Thứ Năm, 11 tháng 8, 2022

Trung Quốc rút cam kết không đưa quân tới Đài Loan - Trong sách trắng

Trong sách trắng vừa công bố, Trung Quốc rút cam kết không đưa quân hoặc các nhà quản lý tới Đài Loan sau khi thống nhất hai bờ eo biển Đài Loan. Trung Quốc tuyên bố Đài Loan là một phần lãnh thổ của mình.
Binh sĩ Trung Quốc tham gia diễu binh.

Theo hãng tin Reuters và tờ Global Times, Trung Quốc hôm (10/8) công bố sách trắng về lập trường với Đài Loan, tiếp sau những căng thẳng bùng phát do chuyến thăm Đài Loan (Trung Quốc) của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi vào tuần trước. 

Tờ The Diplomat dẫn lời nhà phân tích Amanda Hsiao nói, trong hai sách trắng trước đây về Đài Loan, được công bố lần lượt vào năm 1993 và 2000, Trung Quốc tuyên bố sẽ không đưa quân hay các nhà quản lý tới Đài Loan sau khi thống nhất. Đường lối đó, nhằm đảm bảo Đài Loan sẽ được hưởng "quyền hành chính, lập pháp và tư pháp độc lập, xét xử cuối cùng cũng như quyền tự chủ đối với các vấn đề chính quyền, tài chính" sau khi trở thành một đặc khu hành chính của Trung Quốc, đã không xuất hiện trong sách trắng mới công bố. 

Giống như các sách trắng lần trước, bản mới này một lần nữa nhấn mạnh quá trình tái thống nhất hòa bình và "một đất nước, hai chế độ" dành cho Đài Loan. Nó tương tự công thức mà theo đó Hong Kong được bàn giao lại cho Trung Quốc vào năm 1997. Quy tắc này sẽ mang lại một số quyền tự chủ cho Đài Loan để vùng này có thể bảo tồn hệ thống chính trị và xã hội của nó. 

Theo Global Times, sách trắng mới công bố mang tên “Vấn đề Đài Loan và sự nghiệp thống nhất Trung Quốc thời đại mới” gồm 5 phần.

Nó chứa đựng những nội dung mới dựa trên tình hình của kỷ nguyên mới, gồm cả những cảnh cáo cụ thể với đảng Tiến bộ Dân chủ đang nắm quyền ở Đài Loan và nhấn mạnh vai trò của Mỹ trong việc làm gián đoạn tiến trình thống nhất của Trung Quốc. Tài liệu cung cấp những hướng dẫn rõ ràng hơn về việc quản lý Đài Loan sau khi thống nhất. Đây là lần đầu tiên, sách trắng của Trung Quốc đề cập tới đảng Tiến bộ Dân chủ. 

PHAO

Học và làm theo lời Bác dạy về công tác tuyên truyền

  Bác dạy: Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Phải dạy lý luận, công tác, chuyên môn cho cán bộ, đảng viên. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại. Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền cũng như bộ đội ta đã đánh thắng địch về mặt quân sự. 

Bác hồ nói chuyện tại Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ III (tháng 3 năm 1961)

NHIỆM VỤ TUYÊN TRUYỀN VÀ CÁCH TUYÊN TRUYỀN

Tuyên truyền được hiểu là tuyên truyền cách mạng. Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền như thế nào? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cho ai? Ai có thể tuyên truyền? v.v.. là những câu hỏi mà những người làm công tác tuyên giáo phải luôn luôn nắm vững để trả lời có chất lượng mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Những câu hỏi này được Hồ Chí Minh nêu lên từ thập kỷ bốn mươi và thông qua lý luận - thực tiễn, Người đã đem lại những câu trả lời thuyết phục, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị soi sáng công tác tuyên truyền nói riêng, tuyên giáo nói chung.

Công cuộc đổi mới đã đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế giới và đất nước ngày nay đang diễn ra những biến đổi lớn lao. Nhưng trong mọi biến đổi cũng có một số điều quan trọng không hề thay đổi. Đó là nhận thức của chúng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội với ba trụ cột là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ba trụ cột được “xây” trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với hai nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và lấy dân làm gốc. Nhiệm vụ tuyên giáo và cách tuyên truyền hiện nay là làm cho nhân dân và cán bộ hiểu được những vấn đề lý luận và thực tiễn đó; làm rõ hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Để hoàn thành nhiệm vụ công tác tuyên giáo, tuyên truyền phải giản đơn, rõ ràng, cụ thể, thiết thực, đúng chỗ, đúng lúc. Tuyên truyền là để người dân hiểu, dân tin và làm được. Phải tuyên truyền cả lý luận và công tác. Tuyên truyền lý luận là dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Tuyên truyền công tác là làm cho người dân hiểu vì sao phải làm những công việc đó? Làm những gì? Làm như thế nào? Tất cả nhằm đem lại lợi cho dân và tránh hại cho dân. Những câu hỏi nêu trên phải được cụ thể hóa, hiện thực hóa. Bác dạy: “Các chú phải tự hỏi, tự trả lời. Chứ không phải chờ trên gửi tài liệu xuống, rồi theo một, hai, ba, bốn mà làm”(1).

Bác phê bình những người làm công tác tuyên truyền chỉ nói nào là làm “cách mạng xã hội chủ nghĩa”, nào là “tiến lên chủ nghĩa xã hội”, nào là “xây dựng chủ nghĩa xã hội” làm cho đồng bào khó hiểu, ít người hiểu. Bác nhắc lại câu chuyện đồng chí Đimitơrốp kể: Khi ở Đức có bãi công, Đảng cử người đến tuyên truyền. Đáng lẽ người tuyên truyền phải nói bãi công thế nào, thì lại nói chủ nghĩa Mác là gì, thặng dư giá trị là gì. “Như thế là nói không đúng chỗ, không thiết thực. May mà đồng chí đó không bị quần chúng ném đá. Tuyên truyền như thế không ăn thua gì cả”(2).

Hiện nay, những chứng bệnh đó vẫn tồn tại với những biểu hiện, mức độ đậm nhạt, cao thấp khác nhau. Điểm giống nhau của các căn bệnh trước và nay là tuyên truyền không đúng lúc, đúng nơi, không cụ thể, không thiết thực, không tỏ rõ được tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng và đòi hỏi của các tầng lớp nhân dân. Chẳng hạn, "khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” là một điểm nhấn trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Nhưng nếu tuyên truyền chỉ nhắc lại hai từ “khát vọng” thì không “thuộc bài”, “đúng bài” tuyên giáo. Đó là cách nói chung chung, kiểu “hội trường” mà Bác đã nhiều lần phê bình: “Không phải tuyên truyền để mà tuyên truyền, huấn luyện để mà huấn luyện”(3). Cái người dân cần là phải nói làm sao thiết thực, dễ hiểu, để người ta hiểu được, hiểu để làm. Tức là phải biết cách tuyên truyền. Nhiều tỉnh nói về tiềm năng, khát vọng phát triển, phải đạt tỉnh khá, tỉnh giàu, kiểu mẫu là cần thiết, nhưng tuyên truyền là phải cắt nghĩa, phân tích được vì sao hiện nay nói và nhấn mạnh những điều đó? Phát triển cái gì? Phát triển đến đâu? Theo hướng nào, bằng cách nào? Tuyên truyền phải rất thực tiễn thì mới thực hiện được khát vọng. Tuyên truyền đừng để người dân hiểu sai về cái đúng, hiểu xấu về cái tốt, cái đẹp của khát vọng thành “phong trào khát vọng”, “hội chứng khát vọng”.

Tuyên truyền không phải nhắc lại Văn kiện của Đảng, Nhà nước, mà phải làm cho quan điểm của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào tim óc người dân, khẳng định niềm tin, khơi dậy quyết tâm và hành động. Tuyên truyền ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào còn nhiều khó khăn thiếu thốn về cơm ăn áo mặc, điện, nước, trường học, bệnh xá, đường sá…, càng phải rất thiết thực. Ý định của những người làm công tác tuyên truyền là tốt, muốn khẳng định đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chính sách đúng đắn của Chính phủ, bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính đột phá về lý luận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, v.v.. Ý định tốt nhưng khi tuyên truyền phải xuất phát từ thực tế, không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của người tuyên truyền, tuyên truyền để mà tuyên truyền, tuyên truyền “lấy được”. Tuyên truyền không thiết thực, không đúng lúc, đúng chỗ, có thể biến ý định tốt thành không tốt, biến cái hay thành cái dở, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng vậy. Bác dạy: “Nói thế nào cho đồng bào hiểu được, đồng bào làm được, đó là nói được chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói thiết thực, nói đúng lúc, đúng chỗ mới là hiểu được chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu nói không đúng chỗ không phải là chủ nghĩa Mác - Lênin”(4). Người chỉ rõ: “Các chú dạy cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác – Lênin, chắc có nhiều người thuộc, nhưng các chú có làm cho mọi người hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là thế nào không. Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác… Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin”(5). Lời Bác dạy vẹn nguyên giá trị đối với công tác tuyên giáo hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và huấn thị cho cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân tháng 12/1961.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và huấn thị cho

cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân tháng 12/1961.

NGƯỜI TUYÊN TRUYỀN PHẢI THƯỜNG XUYÊN TU DƯỠNG, CHỐNG THÓI BA HOA

Một trong những yêu cầu đối với người tuyên truyền, đó là phải hội đủ những phẩm chất về tri thức, phương pháp và đạo đức. Phải “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu”(6). Phải rèn luyện cách nói giản đơn, rõ ràng, thiết thực, có đầu, có đuôi, có hồn, truyền cảm hứng, niềm tin, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được, làm được.

Bác dạy bảo những người tuyên truyền khi nói, viết phải chống thói ba hoa, biểu hiện ở chỗ dài dòng, rỗng tuếch; cầu kỳ; khô khan, lúng túng; báo cáo giả dối, thành công ít suýt ra nhiều, còn khuyết điểm thì giấu đi không nói đến; bệnh theo “sáo cũ”; nói không ai hiểu; bệnh hay nói chữ như tục ngữ có câu “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, v.v..

Theo Bác, người tuyên truyền phải hiểu rằng mỗi khẩu hiệu của Đảng phải là ý nguyện và mục đích của hàng triệu đảng viên và của hàng triệu quần chúng. Mà muốn như thế, phải làm cho dân chúng đều hiểu, phải học cách nói của dân chúng “học ăn, học nói, học gói, học mở”, chớ nói như cách giảng sách. Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng. Nếu không hàng vạn khẩu hiệu cũng vô ích. Người dạy: “Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói”(7).

Bác thẳng thắn phê bình người đi tuyên truyền tưởng mình là công chức, làm việc theo cách bàn giấy mà quên nhiệm vụ của mình là tuyên truyền, cổ động, giải thích và huấn luyện cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Các cấp thông tin tuyên truyền thường thi hành chỉ thị cấp trên một cách máy móc, không biết áp dụng theo hoàn cảnh thiết thực trong địa phương mình. Tuyên truyền không chủ trương thực tế mà hay nói những lý luận viễn vông. Chưa có một chương trình, một kế hoạch thiết thực và đầy đủ về công tác cũng như kiểm tra”(8). Nói về người tuyên truyền - xét tận cùng và quan trọng nhất, quyết định nhất - phải có cái tâm, đạo đức trong sáng, xuất phát từ nhận thức về bổn phận phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới.

Ngẫm lại những lời dạy sâu sắc của Bác lúc sinh thời về công tác tuyên truyền đến bây giờ vẫn thấy thấm thía, vẹn nguyên giá trị để mỗi cán bộ tuyên giáo học và làm theo./.

--------------------

(1) (2) (3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.14, tr.159, 161, 159, 161

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H, 2021, t.I, tr.187.

(7) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.346, 480.

Vai trò của công nghiệp văn hóa đối với nền kinh tế quốc dân và sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

 Trong Nghị quyết 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa là một nhiệm vụ trọng tâm. Để thực hiện nhiệm vụ này, Chính phủ ban hành Chiến lược về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, và từ đó, ngành công nghiệp văn hóa ngày càng góp phần quan trọng trong việc khơi dậy khát vọng phát triển đất nước từ văn hóa. 

Tái hiện lễ hội Tịch điền của Vua Hùng.

VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

Khai thác giá trị văn hóa của kinh tế để văn hóa trở thành nguồn lực cho sự phát triển đất nước là chủ trương xuyên suốt của Đảng qua nhiều kỳ đại hội. Đặc biệt, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu mới của văn hoá, khoa 11 học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”. Trong Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh yêu cầu: “xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh”. Như vậy, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xem như một khâu đột phá trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam, giúp chúng ta phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam nhằm thực hiện khát vọng phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, soi đường cho quốc dân đi trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Từ đầu những năm 2000, coi trọng yếu tố sáng tạo - nguồn lực lớn nhất cho sự phát triển của quốc gia - là một xu thế lớn trên thế giới. Các ngành kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hoá – sáng tạo đã và đang trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế thế giới. Chúng ta chứng kiến nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp từ ý tưởng sáng tạo trở thành những công ty định hình lại mô hình kinh doanh toàn cầu như facebook, amazon, airbnb, netflix, grab, uber,... Văn hóa nhờ đó được quan tâm nhiều hơn khi chính văn hoá là tác nhân kích thích sự hình thành và tạo ra giá trị cho sáng tạo. Các ngành công nghiệp văn hóa trở thành một trong những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản hay Hàn Quốc.

Công nghiệp văn hoá có xuất phát điểm từ khá lâu, tuy nhiên, kể từ những năm 2000 trở lại đây, khái niệm các ngành công nghiệp văn hoá (cultural industries) mới được nhắc đến nhiều hơn, và trở thành một trong những trọng tâm phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Với nước Anh, nhà kinh tế học John Howkins khởi xướng khái niệm nền kinh tế sáng tạo (creative economy) như một gợi ý về việc sử dụng những tiềm năng sáng tạo để tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mởi. Thuật ngữ này đã khởi phát những khái niệm mới như các ngành kinh tế sáng tạo (creative industries), các ngành công nghiệp văn hoá (cultural industries), khởi nghiệp (start-up).

Các ngành công nghiệp văn hóa bao gồm các lĩnh vực sử dụng tài năng sáng tạo, tiềm năng (vốn) văn hoá kết hợp với công nghệ và kỹ năng kinh doanh để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Điều đó có nghĩa rằng, để hình thành một ngành công nghiệp điện ảnh chẳng hạn, chúng ta phải có sự liên kết một cách đồng bộ, chuyên nghiệp giữa thành phần sáng tạo điện ảnh (đạo diễn, biên kịch, diễn viên...), khai thác giá trị văn hóa của dân tộc, kết hợp với sử dụng các công nghệ tiên tiến và kỹ năng kinh doanh (xây dựng thương hiệu cho bộ phim, đạo diễn, diễn viên, tổ chức sự kiện, phát triển khán giả...) để sản xuất một bộ phim. Xét trên 4 yếu tố đó, Việt Nam có lợi thế ở 2 yếu tố đầu tiên. Con người Việt Nam luôn được thế giới đánh giá là cần cù, sáng tạo. Tài năng của người Việt Nam được khẳng định ở nhiều lĩnh vực, từ thiên tài quân sự để vượt qua nhiều kẻ địch mạnh đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ và cả trong văn hoá nghệ thuật. Theo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2020 (Global Innovation Index, viết tắt là GII), Việt Nam tiếp tục duy trì thứ hạng cao, ghi nhận năm thứ hai liên tiếp xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế. Với thứ hạng này, Việt Nam giữ vị trí số 1 trong 12 nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á. Trong thực tế, Việt Nam được đánh giá khá cao trong một số bảng xếp hạng quốc tế như kỳ thi PISA về năng lực Toán – Đọc hiểu và Khoa học. Chúng ta cũng có nhiều nghệ sĩ tài năng trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ âm nhạc, điện ảnh, thiết kế thời trang, kiến trúc,... Nhiều tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, thiết kế thời trang, ảnh nghệ thuật,... đã được giải cao ở các sự kiện khu vực và quốc tế. Chúng ta đang chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Nhiều bộ phim ra đời như Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Bố già, Mắt biếc... thậm chí có doanh thu hơn hẳn so với những bộ phim bom tấn của Mỹ, nhiều bài hát của Sơn Tùng MTP, Đen Vâu, Hoàng Thùy Linh,... chiếm được cảm tình của khán giả thông qua việc khai thác giá trị văn hóa Việt Nam. Các không gian sáng tạo, sự kiện văn hóa nghệ thuật bùng nổ ở các đô thị và được xem như một tiêu chí của một thành phố đáng sống. Kết quả là, theo nghiên cứu của Hội đồng Anh, từ năm 2014 đến năm 2018, số lượng không gian sáng tạo ở Việt Nam tăng từ 60 đến 140 trung tâm. Nhiều trung tâm, không gian sáng tạo đã có những bước phát triển mới, mang tính đột phá. Một số ví dụ cho thấy sự phát triển của các không gian sáng tạo này như Không gian sáng tạo Dreamplex (số 21 Nguyễn Trung Ngạn, quận 1) là mô hình làm việc chia sẻ cộng đồng (co-working) dành cho các nhà sáng tạo, công ty khởi nghiệp, nhà tư vấn, đầu tư và người làm việc tự do (freelancer)… Đây là một không gian không chỉ là nơi làm việc mà kết nối những con người nhiệt huyết với giấc mơ khởi nghiệp - đang trở thành điểm đến của giới trẻ Sài Gòn và là nơi tổng thống Mỹ Barack Obama nói chuyện với giới doanh nhân trong chuyến thăm Thành phố Hồ Chí Minh ngày 24/5/2016 với thông điệp khuyến khích mô hình khởi nghiệp ở Việt Nam. Tất cả chứng minh một tiềm năng to lớn của các tài năng sáng tạo Việt Nam. Đối với tiềm năng văn hoá, chúng ta tự hào là mảnh đất giàu truyền thống và đa dạng văn hoá. 54 dân tộc anh em cùng lịch sử hàng ngàn năm đã tạo ta một kho tàng vô giá về di tích, nghi lễ, lễ hội, trò chơi dân gian, thủ công truyền thống, dân ca, dân vũ, ẩm thực, phong tục tập quán, truyền thuyết, hình tượng anh hùng... Tất cả đều có thể trở thành chất liệu tuyệt vời cho sáng tạo, mang đến những sản phẩm văn hoá nghệ thuật vừa tôn vinh văn hoá dân tộc, vừa tạo ra sự khác biệt, giá trị riêng cho các sản phẩm văn hoá nghệ thuật.

MỘT TRONG NHỮNG CHIẾN  LƯỢC ĐỂ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

Tuy vậy, thực tế cho thấy rằng, dù có những nỗ lực và thành công nhất định (năm 2019 đóng góp của các ngành công nghiệp văn hóa chiếm 3,61% GDP so với mục tiêu 3% đến năm 2020) nhưng vẫn chưa đáp ứng được với kỳ vọng của những người yêu mến văn hoá nghệ thuật, cũng như khát khao khai thác giá trị văn hoá cho sự phát triển bền vững. Những tác phẩm văn hoá nghệ thuật của Việt Nam có thể chinh phục khán giả thế giới còn chưa nhiều. Tên tuổi, thương 13 hiệu của các văn nghệ sĩ, nhà sáng tạo Việt Nam chưa thực sự được định hình rõ ràng trong khu vực và trên thế giới. Nhiều sản phẩm nghệ thuật xuất hiện nhưng chưa tạo thành trào lưu, sớm nở tối tàn, các sự kiện không được tổ chức thường xuyên, không gian sáng tạo xuất hiện nhiều nhưng cũng biến mất nhanh... Hay nói tóm lại, các ngành công nghiệp văn hoá chưa được khai thác hiệu quả, xứng tầm với lợi thế của bề dày văn hoá dân tộc, tài năng của con người Việt Nam. Việt Nam không thiếu tài năng sáng tạo, không thiếu vốn văn hoá nhưng chưa hình thành được một môi trường phù hợp, hỗ trợ cho sự sáng tạo để giúp quảng bá văn hoá dân tộc, cũng như giúp các tài năng sáng tạo của đất nước toả sáng!

Hiện nay, có khá nhiều điểm nghẽn trong khai thác công nghiệp văn hoá. Đầu tiên chính là nhận thức về các ngành công nghiệp văn hoá chưa đầy đủ. Ít coi các lĩnh vực như điện ảnh, mỹ thuật, sân khấu, âm nhạc... là một yếu tố quan trọng của nền kinh tế. Trong khi nền kinh tế thị trường đã thấm sâu vào rất nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, thì văn hoá nghệ thuật vẫn còn khá rụt rè trong việc khẳng định giá trị hàng hoá của mình. Cần khẳng định sản phẩm văn hoá nghệ thuật cũng là sản phẩm hàng hoá, tuy nhiên có logic đặc biệt. Khi khẳng định tính chất hàng hoá của sản phẩm văn hoá nghệ thuật, chúng ta mới chú ý nhiều hơn đến thị trường, phát triển khán giả, bản quyền, kỹ năng kinh doanh, xây dựng thương hiệu... Khi xác định logic đặc biệt của sản phẩm văn hoá nghệ thuật, mới thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc phát triển văn hoá vì sự phát triển bền vững, tạo nên niềm tự hào dân tộc và giúp khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh.

Thứ hai là thiếu sự phối hợp trong phát triển công nghiệp văn hoá. Đến thời điểm này, sự phát triển các ngành công nghiệp văn hoá còn gặp khó khăn vì chưa thực sự có đầu mối đủ mạnh để định hướng sự phát triển này. Trong 12 ngành, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chỉ quản lý 5 ngành gồm điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, quảng cáo, du lịch văn hoá. Phát triển các ngành công nghiệp văn hoá có sự gắn bó với nhau để làm nên sức mạnh tổng hợp cho không chỉ các ngành này, mà còn cả với nền kinh tế của đất nước. Điện ảnh thì có thể tạo ra sự hấp dẫn cho du lịch văn hoá, tạo điều kiện phát triển thời trang, ẩm thực. Du lịch văn hoá lại giúp phát triển các lĩnh vực khác trong xã hội. Vì thế, việc thiếu đầu mối đủ tầm và phối hợp giữa các ngành với nhau khiến việc phát triển công nghiệp văn hoá gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự phối hợp công – tư cũng chịu nhiều cản trở, trong đó có cả việc thiếu niềm tin lẫn nhau và sự hỗ trợ chính sách. Những mô hình đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo đa phần là tự phát, đến từ niềm đam mê của các cá nhân yêu thích sáng tạo, mong muốn tìm ra điều mới mẻ cho cuộc sống và công việc kinh doanh. Nhưng bầu nhiệt huyết của họ sẽ gặp 14 khó khăn khi thiếu đi sự hỗ trợ từ chính quyền hay của chính các doanh nghiệp tương tự trong mạng lưới sáng tạo.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Thứ ba, giáo dục sáng tạo và kỹ năng kinh doanh là điểm nghẽn tiếp theo. Hệ thống giáo dục của ta có một số điểm chưa tương thích đối với hoạt động đổi mới sáng tạo. Dù có nhiều cải tiến, thay đổi theo hướng hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thực hành sáng tạo nhưng vì nhiều lý do, đặc biệt là khối lượng kiến thức cần học quá lớn, khiến cho các môn học liên quan đến sáng tạo, nghệ thuật chưa được coi trọng đúng mức. Trong khi đó, các môn học về nghệ thuật chẳng hạn, giúp học sinh, sinh viên rất nhiều trong việc hoàn thiện nhân cách, các kỹ năng mềm, và nhất là tinh thần sáng tạo. Thiếu đi tinh thần sáng tạo ấy ở các cấp học, ngay từ nhỏ, việc hình thành những công dân sáng tạo, những khách hàng tương lai của thị trường nghệ thuật sẽ gặp khó khăn. Không những thế, việc giảng dạy ở các trường nghệ thuật cũng nảy sinh những bất cập trong việc cập nhật với nền kinh tế thị trường. Tài năng nghệ thuật mới chỉ là yếu tố cần và phải cần đến kiến thức, hiểu biết về kỹ năng kinh doanh để tạo nên sự thành công của một nghệ sĩ. Viêc học vẽ có thể rất quan trọng nhưng việc xây dựng thương hiệu cho bản thân, tác phẩm hội họa và giao tiếp tốt với khách hàng mua tranh cũng quan trọng không kém. Đó chính là lý do tại sao các môn học về marketing nghệ thuật, kỹ năng kinh doanh, quan hệ công chúng lại nên được xem là những môn học chính ở các trường nghệ thuật (mà hiện nay chúng ta đang rất yếu). Ngoài ra, những điểm nghẽn về chính sách hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp văn hoá như địa vị pháp lý cho các doanh nghiệp sáng tạo, sử dụng đất, thuế, luật về bảo trợ và hiến tặng,... cũng là những rào cản khác khiến các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam chưa thể cất cánh được!

Năm 2005, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) thông qua Công ước về bảo vệ và phát huy các biểu đạt đa dạng của văn hóa (sau đây gọi là Công ước 2005). Công ước 2005 xác định các quốc gia có quyền chủ quyền về văn hóa và khuyến khích các quốc gia xây dựng các chính sách, hệ thống luật pháp để bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của mình. Công ước nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như một công cụ để bảo vệ và phát huy các biểu đạt đa dạng của văn hóa. Tinh thần Công ước 2005 đã được các quốc gia thành viên hưởng ứng, và tạo nên một 10 phong trào xây dựng chính sách, luật pháp về văn hóa, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến các chính sách liên quan đến phát triển công nghiệp văn hóa.

Tuy nhiên, để mong muốn này trở thành sự thật, còn rất nhiều việc phải làm, cần có sự tiếp sức, hỗ trợ từ phía Nhà nước để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Sự hỗ trợ này đầu tiên đến từ việc tạo điều kiện tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội, đặc biệt là các cơ quan quản lý Nhà nước đối với vị trí, vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa trong phát triển bền vững đất nước. Các ngành công nghiệp văn hóa là lĩnh vực tạo ra sự đột phá trong tư duy về quản lý văn hóa, khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa, hình thành nên sức mạnh mềm của dân tộc, tạo lợi thế cho quá trình hội nhập quốc tế. Khi có nhận thức đúng, các bộ, ngành và địa phương sẽ có những hành động cụ thể, phù hợp để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Cần có hệ thống chính sách pháp luật phù hợp, tạo hành lang pháp lý và môi trường hỗ trợ phát triển các ngành CNVH, đó có thể là luật về hiến tặng và tài trợ để huy động nguồn lực xã hội cho văn hóa nghệ thuật, các cơ chế về đất, thuế và địa vị pháp lý cho các tổ chức văn hóa nghệ thuật. Điều quan trọng để tạo ra các chính sách thu hút nguồn lực chính là việc chúng ta cần phải coi đầu tư vào văn hoá là đầu tư phát triển, không phải là lĩnh vực "tiêu tiền", thậm chí đem lại nhiều tiền cho đất nước. Chỉ từ nhận thức như vậy, chúng ta mới hình thành các chính sách thu hút nguồn lực phù hợp.

Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng giáo dục sáng tạo ở các cấp học, tạo ra mạng lưới liên kết giữa các tổ chức văn hóa nghệ thuật, không gian sáng tạo, tổ chức các sự kiện tầm cỡ khu vực và quốc tế cho các ngành công nghiệp văn hoá chủ chốt như điện ảnh (liên hoan phim quốc tế Hà Nội), âm nhạc (lễ hội âm nhạc Gió mùa Monsoon), thời trang (tuần lễ thời trang quốc tế Việt Nam), ẩm thực (tuần lễ ẩm thực quốc tế Hà Nội) để tạo điều kiện quảng bá, xây dựng thương hiệu cho các ngành CNVH là những giải pháp phù hợp hiện nay.

Lễ hội kỷ niệm 231 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Ảnh: Quang Vinh.

Lễ hội kỷ niệm 231 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa.

Tóm lại, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ giúp Việt Nam tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm – dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm công ăn việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Đây cũng là chiến lược để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự dồi dào của hàng hóa – dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế chính là sức mạnh mềm văn hóa quan trọng của quốc gia, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống người dân, cũng như mang văn hóa Việt Nam ra với thế giới, phát huy nội lực, quảng bá đất nước. Trong thời đại của kinh tế tri thức và công nghệ thông tin, công nghiệp văn hóa có khả năng biến văn hóa trở thành bộ phận quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp Việt Nam xây dựng được một nền kinh tế sáng tạo, thịnh vượng, tự tin và độc đáo. Chính vì vậy, đã đến lúc Việt Nam cần nhập cuộc với xu thế thời đại, vươn lên nắm lấy vị trí của một quốc gia có các ngành công nghiệp văn hóa phát triển.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín (Ban Chấp hành Trung ương khóa XI) đã xác định nhiệm vụ thứ 5 là phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng này, và coi đây là một vấn đề hết sức quan trọng và được coi là một trong những khâu đột phá trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Triển khai Nghị quyết Đại hội, ngày 08 tháng 9 năm 2016, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (sau đây gọi tắt là Chiến lược). Chiến lược đã xác định 12 ngành ngành công nghiệp văn hóa gồm: 1. Quảng cáo; 2. kiến trúc; 3. phần mềm và các trò chơi giải trí; 4. thủ công mỹ nghệ; 5. thiết kế; 6. điện ảnh; 7. xuất bản; 8. thời trang; 9. nghệ thuật biểu diễn; 10. mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; 11. truyền hình và phát thanh; 12 du lịch văn hóa; từ đó Chiến lược đưa ra 4 quan điểm phát triển gồm: 1. Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; 2. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ và bản quyền trí tuệ; khai thác tối đa yếu tố kinh tế của các giá trị văn hóa; 3. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy được lợi thế của Việt Nam, phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường; được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các khâu sáng tạo, sản xuất, phân phối, phổ biến và tiêu dùng; 4. Phát triển công nghiệp văn hóa gắn liền với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế.

Giá trị văn hóa Việt Nam nhìn từ các chiều cạnh giá trị quốc gia, vùng, miền, tộc người

 Giá trị là sản phẩm của quá trình tư duy, sản xuất tinh thần của con người, là yếu tố cốt lõi nhất của văn hóa. Giá trị văn hóa là một hình thái của đời sống tinh thần, được phản ánh và kết tinh đời sống văn hóa của con người, giúp điều tiết hành vi và định hướng sự phát triển tới chân - thiện - mỹ, góp phần tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của các quốc gia - dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp; nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ. Do vậy, giá trị văn hóa là một hình thức của giá trị xã hội, gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người, sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội.

Giá trị văn hóa (cultural value) do con người ở mỗi xã hội nhất định sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hóa đã hình thành thì nó lại có vai trò định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con người trong các xã hội ấy. Nó cũng chính là một thứ vốn xã hội (social capital)(1). Khi đó, giá trị kết nối con người với nhau thông qua việc cùng chia sẻ giá trị, tạo nên tình đoàn kết và sức mạnh; đồng thời, cũng có thể tạo nên những biểu tượng thể hiện những giá trị đó. Những nhân vật lịch sử, như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung... không chỉ là những con người cụ thể, mà quan trọng hơn, đại diện cho những giá trị mà dân tộc tôn vinh. Như thế, khi nói bản chất của giá trị hay nói tới vai trò định hướng, chi phối, điều tiết của hệ giá trị thì về thực chất chúng ta đang nói tới mối quan hệ đa chiều của con người. Cũng như văn hóa, giá trị được sản sinh từ các mối quan hệ con người với tự nhiên, với xã hội, với chính cả con người.

Giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng (tộc người, quốc gia...) bao giờ cũng tạo nên một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong mối quan hệ, tác động hữu cơ với nhau; giá trị này liên hệ, bổ trợ giá trị kia. Chúng ta nói hệ giá trị (value system) hay bảng giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng thì thường hàm hai ý nghĩa: Một là, các giá trị riêng lẻ liên kết nhau tạo nên một hệ thống các giá trị; hai là, có sự sắp đặt trước sau, độ nhấn về tầm quan trọng của từng nhân tố giá trị trong một bảng giá trị. Ví dụ, với người Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là nhân tố hàng đầu trong bảng (hệ) giá trị dân tộc, nhưng với người Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản hay một số dân tộc khác thì có thể chủ nghĩa yêu nước lại được xếp ở các vị trí khác... Thường thì nhiều dân tộc đều có chung những giá trị, như yêu nước, cần cù, tính cộng đồng..., tuy nhiên, trong mỗi dân tộc thì việc xếp đặt thứ tự ưu tiên của từng giá trị ấy trong bảng giá trị có thể khác nhau, tùy vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”(2).

Qua những định nghĩa trên có thể thấy rằng, yếu tố cốt lõi của văn hóa là hệ giá trị. Hay nói một cách khái quát thì văn hóa là hệ giá trị chính thống của một xã hội. Hệ giá trị chuyển thành các chuẩn mực xã hội, từ đó định hướng sự lựa chọn trong hành động của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh to lớn đối với cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo. Dù vậy, khủng hoảng giá trị sẽ xuất hiện khi các giá trị cũ chưa mất hẳn, các giá trị mới chưa định hình rõ ràng. Khủng hoảng giá trị dẫn đến các khủng hoảng khác trong xã hội, như khủng hoảng kinh tế, giáo dục,... trong gia đình và nhiều mối quan hệ khác.

Giá trị văn hóa thường thấm sâu vào trong nhận thức, tư tưởng của con người, cộng đồng nên có tính chất hướng dẫn các hành vi của con người. Vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi quốc gia, mỗi vùng, miền và từng tộc người đều hình thành nên những giá trị văn hóa để tạo ra sự thống nhất về nhận thức và định hướng hành vi cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Giá trị văn hóa cũng mang tính tương đối. Vì vậy, đánh giá về mặt giá trị văn hóa của một sự vật, hiện tượng thì cần phải đặt trong tọa độ không gian, thời gian và chủ thể văn hóa. Nếu không tính đến những yếu tố đó, chúng ta rất khó đo đếm, đánh giá được tính giá trị hay phản giá trị của các hiện tượng xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa của mỗi quốc gia, vùng, miền hay tộc người nhất định. Ví dụ, “trung với vua” là một giá trị của văn hóa Việt Nam thời phong kiến, nhưng nó không phải là giá trị trong xã hội Việt Nam hiện đại khi nước ta không còn tồn tại chế độ quân chủ. Giá trị yêu nước thể hiện khác nhau ở những nhóm xã hội khác nhau, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Làng Việt ở miền Trung dù có nhiều nét giống làng Việt ở miền Bắc nhưng cũng có nhiều khác biệt theo kiểu quần cư theo chòm, xóm, thích ứng với duyên hải nhỏ, hẹp(3). Chưa kể tiếp cận từ phía các cá nhân, điều có ý nghĩa, giá trị với người này chưa chắc đã có ý nghĩa, giá trị với người khác. Bản thân mỗi người, trong những giai đoạn, hoàn cảnh nhất định cũng ưu tiên giá trị này hay giá trị kia.

Trong những hoàn cảnh lịch sử và xã hội cụ thể, mỗi dân tộc đều tồn tại hệ giá trị tổng quát và những hệ giá trị bộ phận. Hệ giá trị tổng quát bao gồm những giá trị chung nhất, mang tính phổ quát, có vai trò định hướng đối với tư duy và hành động của cả cộng đồng. Ví dụ, GS. Trần Văn Giàu đã nêu 7 giá trị mang tính tổng quát nhất của dân tộc Việt Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa(4). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu những đức tính nổi bật của bản sắc Việt Nam, cũng có thể hiểu đó là các giá trị của con người Việt Nam: Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI cũng nhấn mạnh, trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Những thập niên vừa qua, một số ý kiến đưa ra hệ giá trị chung của châu Á: hiếu học, cộng đồng, cần cù, huyết thống(5). Bên cạnh những giá trị tổng quát như vậy, trong từng lĩnh vực của đời sống, hoạt động của con người và từng nhóm xã hội thì người ta lại đúc rút nên các giá trị, có vai trò định hướng trong từng lĩnh vực riêng lẻ. Ví dụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đang lựa chọn 4 phẩm chất, đồng thời cũng là 4 giá trị của phụ nữ Việt Nam hiện đại là: tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang.

Từ cách tiếp cận quốc gia, giá trị văn hóa góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc, một yếu tố cấu thành nên bản lĩnh dân tộc. Nhờ đó, giá trị văn hóa quốc gia hình thành nên sức mạnh cho đất nước. Quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng chính là quá trình kết tinh giá trị văn hóa Việt Nam. Như trên đã trình bày, nếu GS. Trần Văn Giàu đã đưa ra 7 giá trị phổ quát của dân tộc Việt Nam thì GS. Nguyễn Hồng Phong cũng cho rằng lòng yêu nước, yêu quê hương là giá trị cơ bản nhất(6), bên cạnh đó là những giá trị khác, như lòng nhân ái, sự gắn bó cộng đồng, trọng đạo đức, học thức và yêu cái đẹp. Tuy vậy, GS. Nguyễn Hồng Phong đã nhìn nhận được giá trị mới, đang hình thành và ngày càng rõ nét trong xã hội Việt Nam, đó là sự bình đẳng, công bằng xã hội, vai trò của cá nhân và sự thành đạt. Đây là giá trị mới mẻ đối với một xã hội Việt Nam phong kiến trước đây. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng cũng đưa ra những đặc trưng thể hiện giá trị văn hóa của đất nước.

Thực tế, từ lâu, các quốc gia đã xây dựng hệ giá trị văn hóa cho riêng mình. Ví dụ, thời phong kiến, Trung Quốc đã hình thành hệ giá trị văn hóa dựa trên mong muốn của con người là ngũ phúc (phúc, lộc, thọ, khang, ninh), hay dựa trên phẩm chất của con người gồm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Trong văn hóa Hy Lạp - La Mã xưa thì hệ giá trị đó là chân, thiện, mỹ. Đặc biệt, trong những giai đoạn biến động của lịch sử, các quốc gia càng mong muốn định hình hệ giá trị, tạo điều kiện cho sự thống nhất nhận thức, hành động xây dựng quốc gia. Cách mạng tư sản Pháp (năm 1789) thì đề cao giá trị tự do, bình đẳng, bác ái. Người Mỹ đề cao các yếu tố như: sự thành đạt, phù hợp với ngoại cảnh, dân chủ, hoạt động và có công việc, hướng về đạo đức, nhân đạo, tính hiệu quả và tính thực tế, tiến bộ, tiện nghi vật chất, bình đẳng, tự do, khoa học và tinh thần hợp lý thế tục, tinh thần dân tộc và yêu nước, nhân cách cá nhân, các đề tài về siêu nhiên...(7). Chính những giá trị đó đã góp phần định hướng và làm ổn định xã hội trong khoảng thời gian dài.

Từ cách tiếp cận vùng, miền có thể thấy, chính từ những đặc điểm riêng có về tự nhiên, lịch sử, tộc người, quá trình chung sống lâu dài với nhau đã khiến mỗi vùng, miền có bản sắc riêng và từ đó hình thành những giá trị khác nhau. Thí dụ, “nước, phân, cần, giống” là hệ giá trị trong canh tác nông nghiệp truyền thống của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ hay hệ canh tác “luân canh, hưu canh, xen canh, gối canh” của cư dân canh tác nương rẫy ở miền núi. Người Mông sinh sống trên cao nguyên đá khô cằn lại quen thuộc với thổ canh hốc đá... Hay theo GS Trần Ngọc Thêm thì hệ thống tính cách văn hóa Tây Nam Bộ có 6 đặc trưng: tính sông nước, tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính bao dung, tính thiết thực và tính mở thoáng(8); hay đặc trưng tính cách người Hà Nội xưa là trọng học vấn, trọng nhân cách, trọng bản lĩnh khí tiết, trọng tài hoa, trọng tình cảm, đa tình(9).

Từ cách tiếp cận tộc người, giá trị văn hóa của mỗi tộc người cũng có sự khác biệt, trước tiên thông qua các biểu tượng văn hóa. Mỗi biểu tượng đều chứa đựng các giá trị nhất định. Đối với người Việt Nam từ xưa tới nay, các Vua Hùng là một biểu tượng thiêng liêng của dân tộc, mang giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, thể hiện tâm thức “hướng về cội nguồn”, “uống nước nhớ nguồn”, tinh thần cố kết dân tộc, tạo nên sức mạnh lớn lao của toàn dân tộc trong các cuộc đấu tranh chống thiên tai và địch họa. Thánh Gióng lại là biểu tượng chứa đựng giá trị tinh thần chống giặc ngoại xâm, là ý chí vươn lên mạnh mẽ của dân tộc. Sơn Tinh là biểu tượng thể hiện giá trị tinh thần chinh phục thiên nhiên, bảo vệ và mở mang đất nước. Trong khi đó, giá trị văn hóa của các tộc người thiểu số Việt Nam là những thành tố văn hóa được biểu tượng hóa hết sức sinh động trong các sinh hoạt tín ngưỡng, như then Tày, mo Mường, tục ăn trâu của một số tộc người ở Tây Nguyên, lễ hội Ka-tê của người Chăm... Giá trị văn hóa được thể hiện qua những phương tiện thực hành tín ngưỡng, như đàn lễ, tranh thờ, đạo cụ, nghệ thuật trang trí, biểu tượng vàng mã, trang phục, nhạc cụ, sách cúng, vật lễ, ẩm thực... kết tinh trong các hình thức diễn xướng phục vụ tín ngưỡng, như hát múa, âm nhạc, thể hiện ở lời kinh, lời giáo huấn, các luật lệ, phép tắc đối với người thực hành nghi lễ và cả cộng đồng.

Tuy có sự khác biệt như vậy, nhưng giá trị văn hóa từ cách tiếp cận quốc gia, vùng, miền hay tộc người đều có sự thống nhất trong đa dạng, theo đó, các giá trị của các cộng đồng nhỏ luôn tôn trọng các giá trị của cộng đồng lớn. Sự thống nhất trong đa dạng các giá trị này vừa tạo ra những sắc thái văn hóa phong phú, hấp dẫn, góp phần hình thành nên “tài sản văn hóa”, từ đó tạo ra những lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, miền, vừa bảo đảm sự ổn định của văn hóa quốc gia, sự phát triển bền vững của đất nước.

Như vậy, có thể khẳng định, giá trị văn hóa là sản phẩm của con người, phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa mỗi thời đại, giúp định hướng mục tiêu, phương thức hành động của mỗi con người và giúp điều tiết sự phát triển chung của cả xã hội. Từ chiều cạnh giá trị quốc gia, vùng, miền, tộc người, việc xây dựng giá trị văn hóa cần phải kết hợp giữa bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với lựa chọn tiếp thu tinh hoa giá trị văn hóa thế giới, phù hợp với bối cảnh phát triển đất nước. Cần chấp nhận thực tiễn rằng, sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế và ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông mới sẽ tác động rất mạnh mẽ đến giá trị văn hóa ở các phương diện quốc gia, vùng, miền, tộc người, theo đó, một số giá trị văn hóa cũ sẽ mất đi, một số giá trị mới sẽ dần định hình. Trong quá trình đó, sẽ có những giai đoạn khủng hoảng giá trị ở quy mô quốc gia, vùng, miền và tộc người, dẫn đến những tác động tiêu cực đối với xã hội. Nhận thức được tính quy luật của sự hình thành và phát triển giá trị văn hóa, với nước ta hiện nay, cần có các biện pháp khắc phục những tác động tiêu cực này, thông qua đó, các giá trị văn hóa Việt Nam, với giá trị cốt lõi chân - thiện - mỹ, sẽ giúp khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đồng thời định hướng, điều tiết sự phát triển bền vững của xã hội. Bên cạnh đó, cần xây dựng giá trị văn hóa quốc gia - gia đình - con người Việt Nam trong thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế./.

--------------------

(1) Xem: Ngô Đức Thịnh: Tiếp cận nghiên cứu nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội, Tạp chí Dân tộc học, số 4 – 2008
(2) Ủy ban Quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa: Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1992, tr. 23
(3) Xem: Lâm Bá Nam: Nghiên cứu tộc người ở Việt Nam: Văn hóa và phát triển, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020, tr. 69
(4) Xem: Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980
(5) Xem: Hồ Sĩ Quý: Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
(6) Xem: Nguyễn Hồng Phong: “Văn hóa và phát triển”, in trong sách Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại, Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoàn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999
(7) Xem: Ngô Đức Thịnh: Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr. 24
(8), (9) Trần Ngọc Thêm: Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng (tái bản có sửa chữa), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, tr. 226, 211

HỘI NGHỊ BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG CÁC NƯỚC ASEAN LẦN THỨ 16 THÔNG QUA TUYÊN BỐ CHUNG

 

Trưa 22-6, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) lần thứ 16 đã bế mạc. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chung của ADMM-16 về “Đoàn kết vì một nền an ninh hài hòa”. Đại tướng Phan Văn Giang , Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu đoàn Đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam tham dự hội nghị.

          Tại hội nghị, các đại biểu đã trao đổi về tình hình an ninh, quốc phòng khu vực và quốc tế. Các đại biểu nhất trí tăng cường hợp tác xử lý các thách thức khác ở khu vực, như: Khủng bố, thảm họa thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, an ninh mạng, xây dựng lòng tin và các vấn đề liên quan đến an ninh biển, an toàn tự do hàng hải và hàng không. Các đại biểu cũng đề cập tới việc thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc giữa các nước ASEAN. Hội nghị cũng nhất trí công nhận vai trò của các tổ chức quốc phòng trong giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống; tái khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN với tư cách là động lực chính trong cấu trúc an ninh khu vực đang phát triển.

Description: http://86.2.58.100:8081/IMAGE_STORE/ltplan/CQBTL/KHAC/637915891950145434-large-111.jpg

Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN lần thứ 16

          Liên quan đến an ninh biển, các đại biểu nhắc lại tầm quan trọng của việc sớm hoàn thiện Bộ Quy tắc về ứng xử ở Biển Đông (COC), đánh giá cao tiến bộ trong đàm phán COC thời gian qua và khẳng định cam kết của tất cả các bên trong thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

          Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận về vấn đề tăng cường chia sẻ thông tin giữa sáng kiến Hợp tác thực thi pháp luật trên biển khu vực Đông Nam Á (SEAMLEI) và ADMM+ trong lĩnh vực an ninh hàng hải; về việc nghiên cứu lịch sử quân sự nhằm thúc đẩy hòa bình bền vững. ADMM-16 cũng thông qua hoạt động hợp tác với các nước Cộng và đề cập đến một số nội dung khác như chuẩn bị cho Hội nghị hẹp Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM Retreat) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ 9 sẽ được tổ chức vào tháng 11-2022.

          Hội nghị ADMM-16 đã thông qua các sáng kiến mới trong ADMM như: Tài liệu khái niệm về tăng cường hợp tác giữa lực lượng quốc phòng các nước ASEAN trong kiểm soát dịch bệnh xuyên biên giới; Tài liệu khái niệm về tăng cường cơ chế hỗ trợ nữ quân nhân ASEAN tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình; Tài liệu khái niệm về thiết lập quan hệ hợp tác giữa các học viện quốc phòng ASEAN (ADEIC); Điều khoản tham chiếu Trung tâm Chất lượng cao ADMM về an ninh mạng và thông tin (ACICE); Tầm nhìn Phnom Penh về vai trò của cơ quan quốc phòng các nước ASEAN trong hỗ trợ phục hồi sau dịch Covid-19.

 Description: http://86.2.58.100:8081/IMAGE_STORE/ltplan/CQBTL/KHAC/637915891950145434-large-22bt%20hoi%20nghi.jpg

 

Bộ trưởng Phan Văn Giang dẫn đầu đoàn Đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam

tham dự hội nghị.

 

          Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chung của ADMM-16 về “Đoàn kết vì một nền an ninh hài hòa”. Tuyên bố chung của ADMM-16 tái khẳng định việc tuân thủ các nguyên tắc và mục tiêu cơ bản được nêu trong Hiến chương ASEAN và Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) nhằm tăng cường vai trò trung tâm, sự đoàn kết của ASEAN và duy trì trật tự khu vực dựa trên các luật lệ phù hợp với luật pháp quốc tế vì lợi ích của người dân; cũng như vai trò trung tâm của ASEAN là động lực chính trong việc tăng cường hợp tác quốc phòng-an ninh và các biện pháp xây dựng lòng tin với các đối tác bên ngoài, với mục tiêu chung là duy trì hòa bình, an ninh và thịnh vượng trong một cấu trúc khu vực rộng mở, minh bạch và dung nạp.

          Tuyên bố chung của ADMM-16 nhấn mạnh sự cần thiết duy trì và thúc đẩy môi trường thuận lợi cho việc sớm hoàn tất một COC hiệu quả và thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Tuyên bố chung đồng thời nhấn mạnh việc thực thi đầy đủ và hiệu quả DOC, hoan nghênh các sáng kiến xây dựng lòng tin và các hoạt động trong khuôn khổ khác DOC nhằm tăng cường thông tin liên lạc và sự tin cậy lẫn nhau.

 Description: http://86.2.58.100:8081/IMAGE_STORE/ltplan/CQBTL/KHAC/637915891950145434-large-33bt%20hunsen.jpg

 

Bộ trưởng Phan Văn Giang và Thủ tướng Campuchia Hun Sen

 

          Cũng trong ngày 22-6, Bộ trưởng Phan Văn Giang cùng trưởng đoàn các nước tham dự hội nghị đã tới chào xã giao Thủ tướng Chính phủ Campuchia Hun Sen. Tại cuộc gặp, Bộ trưởng Quốc phòng Brunei Bin Haji Md Yussof đã thay mặt trưởng đoàn các nước ASEAN báo cáo về kết quả Hội nghị ADMM-16. Thủ tướng Campuchia Hun Sen đánh giá cao và hoan nghênh Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN đã đến Campuchia để tham dự Hội nghị sau thời gian gián đoạn do dịch Covid-19. Những kết quả mà hội nghị lần này đạt được, đặc biệt là sự tham gia đầy đủ của lãnh đạo Bộ Quốc phòng 10 nước ASEAN, thể hiện nỗ lực của Bộ Quốc phòng các nước ASEAN trong việc tăng cường hợp tác thiết thực, khẳng định sự đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN.

 

VTT: ST Theo nguồn qdnd.vn