Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

 

 NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ TỰ DO TÔN GIÁO 

 

Một số người Việt chống cộng ở hải ngoại có quan điểm chống đối chính quyền Việt Nam, đã dựa vào chính sách chung của chính quyền Mỹ, rất coi trọng các quyền tự do, mà trong đó, quyền tự do tôn giáo gần như được xem là hàng đầu, để từ đó tạo những ảnh hưởng, tác động vào các sinh hoạt chính trị trong cộng đồng người Việt Nam. Năm 1988, khi đặt chân lên đất Thái Lan, ngay trong trại tị nạn dành cho người vượt biên, tôi đã rất ngạc nhiên vì trong môi trường đầy khó khăn, thiếu thốn và hoang mang vì tương lai bấp bênh, vô định, thế nhưng các hoạt động về tôn giáo đã diễn ra sôi nổi mang đầy màu sắc chính trị.

 

Các Ban trị sự, Hội đồng liên tôn các tôn giáo đã tập hợp các tín hữu, con chiên, đạo hữu của mình thành những đoàn thể để hoạt động không thuần túy về tôn giáo, mà còn nhằm xuyên tạc, chỉ trích chính quyền Việt Nam. Nhiều tài liệu, sách báo, thông tin từ hải ngoại được ấn hành, đưa vào trại tị nạn phát tặng miễn phí, kích động chống Việt Nam như báo Đường Sống (Mỹ), báo Quê Mẹ (Pháp) hay các tổ chức như BPSOS (Boat people SOS - Ủy ban cứu trợ người vượt biển).

 

Khi định cư ở Mỹ từ tháng 2/1991, tôi nhận thấy nhiều cơ sở tôn giáo được mở mang, phát triển và hoạt động rất năng động. Nhiều nhà thờ, nhà chùa mới được thành lập từ những vận động, đóng góp chủ yếu từ các cá nhân. Gắn liền với những kỷ niệm từ quê nhà, không ít nhà thờ, ngôi chùa lấy tên trùng với những nơi thờ tự quen thuộc như Giáo xứ Tân Sa Châu, Giáo xứ Tân Bùi Chu, Phát Diệm, Chùa Dược Sư, Chùa Vĩnh Nghiêm… Chính những cơ sở tôn giáo này cũng tự biến thành nơi hội họp, sinh hoạt chính trị vì các nhân sự, thậm chí các nhà lãnh đạo tôn giáo ở hải ngoại ít nhiều cũng nhuốm mùi chính trị cực đoan.

 

Ý niệm về “đấu tranh tôn giáo” với “đấu tranh cho dân chủ, tự do” đã trở thành phương tiện, là công cụ cho các cá nhân, tổ chức chống cộng cực đoan khai thác triệt để nhằm lợi dụng lòng tin của người dân còn mơ hồ, hay có định kiến với chính quyền Việt Nam. Các lãnh đạo cộng đồng, tổ chức chống cộng thường xuyên theo dõi các biến động xã hội trong nước không ngừng biến các hiện tượng được chú ý thành các “vấn đề tôn giáo” nghiêm trọng. Thí dụ, vụ án của linh mục Nguyễn Văn Lý, ngày 30/3/2007, tại Thừa Thiên Huế, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Văn Lý và đồng bọn về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 1, điều 88 - Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại phiên tòa cho thấy thái độ bất hợp tác của ông Lý khi luôn tỏ ra chống đối, thậm chí đạp vào vành móng ngựa, hô hào, gây ồn ào. Ông Lý đã bị một nhân viên an ninh bịt miệng để giữ trật tự, và một bức ảnh ghi lại khoảnh khắc này đã được báo chí phương Tây, giới truyền thông chống cộng khai thác thành sự kiện “đàn áp, bịt miệng tự do tôn giáo”.

Khi sự kiện xảy ra, tôi và các đồng nghiệp của tuần báo Việt Weekly đã về Việt Nam, xin phép chính quyền về tận xã Thủy Biều, TP. Huế để tìm hiểu sự việc. Tại họ đạo Nguyệt Biều, đoàn báo chí từ hải ngoại của chúng tôi được tự do phỏng vấn các giáo dân tại địa phương về sinh hoạt tôn giáo tại đây. Các giáo dân kể chuyện cha Lý đã có công sửa đường, làm nhà vệ sinh công cộng, cấp con giống, cây trồng, mở lớp dạy máy tính, dạy ngoại ngữ miễn phí để đánh lừa, dụ dỗ niềm tin của một bộ phận giáo dân. Vụ án điển hình này cho thấy sự cấu kết của các tổ chức chính trị ở hải ngoại với các nhân vật chống đối đội lốt tôn giáo. Thông qua việc móc nối, vận động để xin tiền từ các tổ chức, cá nhân ở hải ngoại, ông Lý đã tham gia làm cố vấn vào “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam” năm 2000, kích động giáo dân ký đơn đòi đất vốn của Giáo hội Thiên Chúa giáo đã giao cho hợp tác xã quản lý từ năm 1975, gây mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền.

 

Đoàn phóng viên báo Việt Weekly cũng có mặt tại Hà Nội để tham dự buổi họp báo của Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là ông Michael Marine, khi được hỏi về bức hình “bịt miệng cha Lý” ở phiên tòa, ngài đại sứ cũng nêu rõ là hành động gây rối trật tự ở tòa án, nếu ở Mỹ cũng sẽ bị ngăn chặn bằng vũ lực. Tuy nhiên, theo góc nhìn của nhà ngoại giao Mỹ, thì chính quyền Việt Nam cũng cần phải có động thái trao cho các công dân của mình “không gian rộng rãi hơn để biểu đạt ý kiến của mình”.

 

Những vụ án mang màu sắc tôn giáo liên quan đến vấn đề tranh chấp đất hay bất động sản, qua quan sát của tôi, hầu hết đều có sự tác động của các thế lực chính trị hải ngoại kích động, xúi giục. Cái gọi là “Yểm trợ đấu tranh tôn giáo” ở hải ngoại được tiến hành rất bài bản. Họ tập hợp nhau tại các địa điểm công cộng như công viên, khu chợ, bãi đậu xe, trung tâm thương mại, nơi có đông đảo người dân gốc Việt sinh sống để tổ chức các buổi “thắp nến cầu nguyện” hay “tuyệt thực cho tự do, nhân quyền”. Các tổ chức chống cộng này cho rằng các vụ tranh chấp đất đai ở những địa phương có cộng đồng người Công giáo sinh sống nhằm mục tiêu “thu hẹp tài sản của Giáo hội Công giáo, chia cắt nơi cư trú của đồng bào giáo dân, hòng làm suy yếu sự phát triển của Công giáo nói riêng”. Đây là những luận điệu xuyên tạc vô cùng ngớ ngẩn. Vì quyền làm chủ đất đai nào là của người Công giáo? Chính quyền địa phương mỗi nơi đều có quy định theo pháp luật để tiến hành thay đổi môi trường sống, sự phát triển của đô thị theo nhu cầu thực tế. Thế nhưng việc chuyển đổi quỹ đất này đã bị thổi phồng thành những vụ án “đàn áp tôn giáo” gây nên nhiều ngộ nhận cho người ở hải ngoại thiếu thông tin về sự việc.

Mặt khác các đối tượng chống cộng luôn phao tin rằng, người Cộng sản là “vô thần,” người Cộng sản coi “tôn giáo là thuốc phiện”, một khi tôn giáo ở Việt Nam lớn mạnh, sẽ trở thành những lực lượng đối kháng có thể đè bẹp chế độ! Vì vậy chính quyền Cộng sản Việt Nam phải áp dụng các cách đàn áp tinh vi, làm suy yếu tôn giáo. Từ đây họ đã đánh vào tâm lý chung của những gia đình di cư năm 1954, các quan chức chế độ Việt Nam cộng hòa luôn có ánh nhìn hoài nghi về chính sách tôn giáo của chính quyền Việt Nam. Chính những cơ quan “truyền thông đen”, mang danh nghĩa là “truyền thông quốc tế” như BBC, RFA, VOA,.. mà nhân sự của các “đài Việt ngữ” phần lớn đều là những người làm truyền thông thiếu khách quan, thiếu thiện chí trong việc đưa tin, thổi phồng về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhiều phóng sự, hội luận của các kênh này luôn khai thác các nhân vật đối lập, hay “bất đồng chính kiến” để gây hoang mang cho người dân ở hải ngoại, bằng những thủ thuật kích động nhưng lại tỏ ra khách quan, đa chiều.

 

Đồng thời nhu cầu về tâm linh, thể hiện tình yêu nước đã nhuốm màu sắc chính trị với chiều hướng cực đoan. Ở vùng nam California, tôi đã từng ghi nhận, phỏng vấn nhiều tu sĩ, các cha, các nhà sư từ trong nước đi sang Mỹ theo diện thăm thân hay du lịch, nhưng khi tìm hiểu, đi sâu vào vấn đề, mới rõ là họ được một số cá nhân, hoặc tổ chức chính trị ở hải ngoại mời đi Mỹ để “gây quỹ từ thiện” hay “xin quyên góp xây dựng nhà thờ, xây chùa” ở Việt Nam. Mỗi buổi họp mặt này, những bài than khổ về sự khó khăn trong sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều được các vị nêu lên theo ánh nhìn thiếu thiện chí, gợi niềm thương cảm trong cộng đồng. Nếu không trực tiếp về Việt Nam để tìm hiểu rõ sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam, nhiều bà con ta cứ ngỡ ở Việt Nam không được đi lễ, không được đi chùa vì các cơ sở tôn giáo này do “Nhà nước quản lý”!

 

Điều đáng quan ngại hơn nữa, đó chính là sự hà hơi, tiếp tay của các vị “dân cử người Mỹ gốc Việt” trong các dịp tranh cử các vị trí như nghị viên thành phố, thị trưởng thành phố, nghị sĩ tiểu bang hay liên bang. Câu chuyện “đấu tranh cho tự do tôn giáo, quyền con người” tiếp tục được họ đưa ra để vận động tranh cử. Điển hình như các thành phố có đông người Việt cư trú như Westminster, Garden Grove, Fountain Valley, Santa Ana… (miền nam California), hay San Jose (miền bắc California), các chính trị gia đã tận dụng chiêu bài tranh cử không gì khác hơn là “chống cộng và đấu tranh cho tự do tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là những khẩu hiệu, chiêu bài dễ hô hào, dễ tạo sự quan tâm của cử tri.

 

Ngân sách tranh cử như chiếc bánh được chia chác nhau theo từng phần: Giới lãnh đạo cộng đồng chống cộng tổ chức biểu tình, kêu gọi cử tri ký thỉnh nguyện thư đòi quyền con người cho các nhà đối lập trong nước. Còn các cơ quan “truyền thông đen” thì được nhận phần quảng cáo cho những thông điệp chính trị sặc mùi mị dân như “đòi quyền tự do con người cho người dân Việt Nam”. Từ đây đã tạo thành một bộ máy tuyên truyền, xuyên tạc, một “kỹ nghệ chống cộng” mang tính vòng tròn khép kín để thỏa mãn lòng hận thù tồn tại từ trước, nhằm bào mòn tình cảm gắn bó của người dân trong và ngoài nước. Và trên hết, để vừa có danh, vừa có lợi, họ đã bất chấp sự công bằng, lẽ phải và quyền lợi tối thượng của dân tộc là sự ổn định xã hội để phát triển kinh tế, đưa đất nước từ nghèo khó sau chiến tranh, tiến lên một nước có nền hòa bình bền vững, ổn định lâu dài để phát triển.

 

Là người sống trong cộng đồng lâu năm, theo dõi những diễn biến chính trị và sinh hoạt cộng đồng một cách toàn diện, nên tôi đã nhận diện được rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, gây hoang mang chia rẽ tôn giáo của các tổ chức chống cộng lưu vong. Theo tôi, hành động của họ không vì bất cứ lòng trắc ẩn, tình đồng bào nào hết, ngoài việc tạo nên những cái “bánh vẽ” to tướng khiến một bộ phận người trong nước có tinh thần vọng ngoại hiểu sai lệch vấn đề về tự do tôn giáo, hay quyền con người. Cần phải hiểu rằng tự do của mỗi cá thể trong xã hội phải đặt dưới quy định của luật pháp, không thể tùy tiện nhân danh sự tự do để sinh hoạt tôn giáo mang tính chính trị, chống phá chế độ.

Nguồn Tuyên giáo TW

 

CHIÊU TRÒ XUYÊN TẠC CN-MLN VỀ QUYỀN SỞ HỮU

      Để thực hiện âm mưu phá hoại, các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu trò chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành quả cách mạng. Trong số đó, có chiêu trò xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền sở hữu. Chúng cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin "tước bỏ quyền chiếm hữu", do đó không bao giờ dẫn đến giầu có, thịnh vượng. Thực ra, cả lý luận và thực tiễn, cả logic và lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều bác bỏ những quan điểm nói trên.

          Về mặt tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin không dị ứng với giàu có, thịnh vượng như một số người xuyên tạc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rõ: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyên bố công khai mục đích của phong trào XHCN hiện đại là xây dựng xã hội mới giàu có, thịnh vượng cho đa số nhân dân chứ không phải một xã hội trong đó “sự áp bức và lao động kiệt sức đối với đa số, sự giàu có và hạnh phúc ấm no đối với một số ít người”. Theo Mác, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản  không tránh khỏi “người này giàu hơn người kia”…

          Từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng, giải pháp chiến lược để từng bước tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản chính là thực hiện Chính sách kinh tế mới. Đây là chính sách kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cho toàn bộ thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo đó, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn công nghiệp hiện đại. Người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình “bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”; phải “dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”; phải “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hằng ngày”...

          Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”; “Xã hội chủ nghĩa là ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no”. Điều mong muốn cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, Người cũng viết: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”

          Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là xã hội giàu có về mọi phương diện và giàu có cho số đông, hơn hẳn CNTB và là sự thay thế hợp quy luật đối với CNTB. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trương xóa áp bức, bóc lột, lạc hậu, bất công, nghèo khổ chứ không hề dị ứng với giàu có, thịnh vượng, không hề chủ trương “xóa giàu”như một

Chiêu trò xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền sở hữu

          Để thực hiện âm mưu phá hoại, các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu trò chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành quả cách mạng. Trong số đó, có chiêu trò xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền sở hữu. Chúng cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin "tước bỏ quyền chiếm hữu", do đó không bao giờ dẫn đến giầu có, thịnh vượng. Thực ra, cả lý luận và thực tiễn, cả logic và lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều bác bỏ những quan điểm nói trên.

          Về mặt tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin không dị ứng với giàu có, thịnh vượng như một số người xuyên tạc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rõ: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyên bố công khai mục đích của phong trào XHCN hiện đại là xây dựng xã hội mới giàu có, thịnh vượng cho đa số nhân dân chứ không phải một xã hội trong đó “sự áp bức và lao động kiệt sức đối với đa số, sự giàu có và hạnh phúc ấm no đối với một số ít người”. Theo Mác, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản  không tránh khỏi “người này giàu hơn người kia”…

          Từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng, giải pháp chiến lược để từng bước tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản chính là thực hiện Chính sách kinh tế mới. Đây là chính sách kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cho toàn bộ thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo đó, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn công nghiệp hiện đại. Người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình “bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”; phải “dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”; phải “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hằng ngày”...

          Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”; “Xã hội chủ nghĩa là ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no”. Điều mong muốn cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, Người cũng viết: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”

 

Luận điệu cũ mèm đòi phi chính trị hoá Quân đội

          Từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân đội, chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch với cách mạng nước ta ráo riết thực hiện chiêu bài “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”. Họ hy vọng rằng, một khi quân đội đã bị mê hoặc bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động, mất phương hướng chính trị, họ sẽ ra tay lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản “không đánh mà thắng”. Đây thực sự là một luận điệu cũ mèm mà chúng đã thực hiện trong suốt những năm qua.

           Họ đưa ra nhiều luận điểm, như: “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “quân đội phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không cần trung thành với bất kỳ tổ chức nào”, mà áp dụng cụ thể vào Việt Nam là “không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”, v.v.. Đáng tiếc là, không ít người đã vào hùa với chúng, mà không tỉnh táo tự vấn mình rằng: tại sao những đề xuất về “quân đội phải trung lập về chính trị” lại được VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những kẻ phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng ở hải ngoại tung hô, cổ vũ nhiệt thành đến vậy (?). Khi bị chỉ trích những đề xuất đó là biểu hiện của sự “suy thoái về tư tưởng chính trị”, những người cổ xúy cho tư tưởng này vội “lấp liếm” rằng: “chúng tôi chỉ yêu cầu quân đội trung lập về chính trị, chứ đâu có đòi phi chính trị hóa quân đội”(?). 

           Sự ngụy biện đó không đánh lừa được công luận; bởi xét về bản chất, yêu cầu “quân đội phải trung lập về chính trị” chỉ là một phiên bản của quan điểm đòi “phi chính trị hóa quân đội”. Nói đến “trung lập về chính trị”, nghĩa là “đứng giữa các lực lượng chính trị”, “đứng ngoài chính trị”, “không can dự vào chính trị”...; trong khi đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đang được xây dựng theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nền tảng để xây dựng vững mạnh toàn diện. Hơn nữa, bản thân Quân đội nhân dân Việt Nam đang là lực lượng chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức là đang “không đứng ngoài chính trị”; thì đòi hỏi “quân đội phải trung lập về chính trị” thực chất là đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.

 

 


THỰC HIỆN TỐT SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI VÙNG DÂN TỘC THỂU SỐ

 

Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo và phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá là cơ sở lý luận, pháp lý rất quan trọng để quân đội tiến hành các nội dung, biện pháp phòng chống phủ hợp, đạt hiệu quả cao, không để các thế lực thù địch, phản động tạo cớ can thiệp. Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá

Thực hiện yêu cầu này, phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về công tác dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá.

 Tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, giúp dân phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, thực hiện các chính sách xã hội, các phong trào, các cuộc vận động cách mạng của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

 Tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo vững mạnh; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo đối với quân nhân người dân tộc thiểu số, quân nhân có đạo đang công tác trong Quân đội, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ dân tộc thiểu số trong quân đội; lựa chọn cán bộ có năng lực, tâm huyết, kinh nghiệm là người dân tộc thiểu số, tôn giáo tại địa phương làm công tác dân vận.

 

PHỐI HỢP VỚI ĐỊA PHƯƠNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐẤT QUỐC PHÒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TÔN GIÁO

 

Quán triệt các văn bản của Bộ Quốc phòng, các đơn vị đã khảo sát  xác định nguồn gốc đất và chủ trì với địa phương thống nhất phần do quốc phòng quản lý, tham gia vận động quần chúng giải quyết khiếu nại, tố cáo và quy định quản lý, giải quyết lấn chiếm đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo về tôn giáo và đất sử dụng vào mục đích quốc phòng liên quan đến tôn giáo đã được lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan, đơn vị quan tâm.

Những khu vực có đơn thư khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều được cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã quán triệt các quan điểm, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai và tôn giáo, phối hợp với các địa phương và các cơ quan chức năng giải quyết phù hợp, ổn định tình hình, giữ vững mối quan hệ đoàn kết quân dân trên địa bàn đóng quân, không để trở thành điểm nóng, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Đất quốc phòng chuyển mục đích sử dụng và bàn giao cho địa phương để làm đường giao thông, quy hoạch đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, sân bay, bến cảng phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đồng thời đề nghị các địa phương.

 Kết quả giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo về tôn giáo và đất sử dụng vào mục đích quốc phòng liên quan đến tôn giáo đã góp phần ổn định tình hình, giữ vững mối quan hệ đoàn kết quân dân trên địa bàn đóng quân.

 

NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUÂN ĐỘI

 

Công tác tư t­ưởng lý luận trong quân đội những năm qua có thể khẳng định rằng: Công tác tư tư­ởng, lý luận đã quán triệt sâu sắc đ­ường lối quan điểm của Đảng, các nghị quyết của Trung ư­ơng, Bộ Chính trị, của Đảng uỷ quân sự Trung ­ương, chỉ thị công tác đảng, công tác chính trị của Tổng cục Chính trị vào nhiệm vụ và các mặt hoạt động của quân đội. Công tác tư­ởng lý luận đã luôn luôn đi đúng quan điểm của Đảng, đúng sự chỉ đạo của cấp trên, giữ vững định h­ướng chính trị và nguyên tắc hoạt động.

Các hoạt động công tác tư­ tư­ởng, lý luận đ­ược triển khai toàn diện, đồng bộ; coi trọng chỉ đạo điểm, biết tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, khâu then chốt, thời điểm quan trọng; thư­ờng xuyên hoàn thiện quy chế hoạt động. Không ngừng đổi mới toàn diện cả nội dung, hình thức, ph­ương pháp và tác phong công tác, chất l­ượng hiệu quả ngày càng tăng lên, có ý nghĩa chính trị xã hội ngày càng sâu sắc.

Công tác tư­ t­ưởng, lý luận đã góp phần củng cố, xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng ngày càng vững mạnh; phát huy dân chủ, củng cố kỷ luật, xây dựng mối quan hệ nội bộ, quan hệ quân dân ngày càng bền vững, góp phần giải đáp những vấn đề bức xúc nảy sinh ở cơ sở, tạo sự chuyển biến mọi mặt của đơn vị.

Công tác t­ư t­ưởng lý luận đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng an ninh; xây dựng lực l­ợng vũ trang về chính trị, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối quốc phòng- an ninh và xây dựng lực l­ợng vũ trang trong thời kỳ mới.

Công tác t­ư t­ưởng lý luận đã chủ động kiên quyết đấu trạnh trên mặt trận t­ư tưởng lý luận chống diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, âm m­ưu phi chính trị hoá quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tích cực đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, t­ư t­ưởng cá nhân chủ nghĩa; trực tiếp góp phần làm trong sạch chính trị tư­ t­ưởng nội bộ của quân đội.

LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI THAM GIA PHÒNG CHỐNG ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

Lực lượng quân đội tham gia phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội Biên phòng... mỗi lực lượng có chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, tổ chức, sử dụng lực lượng hợp lý, khoa học các lực lượng, phát huy đúng khả năng, sở trường, thế mạnh của từng lực lượng sẽ góp phần tạo thành sức mạnh tổng hợp, hình thành thế trận vững chắc ngăn ngừa, đẩy lùi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá.

          Thực hiện yêu cầu này, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội Biên phòng và bộ đội địa phương hoạt động trên địa bàn phải quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá, khả năng về lực lượng, phương tiện và thế mạnh của mình.

          Đây là yêu cầu chỉ đạo nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp trong phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá. Hiệu quả Quân đội tham gia phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó phải phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp để phòng chống đạt hiệu quả cao.

          Thực hiện yêu cầu này, các đơn vị quân đội hoạt động trên địa bàn phải bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

 

LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ HOẠT ĐỘNG TÀ ĐẠO

 

Để truyền tải các nội dung tuyên truyền đến đối tượng, chúng đã sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, phát thanh và in ấn các văn hóa phẩm bằng ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc; dùng lời tuyên truyền "rỉ tai" từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong thông qua các hoạt động thăm thân, "nghiên cứu khoa học", "hoạt động từ thiện"... của những người từ nước ngoài về hoặc những người có uy tín trong dòng họ, các chức sắc tôn giáo.

“Đạo hóa" dân tộc là một trong những thủ đoạn của các thế lực thù địch sử dụng ở nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Với một số dân tộc thiểu số Việt Nam chưa theo tôn giáo nào thì việc "đạo hóa" càng có ý nghĩa quyết định đến khả năng lôi kéo, tập hợp nhân dân và hình thành các "khung chính quyền" ngầm núp dưới vỏ bọc tôn giáo, như "khung chính quyền" ngầm của cái gọi là "Tin lành Đề-ga" để đòi ly khai, tự trị ở Tây Nguyên. “Chúng triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào để tổ chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây dựng cơ sở.

Cùng với việc truyền đạo trái pháp luật đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, chúng còn khuyến khích đồng bào các dân tộc duy trì tập tục lạc hậu, phản khoa học, tin, nghe theo các tà đạo; cổ vũ cho lối sống tư sản trong thanh niên, thiếu niên, từng bước làm băng hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc.

Kích động mâu thuẫn giữa người dân tộc thiểu số với người Kinh, kích động chống đối chính quyền nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết của Đảng, Nhà nước ta. Cùng với hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, các thế lực thù địch  còn “iợi dụng những tồn tại của lịch sử ra sức kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tư tưởng "ly khai", "tự trị" của các dân tộc trên các địa bàn chiến lược để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự đoàn kết thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

 

 

 Các hoạt động cụ thể của chúng, như nhen nhóm, khuấy động, thổi bùng cái gọi là "quyền tự trị" của các dân tộc, kích động dân tộc Mông ly khai, bạo loạn thành lập "Nhà nước Mông tự trị", người Thượng ở Tây Nguyên ly khai thành lập “ Nhà nước Đê-ga độc lập”, người dân tộc Khmer ly khai thành lập “Nhà nước Khmer Krôm độc lập”; tung các tin thất thiệt về đời sống tâm linh và hiện thực ở các vùng đồng bào DTTS sinh sống để tạo nên hàng loạt các hoạt động như vượt biên trái phép, di dân tự do, hòng làm cho đời sống của đồng bào mất ổn định.

          Lợi dụng trình độ hiểu biết còn hạn chế, đặc điểm tâm lý và lịch sử hình thành, phát triển của mỗi dân tộc để tìm cách khoét sâu những mâu thuẫn, gây nghi kỵ, hận thù, chia rẽ; lợi dụng khó khăn về kinh tế và những tồn tại, hạn chế khuyết điểm của cán bộ, chính quyền trong quá trình thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước để kích động, để xuyên tạc, chia rẽ nhân dân các dân tộc thiểu số với chính quyền, giữa các dân tộc thiểu số với nhau và giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với đồng bào dân tộc Kinh, tạo ra sự đối lập giữa các dân tộc với nhau và với cách mạng. Hoạt động này không chỉ ngăn cản việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế, văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi mà còn trực tiếp phá hoại cơ sở kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, làm cho đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng khó khăn để dễ bề không chế họ, phục vụ các mưu đồ chính trị hết sức đen tối, như lợi dụng quần chúng, kích động quần chúng gây bạo loạn chính trị, tạo tiếng vang và thông qua đó kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp vào Việt Nam.

Tỉnh táo trước luận điệu xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

 

          Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) được Đảng ta xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối, quan điểm, chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính khái quát cao, là kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn dân tộc, vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất nước nhanh và bền vững.

          Tuy nhiên, bất chấp thực tế đó cũng như những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm đổi mới, các thế lực thù địch vẫn không ngừng tuyên truyền những luận điểm sai trái, xuyên tạc bác bỏ kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam. Thực tế này đòi hỏi cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái về vấn đề này.

          Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN - bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng ta thời kỳ đổi mới, là sự lựa chọn khách quan, phù hợp xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đề cập đến mô hình kinh tế này, một số luận điểm cho rằng, kinh tế thị trường và định hướng XHCN như "nước và lửa" không thể kết hợp được với nhau, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản (CNTB), Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là trái quy luật... Đây đều là sự xuyên tạc vô căn cứ bởi lẽ, thực tế lịch sử cho thấy, kể từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp và sự xuất hiện của nhà nước thì nền kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều chịu sự định hướng chính trị của một giai cấp nhất định trong xã hội. Đó là giai cấp nắm trong tay quyền lực nhà nước, thông qua nhà nước, giai cấp cầm quyền sẽ đề ra những chủ trương, chính sách nhằm bảo vệ tối đa cho quyền và lợi ích của mình, trước hết là lợi ích kinh tế. Do đó, điểm khác nhau cơ bản giữa kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định hướng XHCN là ở chỗ chúng được định hướng bởi những nền chính trị của các giai cấp cầm quyền khác nhau và phát triển theo những mục tiêu khác nhau. Nếu kinh tế thị trường TBCN được định hướng bởi nền chính trị, nhà nước của giai cấp tư sản, hướng tới mục tiêu tăng trưởng tối đa nhằm phục vụ tốt nhất cho lợi ích của giai cấp tư sản thì kinh tế thị trường định hướng XHCN được định hướng bởi nền chính trị của giai cấp công nhân - giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Vì vậy, những đường lối, chính sách phát triển kinh tế mà nhà nước xã hội chủ nghĩa đưa ra trong khi phục vụ, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp công nhân cũng đồng thời phục vụ, bảo vệ lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Bởi thế, một trong những nét đặc trưng mang bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN là không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, trái lại, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách và suốt quá trình phát triển.

          Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người chứng minh: kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, đó là thành tựu phát triển cao của nền văn minh nhân loại, không thể và cũng chưa bao giờ là độc quyền của CNTB. Điều đó đồng nghĩa với việc các nước XHCN đều có thể sử dụng mô hình kinh tế này để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo mục đích của mình.

          Hiện đang xuất hiện một số luận điểm tập trung chứng minh: khi xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế nghĩa là Việt Nam đang "xoay trục" sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN, định hướng XHCN chỉ là mị dân, hình thức. Đây hoàn toàn là ý kiến xuyên tạc, bịa đặt. Có thể thấy, trong thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) phù hợp trình độ không đồng đều của lực lượng sản xuất, nhằm huy động tối đa sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội vào phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tốc độ tăng trưởng cao.

          Đảng, Nhà nước ta xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, do đó sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm để tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Nhờ đó, thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Qua 35 năm đổi mới "kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng từ 39-40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, tỷ lệ đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34,1%,... góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội". Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 đến 65%.

          Tuy nhiên, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng không đồng nghĩa với việc chúng ta "tư nhân hóa" nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhưng kinh tế nhà nước mới là thành phần giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế (trong đó có kinh tế tư nhân) theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Như vậy, bản thân kinh tế tư nhân ở Việt Nam cũng được định hướng hoạt động và phát triển phù hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của Đảng và Nhà nước chứ không phải phát triển một cách tự phát.

          Thực tế cho thấy, dưới sự định hướng theo những nguyên tắc thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội, phần lớn các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam luôn nêu cao việc thực hiện đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và xác định mục tiêu phát triển của mình là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm hiện thực hóa những mục tiêu của CNXH: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó, trong những trường hợp cần thiết, họ có thể chấp nhận hy sinh lợi ích, lợi nhuận trước mắt để bảo vệ cho lợi ích chung của nhân dân. Điều này có thể thấy rất rõ trong thời gian chống dịch COVID-19 vừa qua, hưởng ứng chủ trương chung của Đảng, Nhà nước sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt nhất sức khỏe và tính mạng cho nhân dân, nhiều doanh nghiệp tư nhân mặc dù sản xuất, kinh doanh cũng đang chịu nhiều thiệt hại, thua lỗ bởi dịch bệnh nhưng vẫn sẵn sàng đóng góp bằng nhiều hình thức khác nhau để phục vụ công tác chống dịch.

          Với chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước Việt Nam, một số quan điểm cho rằng, chủ trương này thực chất là việc tiến hành "tư nhân hóa" nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN. Song thực tế đã chứng minh, chủ trương này ra đời xuất phát từ thực tế một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, do đó cần cổ phần hóa, cấu trúc lại nhằm huy động vốn đầu tư từ chủ thể của các thành phần kinh tế khác, qua đó, nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, góp phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh, thật sự xứng đáng trở thành nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Chẳng hạn như trường hợp của Vinamilk sau khi cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, quy mô tài sản liên tục gia tăng, khả năng tự chủ tài chính được cải thiện. Tính đến hết năm 2020, Vinamilk đã xuất khẩu đến 55 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,4 tỷ USD. Hay Sabeco, việc tiến hành cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, thay đổi toàn diện chiến lược kinh doanh là nhân tố chính giúp Sabeco trở thành một trong những công ty dẫn đầu ngành rượu, bia, nước giải khát tại thị trường Việt Nam và trong khu vực...

          Đặc biệt, trong chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cũng có quy định rõ về 13 ngành, lĩnh vực Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ; bảy ngành, lĩnh vực, Nhà nước nắm từ 65% vốn điều lệ trở lên. Đây đều là những lĩnh vực then chốt, thiết yếu liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng - an ninh để giữ vững vai trò chủ đạo, định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường của kinh tế nhà nước.

          Những luận điệu phê phán, phủ nhận, xuyên tạc bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay của các thế lực thù địch đều nhằm hướng đến một đích đến duy nhất là làm chệch hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, từ đó làm chệch quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, cần hết sức tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai lầm, phi lý và vô căn cứ này; tiếp tục giữ vững niềm tin vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn./.

            Nguồn: Tuyên giáo

Việt Nam và Campuchia sẽ luôn đoàn kết, giúp đỡ nhau

 

          Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó, quân và dân hai nước đã kề vai sát cánh trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, lật đổ chế độ diệt chủng, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước

          Chiều 9/8, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp Đại tướng Hun Manet, Phó Tổng tư lệnh kiêm Tư lệnh Lục quân Quân đội Hoàng gia Campuchia, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Nhân dân Campuchia đang ở thăm Việt Nam.

          Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhiệt liệt chào mừng Đại tướng Hun Manet sang thăm, làm việc tại Việt Nam; tin tưởng chuyến thăm nhiều ý nghĩa này sẽ đóng góp quan trọng vào thành công của "Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2022" chào mừng 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (24/6/1967).

          Chủ tịch nước chúc mừng những thành tựu to lớn, toàn diện mà nhân dân Campuchia đạt được thời gian qua, dưới sự trị vì anh minh của Quốc vương Norodom Sihamoni và sự điều hành hiệu quả của Chính phủ Hoàng gia do Samdech Techo Thủ tướng Hun Sen đứng đầu; tin tưởng Vương quốc Campuchia sẽ tiếp tục đạt nhiều thành tựu đối nội, đối ngoại quan trọng trong thời gian tới, đảm nhiệm tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2022 và tổ chức thành công bầu cử Quốc hội trong năm 2023.

          Nhấn mạnh Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó, quân và dân hai nước đã kề vai sát cánh trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, lật đổ chế độ diệt chủng, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc mong muốn Đại tướng Hun Manet, trên các cương vị quan trọng hiện nay cũng như trong thời gian tới, sẽ tiếp tục đóng góp tích cực cho việc gìn giữ, phát triển mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa hai nước.

Quang cảnh buổi tiếp. (Ảnh: TTXVN)

          Đại tướng Hun Manet bày tỏ vui mừng trở lại thăm Việt Nam và vinh dự được gặp lại Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; trân trọng chuyển lời thăm hỏi của Samdech Techo, Thủ tướng Hun Sen tới Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Lãnh đạo cấp cao Việt Nam.

          Đại tướng chúc mừng những thành tựu quan trọng mà nhân dân Việt Nam đạt được thời gian qua dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong ứng phó đại dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games) lần thứ 31.

          Đại tướng Hun Manet bày tỏ sự biết ơn sâu sắc của nhân dân Campuchia đối với sự ủng hộ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam dành cho Campuchia trong công cuộc đấu tranh lật đổ chế độ diệt chủng trước đây cũng như trong xây dựng và phát triển đất nước ngày nay; cảm ơn Việt Nam đã tích cực ủng hộ Campuchia trong quá trình đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN 2022, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, hai nước càng phải đoàn kết, gắn bó bên nhau.

          Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Đại tướng Hun Manet bày tỏ hài lòng về sự phát triển tích cực của quan hệ Hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia thời gian gần đây, nhất là việc hai bên nỗ lực duy trì tiếp xúc, trao đổi cấp cao thường xuyên trên tất cả các kênh; phối hợp tổ chức thành công nhiều hoạt động quan trọng trong "Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2022"; thương mại song phương giữ đà phát triển tích cực, kim ngạch hai chiều 6 tháng đầu năm 2022 đạt 6,3 tỷ USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm 2021.

Hai bên đánh giá cao kết quả hợp tác quốc phòng song phương thời gian qua, trở thành một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước; mong muốn hợp tác giữa hai Bộ Quốc phòng tiếp tục phát triển mạnh mẽ, ngày càng đi vào chiều sâu, đa dạng trên các lĩnh vực, đạt hiệu quả cao, thực chất, vì hòa bình, ổn định, độc lập và tự cường của mỗi nước.

          Qua Đại tướng Hun Manet, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trân trọng gửi lời thăm hỏi tới Quốc vương Norodom Sihamoni, Thủ tướng Hun Sen và các Lãnh đạo cấp cao khác của Vương quốc Campuchia.

Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng tiếp ông Hun Manet, Phó Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh Lục quân Quân đội Hoàng gia Campuchia. (Ảnh: TTXVN)

          * Cùng ngày, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã tiếp ông Hun Manet, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), Phó Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh Lục quân Quân đội Hoàng gia Campuchia.

          Ông Hun Manet cảm ơn Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã dành thời gian tiếp đoàn, bày tỏ vui mừng về việc hai nước kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều hoạt động có ý nghĩa, trong đó có việc tổ chức kỷ niệm 45 năm “Con đường tiến tới đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot” của Thủ tướng Hun Sen.

          Ông Hun Manet khẳng định hai Đảng, hai nước đã hợp tác chặt chẽ vượt qua nhiều khó khăn, dành nhiều thành tựu trong đấu tranh chống kẻ thù chung giải phóng dân tộc trong những năm 1970-1980, lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot và ở trong giai đoạn mới.

          Đảng Nhân dân Campuchia, Nhà nước và nhân dân Campuchia chân thành cảm ơn và không bao giờ quên Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hy sinh xương máu giúp nhân dân Campuchia trong đấu tranh giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước ngày nay.

          Ông Hun Manet khẳng định Campuchia sẽ luôn giữ gìn vun đắp tình hữu nghị, tăng cường quan hệ hợp tác với Việt Nam trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay để cùng nhau phát triển.

          Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia vui mừng về những thành tựu đạt được của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trên các mặt, trong đó đã khống chế được dịch bệnh COVID-19 và đời sống nhân dân được cải thiện không ngừng.

          Ông Hun Manet đã thông báo về kết quả chuyến thăm nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước, đặc biệt là giữa sỹ quan trẻ và thanh niên hai nước, chân thành cảm ơn Việt Nam đã ủng hộ, giúp đỡ Campuchia đảm nhiệm tốt vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2022 và trên các diễn đàn quốc tế, khu vực.

          Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đánh giá cao chuyến thăm của ông Hun Manet, với những kết quả đạt được trong chuyến thăm, đặc biệt là nhân dịp hai nước kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, chúc mừng những thành tựu của Campuchia trong thời gian qua, nhất là vừa qua đã tổ chức thành công Cuộc bầu cử Hội đồng xã, phường khóa V và thắng lợi của Đảng Nhân dân Campuchia đã thể hiện sự tín nhiệm của nhân dân Campuchia; chúc mừng ông Hun Manet đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Campuchia tín nhiệm giới thiệu là ứng viên Thủ tướng trong tương lai.

          Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng nhấn mạnh Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Campuchia có chung một nguồn gốc từ Đảng Cộng sản Đông Dương, hai Đảng đã cùng sát cánh bên nhau đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, bày tỏ vui mừng về sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Campuchia thời gian qua, trong đó có các chuyến thăm giữa lãnh đạo cấp cao, cuộc gặp lịch sử giữa 3 người đứng đầu 3 Đảng, cũng như cuộc hội đàm trực tuyến với Thường trực Trung ương Đảng Nhân dân Campuchia.

          Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng bày tỏ tin tưởng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Campuchia sẽ luôn đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để giành nhiều thắng lợi mới.

Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng vui mừng trước những kết quả hợp tác giữa hai Đảng ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hợp tác quốc phòng là trụ cột trong quan hệ hai nước, khẳng định Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam trân trọng và biết ơn sự giúp đỡ của CPP, Nhà nước, nhân dân Campuchia trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; bày tỏ mong muốn hai bên sẽ thúc đẩy các hình thức hợp tác phù hợp giữa lực lượng sỹ quan trẻ và thanh niên hai nước vì đây là thế hệ kế cận trong tương lai.

          Về phần mình, Việt Nam luôn sẵn sàng ủng hộ Campuchia thành công trong lĩnh vực đối ngoại và bày tỏ tin tưởng dưới sự trị vì anh minh của Quốc vương Sihamoni, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Nhân dân Campuchia, nhân dân Campuchia tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới to lớn hơn nữa, xây dựng đất nước Campuchia ngày càng phồn vinh và phát triển./.

                                                                                                TTXVN



Nhận diện và đấu tranh với luận điệu chống phá về tư tưởng chính trị của các thế lực thù địch

 

Tư tưởng chính trị là nhân tố hàng đầu tạo niềm tin, sự đồng thuận xã hội. Vì thế, các thế lực chống phá, thù địch luôn xác định đây là mắt xích, mũi đột phá quan trọng cần tập trung tấn công. Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh (1999), Níchxơn đã viết: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”, “vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”. 

Theo đó, những chiêu bài về “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hay “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”… mà các thế lực thù địch vẫn không ngừng “lớn tiếng” lâu nay cũng chỉ nhằm hướng tới một mục tiêu: phủ nhận những vấn đề căn cốt - nền tảng tư tưởng chính trị của chúng ta.

Một là, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch, phản động, chống phá vẫn luôn tự cho họ “cái quyền” đòi Đảng ta, nhân dân ta từ bỏ mục tiêu, con đường đã chọn với “lỹ lẽ” rằng đó là “con đường sai lầm, dẫn dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt”. Họ ra sức lợi dụng sự kiện CNXH theo mô hình Xô viết ở Liên xô và các nước Đông Âu trước đây sụp đổ để “kết luận” rằng CNXH đã cáo chung, Đảng Cộng sản đã hết vai trò lịch sử; rằng Việt Nam kiên định đi lên CNXH là sai lầm, là đi vào “vết xe đổ” Liên Xô và Đông Âu. Họ cố tình xuyên tạc: “Chủ nghĩa xã hội mà C.Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”; không bao giờ thực hiện được”. Hơn thế, họ “dạy” Đảng ta cần phải đi theo con đường - mô hình “xã hội dân chủ”, “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”... Đồng thời không ngừng rêu rao, kích động, bôi đen chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cho rằng, kinh tế thị trường với CNXH như lửa với nước, không thể đồng hành, từ đó phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước, đòi tư nhân hóa đất đai… 

Những luận điệu nêu trên vẫn thường được “nhai đi nhai lại” khi trắng trợn, lúc tinh vi; lúc thì “mượn mồm” của một số người biến chất, bất mãn, khi thì thô lỗ nhân danh, khoác áo “những nhà chính trị”, “tổ chức nọ”, “hội kia”. Tuy giọng điệu, cung bậc khác nhau, song đều chung một kiểu “mưa dầm thấm lâu”, nhằm làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin chính trị.

Để tạo sức “đề kháng” trước những “cơn gió độc”, bên cạnh không ngừng củng cố bản lĩnh và sự kiên định của mỗi công dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên vào mục tiêu, con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, chúng ta cần tiếp tục thấu triệt: 1) Sự thay thế của hình thái kinh tế XHCN vào hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa là sự tiếp nối tất yếu trong dòng chảy phát triển. Vấn đề này đã được khẳng định bằng chính quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. 2) Thực tiễn tiến trình cách mạng Việt Nam dưới ngọn cờ của Đảng đã và đang minh chứng “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”(1). “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” là sự kiên định khoa học, khách quan, đúng đắn, phù hợp, đang từng bước thỏa mãn khát vọng chính đáng của nhân dân: độc lập, hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc. 3) Những nhà tài phiệt của chủ nghĩa tư bản luôn muốn duy trì sự bất bình đẳng của xã hội để thâu tóm lợi ích. Vì thế, bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân lao động không phải là mục tiêu mà họ hướng tới, không phải là bản chất chế độ mà họ muốn duy trì. 

Hai là, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Vẫn “quanh đi quẩn lại” với những “diễn giải” như, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ phù hợp với trình độ, lực lượng sản xuất phương Tây thế kỷ XIX; ở thế kỷ XXI, chủ nghĩa này đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua... từ đó, những thế lực chống phá, phản động luôn “to mồm” rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phù hợp với Việt Nam; việc du nhập chủ nghĩa này vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì đây là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc... Cùng với đó, họ không ngừng xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như cuộc đời và sự nghiệp của Người; bóp méo sự thật công cuộc đổi mới ở Việt Nam... Những “giọng điệu” đó đều không nằm ngoài mục đích: phủ định sự vận dụng sáng tạo tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam; phủ nhận nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp  xây dựng xã hội của dân, do dân và vì dân.

Để phản bác lại những “lập luận” nêu trên, chúng ta cần không ngừng nắm rõ, hiểu sâu, củng cố lại nhận thức: 1) Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác và Ph.Ăng-ghen xây dựng, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, bổ sung trong điều kiện cụ thể một nước thuộc địa, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu; được hình thành và phát triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại; là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. 2) Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. 3) Xây dựng CNXH ở Việt Nam là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học, kinh tế chính trị Mác - Lênin, CNXH khoa học vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. 4) Trên cơ sở quan điểm “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin”, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng trong quá trình trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cùng toàn dân xây dựng một xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Ba là, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hết năm này qua năm khác, các phần tử, tổ chức phản động, thù địch vẫn không ngừng ra rả những luận điệu “rườm tai” như “Đảng Cộng sản chưa bao giờ chứng tỏ có khả năng quản trị đất nước”; “chế độ một đảng lãnh đạo, cầm quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền, khiến xã hội không có tự do, dân chủ”; “từ bỏ độc quyền lãnh đạo là then chốt của chế độ dân chủ”... Đồng thời, họ dẫn những quan điểm “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; đồng nhất nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân... 

Một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị ở trong nước cũng thường “vào hùa” “ăn theo”, khi thì nhân danh “quyền công dân”, khi thì gắn mác “tâm nguyện vì nước vì dân” để đưa ra những “yêu sách” kiểu như: Đảng phải “thay đổi Cương lĩnh xây dựng đất nước”, phải “chuyển đổi thể chế chính trị”...

Tất cả những “kiểu cách” nêu trên, dù được ngụy trang bằng những mỹ từ nào đi nữa, thì bản chất và mục đích vẫn là nhằm làm phân tâm, tạo hoài nghi trong xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong cán bộ đảng viên, để từ đó phủ nhận nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, làm “nhiễu loạn” mọi hệ giá trị, tiến tới phủ nhận chế độ, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.

Do đó, việc nắm chắc những nội dung căn cốt về tư tưởng chính trị là “vũ khí” quan trọng nhất để mỗi chúng ta chiến thắng chính mình - vượt qua những mơ hồ, hoài nghi, dao động; đồng thời đấu tranh phản bác có hiệu quả với những giọng điệu “ngụy dân chủ”, “ngụy lý luận”.

Về phương diện lý luận, vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền trong thời ký quá độ đi lên CNXH là một trong những nội dung quan trọng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu lịch sử đương đại, Mác và Ăng-ghen chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những di sản tư tưởng chính trị cơ bản đó, V.I.Lênin đã phát triển và có những luận điểm sâu sắc, trong đó khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng CNXH thành công. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong quá trình đi tìm “lời giải cho bài toán” cách mạng Việt Nam đã nhận thấy: cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... 

Về phương diện thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức và hoạt động chặt chẽ theo tư tưởng, nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những kết quả đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hơn 35 năm qua là câu trả lời chính xác, khoa học nhất về vai trò lãnh của Đảng trên cơ sở kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Buông lỏng hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng là phạm sai lầm từ nguyên tắc, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nguy cơ của mọi nguy cơ dẫn đến thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội trỗi dậy./.