: Các cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng chứng tỏ sự “chuyên quyền”, “độc đoán”, “đảng trị”. Chúng đổ lỗi cho Đảng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế của đất nước so với những nước trong khu vực; từ đó, chúng cho rằng, trong thời đại ngày nay, nếu tiếp tục đi theo con đường XHCN là sai lầm. Chúng “khuyên” chúng ta đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”, xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 về hiến định quyền lãnh đạo của Đảng, vì chúng cho rằng “đa nguyên, đa đảng sẽ khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt hơn cho sự phát triển của xã hội”.

          Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm và thâm độc vì họ cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Với những người có nhận thức chính trị không vững vàng có thể dễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó, cổ xúy cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Như vậy, luận điệu “muốn thực sự dân chủ và phát triển”, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thực chất là đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải “từ bỏ vị thế lãnh đạo”, “chuyển đổi thể chế chính trị”, với mục tiêu thâm độc là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện “đa nguyên chính trị”, chuyển hóa chế độ XHCN sang các chế độ xã hội khác.

          Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang nhất trong lịch sử. Không thể có một đảng nào có đủ bản lĩnh hơn Đảng Cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Càng không thể có "đa nguyên, đa đảng" ở Việt Nam hiện nay.

Sức sống trường tồn của Chủ nghĩa Mác

 Dù đã ra đời cách đây gần 200 năm nhưng những quan điểm của chủ nghĩa Mác vẫn có sức sống bền vững và giá trị trường tồn. Sức sống của chủ nghĩa Mác được thể hiện ở chỗ nó đã giải đáp những vấn đề mà tư tưởng tiến tiến của loài người đặt ra, soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại. Đó là nhiệm vụ giải phóng con người khói mọi hình thức áp bức, bóc lột, khỏi mọi sự tha hóa. Mặc dù ngay từ khi mới ra đời và trong giai đoạn hiện nay, vẫn luôn có nhiều quan điểm phê phán, xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác nhưng cho đến ngày nay, đó vẫn là một học thuyết khoa học và cách mạng duy nhất đáp ứng mọi nhiệm vụ của lịch sử mà không một học thuyết nào có thể thay thế được.

          Ngày nay, sức sống của chủ nghĩa Mác còn tiếp tục được thể hiện ở chỗ dù đời sống thực tiễn của xã hội hiện đại đã vận động, phát triển qua rất nhiều giai đoạn khác nhau với những khúc quanh co, thăng trầm song cũng không vượt ra ngoài những quy luật phổ biến được được trình bày trong học thuyết Mác dù người ta có thừa nhận hay không thừa nhận điều đó.

          Trong tình hình hiện nay, chính từ các quốc gia tư bản phương Tây, người ta lại thấy có những tiếng nói về những giá trị của chủ nghĩa Mác, của học thuyết kinh tế Mác, về phong trào “trở về với Mác”, tìm đọc Mác. Đặc biệt, ở những thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009, trong khủng khoảng nợ công và suy thoái kinh tế ở nhiều quốc gia tư bản phát triển, phong trào “trở về với C.Mác”, tìm đọc C.Mác lại trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết. Những tác phẩm kinh điển của C.Mác vẫn được tìm đọc nhiều nhất, đặc biệt là bộ “Tư bản” của C.Mác vẫn xếp số 1 trên thế giới và được dịch ra 134 ngôn ngữ ở 63 nước.

          Không thể cố nói bừa rằng, chủ nghĩa Mác là học thuyết “ảo tưởng”, đã “lạc hậu, lỗi thời” khi chính học thuyết này đã tạo nên những hiện thực làm biến đổi thế giới, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử loài người và có sức lôi cuốn cũng như tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn nhân loại.

          Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, một mặt chúng ta phải luôn kiên định, vững vàng với những nguyên lý cho tính chất nền tảng của chủ nghĩa Mác, mặt khác cũng phải không ngừng bổ sung, phát triển những quan điểm của học thuyết này cho phù hợp với thực tiễn. Việc bổ sung, phát triển đó không phải là “xét lại” chủ nghĩa Mác; cũng không phải là làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa Mác mà là làm cho những nội dung, quan điểm của học thuyết Mác được có thêm sức sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Đó là một việc làm hết sức khó khăn đòi hỏi những người mácxít phải kiên trì, có bản lĩnh và có trách nhiệm với hệ thống lý luận khoa học và cách mạng được coi là nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay./.